Thực trạng cạnh tranh ngành du lịch Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI)

TÓM TẮT

Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một trong những ngành lớn nhất trên thế

giới cả về doanh thu lẫn tác động của nó đến nền kinh tế của các quốc gia. Trong năm 2014, ngành

du lịch chiếm 10% tổng GDP của thế giới, tương đương với 7,6 tỷ USD, đồng thời giải quyết việc

làm cho hơn 277 triệu lao động trên toàn cầu (World Travel and Tourism Council - WTTC, 2015).

Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của ngành trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay.

Xu hướng này cũng sẽ mở ra không chỉ nhiều cơ hội mà còn cả những thách thức trong quá trình

phát triển ngành du lịch ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, ngành du lịch Việt Nam đang phải đương đầu với

những khó khăn, đặc biệt là vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo lợi thế so sánh, giúp ngành

du lịch nước nhà có thể thu hút được nhiều du khách cũng như các nhà đầu tư trong tương lai. Vì

lý do này, bài nghiên cứu hướng đến việc xác định những nguyên nhân làm cản trở năng lực cạnh

tranh của ngành du lịch Việt Nam dựa trên chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI).

pdf 7 trang phuongnguyen 1840
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng cạnh tranh ngành du lịch Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cạnh tranh ngành du lịch Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI)

Thực trạng cạnh tranh ngành du lịch Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI)
27
Thực trạng cạnh tranh . . .
THỰC TRẠNG CẠNH TRANH NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM 
THÔNG QUA CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH LỮ HÀNH 
VÀ DU LỊCH (TTCI)
Nguyễn Hoàng Lê * 
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một trong những ngành lớn nhất trên thế 
giới cả về doanh thu lẫn tác động của nó đến nền kinh tế của các quốc gia. Trong năm 2014, ngành 
du lịch chiếm 10% tổng GDP của thế giới, tương đương với 7,6 tỷ USD, đồng thời giải quyết việc 
làm cho hơn 277 triệu lao động trên toàn cầu (World Travel and Tourism Council - WTTC, 2015). 
Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của ngành trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. 
Xu hướng này cũng sẽ mở ra không chỉ nhiều cơ hội mà còn cả những thách thức trong quá trình 
phát triển ngành du lịch ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. 
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, ngành du lịch Việt Nam đang phải đương đầu với 
những khó khăn, đặc biệt là vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo lợi thế so sánh, giúp ngành 
du lịch nước nhà có thể thu hút được nhiều du khách cũng như các nhà đầu tư trong tương lai. Vì 
lý do này, bài nghiên cứu hướng đến việc xác định những nguyên nhân làm cản trở năng lực cạnh 
tranh của ngành du lịch Việt Nam dựa trên chỉ số năng lực cạnh tranh lữ hành và du lịch (TTCI).
Từ khóa: năng lực cạnh tranh, ngành du lịch, TTCI
INDUSTRY COMPETITIVE PATTERNS TRAVEL VIETNAM THROUGH 
COMPETITIVENESS INDICATOR TRAVEL AND TOURISM (TTCI)
ABSTRACT
In today’s global economy, tourism is one of the world’s largest industries in both of revenue 
and economic impacts. The economic impacts of the industry showed that, in 2014, the industry 
contributed 10% of global GDP, equivalent to the value of over 7.6 trillion USD, and accounted for 
277 million jobs (WTTC, 2015). Over the next ten years, the tourism industry is expected to grow 
by an average of 4% annually, taking it to 10% of global GDP, or approximately 10 trillion USD. 
By 2022, it is predictable that the industry will account for 328 million jobs, or 1 in every 10 jobs 
all over the world (WTTC, 2012). This trend, therefore, will create not only more opportunities but 
also more challenges to build up the sector in many countries, especially a developing country like 
Vietnam. However, the tourism industry in Vietnam is having to face difficulties and challenges, 
especially the issue of inceasing the competitiveness of the industry in order to create the competitive 
advantage that helping to attract more customers as well as investors in the future. This research, 
therefore, aims to identify the factors that influenced the industry’s competitiveness of the country 
through the Travel and Tourism Competitiveness Index (TTCI).
Keywords: competitiveness, tourism, TTCI
* Thạc sĩ, giảng viên Khoa Kinh tế, trường Đại học Kinh tế TP.HCM
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Khái quát về thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế tại Việt Nam những năm 
gần đây
Biểu đồ 1: Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam 2008-2014
 Nguồn: Tổng cục Du lịch 2008-2014 và tổng hợp của tác giả
Biểu đồ trên cho thấy nhìn chung khách 
du lịch đến Việt Nam tăng dần qua các năm, 
ngoại trừ năm 2009 do ảnh hưởng suy thoái 
kinh tế toàn cầu dẫn đến lượng du khách đến 
Việt Nam có xu hướng giảm một cách tương 
đối (khoảng 12% so với năm 2008). Tuy 
nhiên, trong vài năm gần đây (từ 2011) thì 
tốc độ tăng trưởng có chậm lại, điển hình năm 
2014 vừa qua, lượt du khách quốc tế đến Việt 
Nam chỉ tăng khoảng 3,8% so với năm 2013. 
Bên cạnh đó, trong những tháng đầu năm 
2015, lượng khách quốc tế đến Việt Nam có 
chiều hướng chững lại, đặc biệt có dấu hiệu 
suy giảm đáng kể so với năm trước. Theo đó, 
lượng khách quốc tế trong 4 tháng đầu năm 
2015 chỉ đạt 2,7 triệu lượt, giảm 12,2% so 
với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân khách 
quan có thể kể đến đó là do sự kiện Trung 
Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái 
phép tại biển Đông cũng như sự trượt giá của 
đồng rouble của Nga. Điều này khiến lượng 
khách của hai thị trường chính là Trung Quốc 
và Nga có sự sụt giảm mạnh. Cụ thể là ở thị 
trường Nga giảm 27%, còn thị trường Trung 
Quốc giảm gần 40% lượng khách. Do vậy, 
việc tìm ra nguyên nhân của sự suy giảm này 
là cần thiết, đặc biệt liên quan đến vấn đề về 
năng lực cạnh tranh của ngành, để từ đó có thể 
đưa ra các hàm ý chính sách trong ngắn và dài 
hạn nhằm khắc phục tình trạng trên.
2. Chỉ số năng lực cạnh tranh lữ 
hành và du lịch (Travel and Tourism 
Competitiveness Index - TTCI) - Áp dụng 
cho trường hợp Việt Nam
TTCI là một khái niệm được đưa ra lần 
đầu tiên vào năm 2007 bởi Diễn đàn Kinh tế 
thế giới (World Economic Forum - WEF). 
Chỉ số này là một công cụ đo lường các yếu tố 
ảnh hưởng đến sự phát triển ngành du lịch tại 
các quốc gia và được đánh giá dựa trên thang 
điểm từ 1 đến 7. Thông thường có 3 danh mục 
chính để xác định TTCI, bao gồm 1) khung 
pháp lý, 2) môi trường kinh doanh và cơ sở hạ 
tầng, 3) nguồn nhân lực, văn hóa, tài nguyên. 
Tuy nhiên trong năm 2015 số lượng danh 
mục đã có sự thay đổi, mở rộng lên 4 danh 
mục với nhiều tiêu chí khác nhau để đánh giá 
năng lực cạnh tranh ngành. Ngoài ra, nếu như 
29
Thực trạng cạnh tranh . . .
năm 2007, TTCI được đo lường cho 124 nền 
kinh tế lớn và đang nổi, thì cho đến nay tiêu 
chí này đã được áp dụng cho 141 nền kinh tế 
trên toàn cầu, chứng tỏ sự ứng dụng rộng rãi 
của công cụ, đặc biệt hữu hiệu trong công tác 
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành du 
lịch và lữ hành.
Theo thống kê của WEF vào năm 2015, 
Tây Ban Nha là quốc gia được đánh giá cao 
nhất về chỉ số TTCI với điểm số đạt 5,3, xếp 
sau là Pháp và Đức. Bên cạnh đó, Úc và Nhật 
Bản là 2 quốc gia châu Á nằm trong top 10 với 
các điểm số lần lượt là 5,0 và 4,9. Tại khu vực 
Đông Nam Á thì Singapore là quốc gia dẫn 
đầu và Myanmar là quốc gia đứng cuối bảng 
xếp hạng (Brunei không nằm trong nghiên 
cứu của WEF trong năm 2015). Cụ thể điểm 
và xếp hạng của các nước Đông Nam Á thể 
hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Chỉ số TTCI và xếp hạng của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á năm 2014
STT Quốc gia Điểm (trên 7) Xếp hạng thế giới
1 Singapore 4,9 11
2 Malaysia 4,4 25
3 Thái Lan 4,3 35
4 Indonesia 4,0 50
5 Philippines 3,6 74
6 Việt Nam 3,6 75
7 Lào 3,3 95
8 Cambodia 3,2 105
9 Myanmar 2,7 134
Nguồn: WEF (2015)
So với năm 2013 thì Việt Nam đã tăng 
5 bậc trên bảng xếp hạng (từ 80 lên 75), tuy 
nhiên lại giảm về điểm số (từ 3,95 xuống 3,6) 
và bị Philippines qua mặt, do quốc gia này có 
bước nhảy vọt 20 bậc (từ 94 lên 74) nhờ vào 
những chính sách phát triển du lịch toàn diện 
và hiệu quả. Do đó, xét về năng lực cạnh tranh 
của ngành trong khu vực, Việt Nam hiện chỉ 
xếp trên 3 nước Lào, Cambodia và Myanmar. 
Vậy đâu là nguyên do?
Như đã trình bày ở trên, hiện nay TTCI 
được chia thành bốn danh mục chính, bao gồm 
1) môi trường kinh doanh, 2) các chính sách 
và quy định, 3) cơ sở hạ tầng, 4) tài nguyên 
thiên nhiên và văn hóa. Bốn danh mục chính 
này lại được đánh giá thông qua 14 danh mục 
nhỏ và đo lường bởi tổng cộng 93 tiêu chí 
khác nhau. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, 
tác giả lựa chọn ra các tiêu chí được xếp hạng 
và/hoặc điểm số đánh giá thấp so với các nước 
trong khu vực và mặt bằng chung của thế giới, 
từ đó nhận diện các điểm yếu còn tồn đọng 
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của 
ngành du lịch tại Việt Nam. Cụ thể, những 
điểm yếu sẽ được chia thành ba nhóm: 1) môi 
trường kinh doanh; 2) chính sách và quy định; 
và 3) cơ sở hạ tầng. Lưu ý rằng ở danh mục “tài 
nguyên thiên nhiên và văn hóa”, do chỉ có một 
tiêu chí bị đánh giá thấp tại Việt Nam là “chất 
lượng môi trường tự nhiên’ nên sẽ được gộp 
chung vào danh mục “chính sách và quy định”.
Thứ nhất, đối với môi trường kinh doanh 
ngành du lịch, có 6 tiêu chí bị đánh giá thấp 
được thể hiện qua bảng sau:
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 2: Các tiêu chí về môi trường kinh doanh ngành du lịch bị đánh giá thấp tại Việt Nam
Tiêu chí Điểm Xếp hạng 
thế giới
1.1 Thời gian cần thiết để bắt đầu kinh doanh (ngày) 34 119
1.2 Hiệu quả của khung pháp lý khi xảy ra tranh chấp 3.4 89
1.3 Độ tin cậy về lực lượng an ninh (công an, cảnh sát) 3,7 99
1.4 Chất lượng nguồn nhân lực 5 85
1.5 Khả năng tìm kiếm lao động có kỹ năng 3,4 107
1.6 Đối xử với khách hàng 4,1 104
Nguồn: WEF (2015) và tổng hợp của tác giả
Hiện nay, với xu hướng toàn cầu hóa và 
hội nhập, các doanh nghiệp du lịch và lữ hành 
đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng. Tính 
đến tháng 6 năm 2014, trên cả nước đã có 
1.383 doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là các 
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần 
và doanh nghiệp tư nhân (Vụ lữ hành – Tổng 
cục Du lịch, 2014). Tuy nhiên, việc thành lập 
và đi vào hoạt động của các doanh nghiệp vẫn 
còn gặp nhiều khó khăn do thủ tục pháp lý 
còn rườm rà và kéo dài, trung bình phải mất 
34 ngày để đi vào hoạt động tính từ lúc nộp 
hồ sơ (tiêu chí 1.1). Hơn nữa, sự nở rộ của 
các doanh nghiệp du lịch và lữ hành cũng dẫn 
đến một số tình trạng như tranh giành khách 
hoặc phá giá, tuy nhiên việc xử lý các tranh 
chấp này vẫn chưa tốt với khung pháp lý chưa 
rõ ràng (tiêu chí 1.2). Điều này cũng dẫn đến 
sự tin cậy của doanh nghiệp đối với các lực 
lượng chức năng như công an, cảnh sát, tòa án 
là chưa cao (tiêu chí 1.3).
Bên cạnh đó, vấn đề về chất lượng nguồn 
nhân lực phục vụ cho ngành du lịch, đặc 
biệt là đối với khách nước ngoài, vẫn là một 
thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp 
(tiêu chí 1.4). Đội ngũ nhân lực phục vụ 
trong ngành tại Việt Nam có trình độ chuyên 
môn không cao, kiến thức về marketing cũng 
như khả năng đưa ra các chương trình tour 
hấp dẫn với các sản phẩm du lịch đa dạng là 
còn kém, thiếu sáng tạo. Nguyên nhân là do 
việc tìm kiếm nguồn nhân lực có trình độ và 
kỹ năng còn khó khăn (tiêu chí 1.5). Cụ thể, 
đối với đội ngũ hướng dẫn viên quốc tế - vốn 
được xem là sứ giả du lịch - thì trình độ ngoại 
ngữ chưa tốt cũng là một rào cản lớn, đặc 
biệt với các ngoại ngữ hiếm. Theo thống kê 
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), 
tính đến năm 2013, đa phần các hướng dẫn 
viên chỉ sử dụng được một trong năm ngoại 
ngữ thông dụng là Anh, Trung Quốc, Pháp, 
Nhật và Nga. Chỉ có số ít các hướng dẫn 
viên sử dụng được các ngoại ngữ ít thông 
dụng hơn như Tháilan, Hàn Quốc, Ý; còn 
với các ngoại ngữ hiếm như Indonesia, Lào, 
Campuchia, Ba Lan, Hungary thì số hướng 
dẫn viên sử dụng được các thứ tiếng này chỉ 
đếm trên đầu ngón tay. Chính vì lý do trên, 
khả năng đáp ứng sự hài lòng của du khách 
là còn thấp (tiêu chí 1.6). 
Thứ hai, đối với các chính sách và quy 
định trong ngành, có 8 tiêu chí bị đánh giá 
thấp được thể hiện qua bảng 3:
31
Thực trạng cạnh tranh . . .
Bảng 3: Các tiêu chí về chính sách và quy định trong ngành du lịch bị đánh giá thấp tại Việt Nam
Tiêu chí Điểm Xếp hạng 
thế giới
2.1 Sự ưu tiên của Chính phủ đối với ngành 4,8 93
2.2 Tỷ trọng chi Chính phủ cho ngành so với tổng ngân sách (%) 1,4 122
2.3 Mức độ hiệu quả các chiến lược ngành của Chính phủ (%) 53,4 115
2.4 Hiệu quả marketing trong việc thu hút du khách 3,9 102
2.5 Yêu cầu về visa nhập cảnh cho du khách (thang điểm 100) 13 119
2.6 Chất lượng môi trường tự nhiên 3,2 132
2.7 Tính nghiêm ngặt của các quy định về môi trường 3,0 128
2.8 Sự tuân thủ các quy định về môi trường 3,2 112
Nguồn: WEF (2015) và tổng hợp của tác giả
Sự ưu tiên tập trung cho việc phát triển ngành du lịch tại Việt Nam vẫn còn bị bỏ ngỏ (tiêu 
chí 2.1), thể hiện qua việc tỷ trọng chi Chính phủ cho ngành chỉ chiếm 1,4% tổng chi ngân sách 
(tiêu chí 2.2). Trong khi đó, con số này ở các nước láng giềng trong khu vực như Thái Lan, 
Philippines hay Singapore lần lượt là 2,8%, 6,1% và 9%, cao hơn rất nhiều so với Việt Nam. 
Điều này là bất hợp lý bởi ngành du lịch là một trong những ngành cần được ưu tiên phát triển 
mạnh vì làm du lịch thì không cần quá nhiều vốn, do vậy rất phù hợp với nền kinh tế xuất phát 
điểm thấp và dự trữ vốn yếu như Việt Nam. Chưa kể là Việt Nam lại có tiềm năng rất lớn để 
phát triển ngành du lịch với hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng cùng những danh thắng 
đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới như vịnh Hạ Long và vườn quốc gia 
Phong Nha – Kẻ Bàng; hay di sản văn hóa thế giới như phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa 
Mỹ Sơn, hoàng thành Thăng Long – Hà Nội; hay di sản văn hóa phi vật thể như ca trù, nhã nhạc 
cung đình Huế, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (Tổng cục Du lịch, 2012). Hơn nữa, lãnh thổ 
đất nước kéo dài từ Bắc vào Nam và tiếp giáp với 3.260 km bờ biển cũng tạo cho quốc gia có 
những cảnh quan phong phú, đa dạng, cùng với những bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ 
Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, ... Đây là một tiềm năng rất có giá trị cho du lịch biển, 
nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí (Lê, 2014). Cũng chính vì sự ưu tiên cho ngành còn thấp đã 
dẫn tới hiệu quả các chiến lược phát triển du lịch đề ra của Chính phủ cũng như các chiến lược 
marketing để thu hút khách du lịch đạt chưa cao (tiêu chí 2.3 và 2.4).
Bên cạnh đó, thủ tục thị thực nhập cảnh vào Việt Nam đối với du khách nước ngoài vẫn 
còn khó khăn, do đó bị đánh giá khá thấp với điểm số chỉ đạt 13/100 (tiêu chí 2.5). Hiện 
nay, chỉ có công dân mang hộ chiếu phổ thông của các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore, 
Indonesia, Lào và Cambodia được miễn thị thực vào Việt Nam với thời hạn tạm trú không quá 
30 ngày; công dân Philippines được tạm trú không quá 21 ngày; công dân Brunei và Myanmar 
được tạm trú không quá 14 ngày và ngược lại. Trong khi đó, các nước trong khu vực là đối thủ 
cạnh tranh của Việt Nam lại có chính sách thị thực nhập cảnh rất thông thoáng như thực hiện 
miễn thị thực nhập cảnh, đơn giản hóa thủ tục, ứng dụng công nghệ cấp thị thực qua mạng 
hoặc tại cửa khẩu. Cụ thể, Singapore đã miễn thị thực cho công dân của trên 150 quốc gia và 
vùng lãnh thổ; Malaysia miễn thị thực nhập cảnh cho công dân của 155 quốc gia và vùng lãnh 
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thổ; Thái Lan áp dụng miễn thị thực cho công 
dân của 55 nước, cấp thị thực tại cửa khẩu 
cho công dân 28 nước tại 24 cửa khẩu; Thái 
Lan và Campuchia đã hợp tác thực hiện chính 
sách thị thực chung; Campuchia, Indonesia, 
Myanmar và Philippines đã ký hiệp định thư 
về thiết lập hệ thống thị thực chung linh hoạt; 
Trung Quốc đã miễn thị thực trong vòng 72 
giờ cho công dân 51 nước quá cảnh tại Bắc 
Kinh, Thượng Hải, Tứ Xuyên, Quảng Châu, 
Trùng Khánh, Đại Liên và Thẩm Dương (Bộ 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch , 2014).
Ngoài ra, chất lượng môi trường tự nhiên 
phục vụ cho phát triển du lịch tại Việt Nam 
cũng là một trong những tiêu chí bị đánh giá 
rất thấp (tiêu chí 2.6). Môi trường du lịch trên 
phạm vi cả nước, đặc biệt ở những địa bàn 
trọng điểm phát triển du lịch như Hạ Long, 
Cát Bà, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, 
... đã và đang có sự suy thoái do tác động của 
hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Hiện tại, 
ở nhiều địa phương vẫn đang tồn tại sự bất 
công bằng trong phân chia lợi ích kinh tế do 
tăng trưởng du lịch mang lại dẫn tới sự xung 
đột về lợi ích giữa các ngành, các địa phương, 
giữa các nhóm đối tượng, dẫn tới những tác 
động tiêu cực nhiều mặt. Việc khai thác quá 
mức, bừa bãi, tự phát, thiếu trách nhiệm hoặc 
trách nhiệm không rõ ràng, thiếu tính nghiêm 
ngặt trong việc tuân thủ các quy định về môi 
trường (tiêu chí 2.7 và 2.8) đã gây ô nhiễm, 
quá tải, từ đó tạo ra những tác động, hệ lụy 
tiêu cực làm cho chất lượng môi trường tự 
nhiên có nguy cơ suy thoái nhanh.
Thứ ba, về cơ sở hạ tầng phục vụ cho du 
lịch, có 3 tiêu chí bị đánh giá thấp thể hiện qua 
bảng sau:
Bảng 4: Các tiêu chí về cơ sở hạ tầng trong ngành du lịch bị đánh giá thấp tại Việt Nam
Tiêu chí Điểm Xếp hạng thế 
giới
3.1 Chất lượng đường sá 3,2 104
3.2 Sự sẵn có của các công ty cho thuê xe du lịch 1,0 120
3.3 Chất lượng cơ sở vật chất của các sân bay 4,0 87
Nguồn: WEF (2015) và tổng hợp của tác giả
Cơ sở hạ tầng tại Việt Nam vẫn bị xem là 
một trong những điểm yếu nhất trong công 
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. 
Đối với ngành du lịch, cơ sở hạ tầng kém là 
yếu tố cản trở rất lớn đến quá trình thu hút 
khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài. 
Đầu tiên phải kể đến là chất lượng đường sá tại 
Việt Nam còn kém và bị xuống cấp trầm trọng 
(tiêu chí 3.1). Mặc dù hiện nay, một số cao tốc 
đã được đi vào hoạt động như cao tốc Long 
Thành – Dầu Giây, cao tốc Trung Lương, cao 
tốc Nội Bài – Lào Cai nhưng chất lượng cũng 
là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Cụ thể, 
cao tốc Trung Lương có một số đoạn đường 
xấu khiến xe cộ lưu thông dễ gặp sự cố khi xử 
lý ở tốc độ cao; hoặc như cao tốc Nội Bài – 
Lào Cai vừa thông xe đã có dấu hiệu bị nứt. 
Ngoài ra, ở những con đường không phải cao 
tốc thì chất lượng còn tệ hơn rất nhiều, mặc 
dù đã trải qua nhiều lần nâng cấp và sửa chữa 
(như Quốc lộ 1A đoạn từ Nha Trang trở ra 
phía Bắc), khiến cho tốc độ lưu thông chậm, 
ảnh hưởng đến lịch trình của khách du lịch, 
đồng thời cũng là nguy cơ tiềm ẩn gây tai nạn 
giao thông. Bên cạnh đó, dịch vụ cho thuê xe 
du lịch là còn thiếu và chất lượng kém với 
33
Thực trạng cạnh tranh . . .
phương tiện cũ kỹ, thiếu tiện nghi và an toàn, 
gây lo lắng cho rất nhiều du khách khi tham 
quan tại Việt Nam (tiêu chí 3.2).
Việt Nam hiện có 8 sân bay quốc tế và 
13 sân bay nội địa đang hoạt động, tuy nhiên 
chất lượng cơ sở vật chất của các sân bay là 
chưa cao (tiêu chí 3.3). Theo phản ánh của 
các hành khách, mặc dù nằm trong khu vực 
nhiệt đới nhưng hệ thống điều hòa ở các sân 
bay tại Việt Nam luôn rất kém, nhất là tại các 
thời điểm đông người. Bên cạnh đó, hệ thống 
biển chỉ dẫn còn nghèo nàn, thiếu thông tin về 
các chuyến bay, chất lượng truy cập internet 
bằng wifi rất chậm, thiếu ghế ngồi cho khách, 
không đủ các quầy đổi tiền. Chính vì những lý 
do này mà sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất 
đã bị liệt vào trong top 10 sân bay tệ nhất châu 
Á trong năm 2014 (The Guide to Sleeping in 
Airports, 2014).
Nói tóm lại, ngành du lịch tại Việt Nam, 
đặc biệt với thị trường du khách quốc tế, sẽ 
có động lực để phát triển thông qua việc nâng 
cao năng lực cạnh tranh của mình để vươn lên 
tầm cao mới nếu những vấn đề trên được giải 
quyết một cách triệt để. Việc kết hợp các đề 
xuất, kiến nghị trong cả ngắn và dài hạn cần 
có sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp 
với các cơ quan ban ngành có thẩm quyền. Và 
đến lúc đó chúng ta mới có thể hy vọng Việt 
Nam từ một “vẻ đẹp tiềm ẩn” (hidden charm) 
trở thành một “vẻ đẹp bất tận” (timeless 
charm) như slogan của ngành trong giai đoạn 
2011-2015.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Báo cáo chuyên đề: Du lịch Việt Nam – Thực trạng và giải 
pháp phát triển, Hà Nội, tháng 6 năm 2014.
[2]. Lê, N.H (2014), ‘Du lịch Việt Nam: Tiềm năng, thực trạng và những vấn đề đặt ra’, Hội thảo khoa 
học “Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới”, Ban Kinh tế Trung ương phối 
hợp với Trường Đại học Kinh tế TPHCM tổ chức, tháng 1 năm 2014.
[3]. The Guide to Sleeping in Airports (2014), ‘Worst Airports in Asia 2014’, 
sleepinginairports.net/2014/worst-airports-asia.htm (truy cập 19/5/2015).
[4]. Tổng cục Du lịch (2008-2014), Số liệu thống kê khách quốc tế đến Việt Nam, 
gov.vn/index.php/cat/1205 (truy cập 18/5/2015).
[5]. Tổng cục Du lịch (2012), Di sản thế giới tại Việt Nam,  (truy 
cập 20/5/2015).
[6]. Vụ Lữ hành – Tổng cục Du lịch (2014), ‘Doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2005-2014’, Tổng 
cục Du lịch,  (truy cập 19/5/2015).
[7]. WEF (2015), Insight Report - The Travel and Tourism Competitiveness Report 2015 – Growth 
through shocks, World Economic Forum, 2015.
[8]. World Travel and Tourism Council (2012), Travel And Tourism – Economic Impact 2012 – Vietnam, 
World Travel and Tourism Council, London.
[9]. World Travel and Tourism Council (2015), Travel And Tourism – Economic Impact 2015 – Vietnam, 
World Travel and Tourism Council, London.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_canh_tranh_nganh_du_lich_viet_nam_thong_qua_chi_s.pdf