Thực trạng cán bộ y tế vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi, từ các bệnh tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
Cán bộ y tế vận chuyển cấp cứu có đủ về số lượng trình độ và kỹ năng đóng vai trò quan trọng và là cần thiết trong quá trình vận chuyển cấp cứu. Nhằm tìm hiểu thực trạng và tìm ra giải pháp xây dựng nguồn nhân lực trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 trường hợp vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013.
Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng, chất lượng: 1 nhân viên 65,1%, 2 nhân viên 34,9% trong đó BS và NHS 3,2%, 2 điều dưỡng 31,7%, 1 điều dưỡng 65,1%. Bệnh viện có đội vận chuyển cấp cứu 13,7%; cán bộ y tế thường xuyên tham gia vận chuyển cấp cứu 26,1%; cán bộ có kinh nghiệm 9%; được học APLS 47,3%; Tổng số cán bộ đạt đánh giá kỹ năng cấp cứu là 46,3%
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng cán bộ y tế vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi, từ các bệnh tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn208 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỰC TRẠNG CÁN BỘ Y TẾ VẬN CHUYỂN CẤP CỨU CHUYỂN TUYẾN BỆNH NHI, TỪ CÁC BỆNH TUYẾN TỈNH ĐẾN BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2013 Lê Thanh Hải1, Lê Bá Tuấn1, Đỗ Mạnh Hùng1 TÓM TẮT Cán bộ y tế vận chuyển cấp cứu có đủ về số lượng trình độ và kỹ năng đóng vai trò quan trọng và là cần thiết trong quá trình vận chuyển cấp cứu. Nhằm tìm hiểu thực trạng và tìm ra giải pháp xây dựng nguồn nhân lực trong chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 trường hợp vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng, chất lượng: 1 nhân viên 65,1%, 2 nhân viên 34,9% trong đó BS và NHS 3,2%, 2 điều dưỡng 31,7%, 1 điều dưỡng 65,1%. Bệnh viện có đội vận chuyển cấp cứu 13,7%; cán bộ y tế thường xuyên tham gia vận chuyển cấp cứu 26,1%; cán bộ có kinh nghiệm 9%; được học APLS 47,3%; Tổng số cán bộ đạt đánh giá kỹ năng cấp cứu là 46,3%. Từ khóa: Cán bộ y tế; vận chuyển cấp cứu; bệnh viện tuyến tỉnh. ABSTRACT REALITY OF HEALTH STAFF IN PATIENT TRANSPORT SERVICE FROM PROVINCIAL HOSPITALS TO VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013 It is important for health staff who work in patient transport service to have enough personnel and skills in transporting patients. In order to investigate the reality and find out the solution to build up personnel in this service, we carry out a cross-sectional study on 410 cases of patient who was transported from provincial hospitals to the National Children’s Hospital in 2013. The result shows the quality and quantity of health staff on ambulance: only one staff 65,1%, 2 staff 34,9% with one doctor and one nurse 3,2%, 2 nurses 31,7%, 1 nurse 65,1%. hospital having patient transport team 13,7%; staff who frequently take part in patient transport 26,1%; experienced staff 9%; APLS trained staff 47,3%; Total of staff obtained emergency skills 46,3%. Keywords: Health staff, emergency’s patient transport, provincial hospitals. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Jons Hopkins Medecine qui định nhân viên vận chuyển bệnh nhân phải được đào tạo qua các lớp tập huấn cơ bản như cấp cứu nhi khoa nâng cao (PALS), điều dưỡng cấp cứu nhi khoa (ENPC), lớp cấp cứu chấn thương nâng cao cho điều dưỡng (ATCN). Khi vận chuyển bệnh nhân sơ sinh thì phải có một kíp vận chuyển riêng [7].Có nhiều bệnh rất phức tạp và đa dạng mà cơ sở y tế tiếp nhận bệnh nhân không đủ khả năng để hồi sức và điều trị chuyên sâu [6]. Do đó, bệnh nhân cần phải được chuyển lên tuyến cao hơn với nguyên tắc là bệnh nhân thường xuyên được chăm sóc tốt nhất từ cơ sở tiếp nhận và xử trí ban đầu đến các đơn vị của tuyến trên. Theo tác giả Lê Thanh Hải việc các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh chưa có đội vận chuyển bệnh nhân cấp cứu với các cán bộ y tế chuyên trách dẫn tới tình trạng cán bộ y tế vận chuyển bệnh nhân không nắm đầy đủ thông tin về người bệnh từ tên, tuổi, chẩn đoán, điều trị, cũng như không có đủ khả năng theo dõi, đánh giá và xử lý các tình huống khẩn cấp xảy ra trong quá trình vận chuyển, dẫn tới tình trạng bệnh nhân nặng lên hoặc tử vong trên đường vận chuyển [1]. Bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu thường là những bệnh nặng, ở tuyến tỉnh không đủ khả năng về trình độ, phương tiện kỹ thuật điều trị và phải đưa đến bệnh viện Nhi Trung ương. Do sức khỏe bệnh nhi thường yếu kém và cần có sự xử trí của nhân viên y tế có đủ trình độ chuyên môn và kỹ năng. Nhằm tìm hiểu thực trạng nhân lực trong vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến ở bệnh nhi chúng tôi tiến hành nghiên cứu, qua 1. Bệnh viện Nhi Trung ương Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 13/02/2017 Ngày duyệt đăng: 17/02/2017 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 209 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE đó đề xuất các giải pháp trong việc xây dựng đội ngũ vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu hiệu quả trong việc giảm thiểu tỷ lệ vận chuyển không an toàn. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Cán bộ y tế các đội vận chuyển cấp cứu bệnh nhi nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương đến Bệnh viện Nhi Trung ương theo qui định của Bộ Y tế. 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian tiến hành nghiên cứu: Từ tháng 5/2013 đến 12/2013 - Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương. 3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, nghiên cứu định lượng 4. Cỡ mẫu nghiên cứu Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức: )1()1( *)1( 2 )2/1( 2 2 )2/1( ppZNd NppZ n −+− − = − − α α N = 9.500: kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013, do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5 đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương. p = 27,8% = 0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện thuộc tuyến trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [3]. Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z). d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045. n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu. Với các giá trị trên, thay số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứu là n=367 bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến hành nghiên cứu. Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 bệnh nhi vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện khác đến Bệnh viện Nhi Trung ương. 5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm EPIDAT, nhập liệu bằng phần mềm SPSS. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Thông tin chung về nhân viên y tế vận chuyển cấp cứu Yếu tố Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng nhân viên y tế trên xe 1 nhân viên 267 65,1 2 nhân viên 143 34,9 Chức danh BS và NHS 13 3,2 2 Điều dưỡng 130 31,7 1 Điều dưỡng 267 65,1 Bệnh viện có đội vận chuyển cấp cứu Có 56 13,7 Không 354 86,3 Cán bộ y tế tham gia vận chuyển cấp cứu thường xuyên Có 107 26,1 Không 303 73,9 Cán bộ y tế có kinh nghiệm làm việc khoa cấp cứu Có 37 9,0 Không 373 91,0 Cán bộ y tế được họcPLS trên APLS Có 194 47,3 Không 216 52,7 TỔNG 410 100 Việc vận chuyển bệnh nhi cấp cứu đa số chỉ có 1 nhân viên y tế với trình độ điều dưỡng chiếm 65,1%, cấp cứu có 2 nhân viện y tế có bác sỹ và nữ hộ sinh là 3,2%, cấp cứu có 2 nhân viên y tế là điều dưỡng chiếm 31,7%. Ở bệnh viện tuyến dưới có đội vận chuyển cấp cứu chỉ chiếm 13,7%. Tỷ lệ tham gia vận chuyển cấp cứu thường xuyên có 26,1%. Tỷ lệ có kinh nghiệm làm veiejc tại khoa cấp cứu là 9%. Tỷ lệ được học PLS trên APLS là 52,7%. Bảng 2. Phân bố các kỹ năng cấp cứu của các đội vận chuyển cấp cứu Các yếu tố Số lượng Tỷ lệ (%) Kỹ năng theo dõi đánh giá dấu hiệu nặng Có 267 65,1 Không 143 34,9 Kỹ năng bóp bóng Masque Có 151 36,8 Không 259 63,2 Kỹ năng đặt nội khí quản Có 36 8,8 Không 374 91,2 Kỹ năng đặt đường truyền tĩnh mạch Có 154 37,6 Không 256 62,4 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn210 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Các yếu tố Số lượng Tỷ lệ (%) Kỹ năng xử trí co giật Có 138 33,7 Không 272 66,3 Kỹ năng hồi sức tim mạch Có 99 24,1 Không 311 75,9 TỔNG 410 100 Kỹ năng của cán bộ trong đội vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi khi kiểm tra có 34,9% đội không có kỹ năng theo dõi đánh giá dấu hiệu nặng; 63,2% đội không có kỹ năng bóp bóng Masque; 91,2% đội không có kỹ năng đặt nội khí quản; 62,4% đội không có kỹ năng đặt đường truyền tĩnh mạch; 66,3% đội không có kỹ năng xử trí co giật; 75,9% đội không có kỹ năng hồi sức tim mạch. Biểu đồ 3.1.Tỷ lệ cán bộ đạt các kỹ năng cấp cứu Chưa đạt, 53,7 Đạt, 46,3 Có 220 đội cấp cứu cán bộ chưa đạt điểm kỹ năng cấp cứu chiếm tỷ lệ 53,7%, 190 đội cấp cứu cán bộ đạt kỹ năng cấp cứu chiếm tỷ lệ 46,3%. IV. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng nhân lực phục vụ cho cấp cứu nếu không tính tài xế lái xe thì đa số là 1 cán bộ y tế là điều dưỡng viên, chiếm tỷ lệ 65,1%, trong khi đó đội cấp cứu có 2 cán bộ y tế là 34,9%, trong đó 1 bác sỹ và 1 nữ hộ sinh là 3,2%, 2 điều dưỡng là 31,7%. Trong báo cáo đề xuất xây dựng hệ thống cấp cứu Nhi khoa (2004) của tác giả Đinh Phương Hòa [2], nhân viên cho mỗi xe cấp cứu phải ít nhất 03 người bao gồm 01 bác sỹ được đào tạo cấp cứu nhi, 01 y tá điều dưỡng nhi, 01 lái xe Warren và cộng sự (2004) khuyến cáo số người vận chuyển phải ít nhất là hai người, đặc biệt khi vận chuyển bệnh nhân nặng không ổn định cần phải có một bác sĩ được đào tạo về xử lý các tình huống hô hấp và tim mạch. Đối với bệnh nhân ổn định người chuyển bệnh nhân có thể chỉ là y tá [8], [9]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả của tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [1] tiến hành 2 đợt nghiên cứu chuyển tuyến bệnh nhân nặng từ 25 Bệnh viện Nhi và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bệnh viện Nhi Trung ương, đợt I tháng 11/2007-3/2008, đợt 2, tháng 8/2009- 1/2010. Số cán bộ vận chuyển cấp cứu nhi (không kể lái xe) chỉ có một người chiếm gần 90%, trong đó 81% là y tá, 9,3% nữ hộ sinh và chỉ có 5,8% là bác sỹ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh viện tuyến dưới có đội vận chuyển cấp cứu chỉ chiếm 13,7%, trong khi đó hầu hết các bệnh viện là không có đội vận chuyển cấp cứu. Kết quả này phù hợp với kết quả của tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [1] 2007-2010, trong đó ngoại trừ cấp cứu 115 có cán bộ vận chuyển riêng, số còn lại chưa có cán bộ chuyên trách vận chuyển bệnh nhân cấp cứu, cán bộ y tế vận chuyển bệnh nhân đa số là điều dưỡng, hoặc ở khoa có bệnh nhân chuyển viện, hoặc ở khoa Nhi, hoặc ở các khoa khác trong bệnh viện. Việc các bệnh viện tuyến tỉnh chưa có đội vận chuyển bệnh nhân cấp cứu với các cán bộ y tế chuyên trách dẫn tới tình trạng cán bộ y tế vận chuyển bệnh nhân không nắm đầy đủ thông tin về người bệnh từ tên, tuổi, chẩn đoán, điều trị, cũng như không có đủ khả năng theo dõi, đánh giá và xử lý các tình huống khẩn cấp xảy ra trong quá trình vận chuyển, dẫn tới tình trạng bệnh nhân nặng lên hoặc tử vong trên đường vận chuyển. Thông thường có kinh nghiệm và thường gian làm việc thường xuyên về cấp cứu thì thực hành cấp cứu sẽ tốt hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cán bộ tham gia vận chuyển cấp cứu thường xuyên chiếm tỷ lệ rất thấp với 26,1%. Kinh nghiệm làm việc tại khoa Cấp cứu cũng chỉ có 9%, tỷ lệ cán bộ được được học PLS trên APLS chiếm 47,3%.. Theo tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [1] kỹ năng cấp cứu ở nhóm chưa học APLS là rất thấp với 80% không đạt yêu cầu, 9% đạt yêu cầu. Khi tiến hành đánh giá kỹ năng thực hành cấp cứu của các cán bộ y tế ở 410 trường hợp vận chuyển trong nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có kỹ năng theo dõi đánh giá dấu hiệu nặng là 65,1%, tỷ lệ có kỹ năng bóp bóng Masque là 36,8%, tỷ lệ có kỹ năng đặt nội khí quản 8,8%, tỷ lệ có kỹ năng đặt đường truyền tĩnh mạch là 37,6%, tỷ lệ có kỹ năng xử trí co giật là 33,7%, tỷ lệ có kỹ năng hồi sức tim mạch là 24,1%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có 220 đội cấp cứu cán bộ chưa đạt điểm kỹ năng cấp cứu chiếm tỷ lệ 53,7%. 190 đội cấp cứu cán bộ đạt kỹ năng cấp cứu chiếm tỷ lệ 46,3%. Tỷ lệ thực hành kỹ năng thực hành cấp cứu đạt của chúng tôi thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [1] nghiên cứu 2 đợt, đợt I tháng 11/2007- SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 211 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 3/2008, đợt 2 từ tháng 8/2009- 1/2010, kết quả cho thấy kỹ năng của cán bộ vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu cho thấy việc theo dõi đánh giá bệnh nhân đợt 1 đạt là 81,9, đợt 2 đạt là 90,3%; Đặt truyền tĩnh mạch đợt 1 đạt là 79,6%, đợt 2 đạt là 66,1%; Kỹ năng bóp bóng đợt 1 đạt là 75,2%, đợt 2 là 77,1%; Kỹ năng hồi sức tim-phổi đợt 1 đạt là 36,3%, đợt 2 là 39,7%; Kỹ năng xử trí co giật đợt 1 đạt là 34,5%, đợt 2 đạt là 37%, đặt nội khí quản đợt 1 đạt là 11,1%, đợt 2 đạt là 18,3%. Cũng theo Lê Thanh Hải và cộng sự [1] trong quá trình vận chuyển cấp cứu, phần lớn số bệnh nhân đòi hỏi phải hỗ trợ hô hấp (90%), tuần hoàn (40%) và thần kinh nhưng chỉ có 11% số cán bộ vận chuyển đặt được nội khí quản, khoảng 1/3 số cán bộ vận chuyển biết cấp cứu tim-phổi và thần kinh (đợt I). Đã có 35% nhân viên y tế vận chuyển bệnh nhân trong nghiên cứu lần 2 đã được đào tạo về cấp cứu, cao hơn đợt1 (không có ý nghĩa thống kê, p = 0,19), nhưng kỹ năng cấp cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa so với nghiên cứu lần 1. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu trên 410 trường bệnh nhi vận chuyển cấp cứu từ tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương, cho thấy nhân lực cho công tác vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi vừa thiếu về số lượng, trình độ, vừa yếu về kiến thức lẫn kỹ năng cấp cứu và chưa có tính chuyên nghiệp. Cần có sự quan tâm của các cấp, các ngành trong việc xây dựng đội ngũ nhân lực cấp cứu đặc biệt là đội ngũ vận chuyển cấp cứu chuyển tuyến bệnh nhi có tính chuyên ng- hiệp, đủ về số lượng (ít nhất 3 cán bộ y tế) và chất lượng (trình độ chuyên môn, kỹ thuật về cấp cứu bệnh nhi). Bên cạnh đó cần có các lớp tập huấn thường xuyên cho cán bộ cấp cứu bệnh nhi, thường xuyên tổ chức công tác giao ban, hội thảo, hội nghị chuyên đề nhằm chia sẻ kinh nghiệm, phổ biến các kỹ thuật trong cấp cứu bệnh nhi, nhằm giảm số ca tử vong, tăng khả năng hồi phục sức khỏe cho bệnh nhi. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Y tế (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu Nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong trong 24h đầu ở tuyến tỉnh, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ - Chủ nhiệm đề tài Lê Thanh Hải. 2. Đinh Phương Hòa và Nguyễn Công Khanh (2005), Nghiên cứu hiện trạng cấp cứu nhi, lựa chọn tiến bộ khoa học và xây dựng mô hình cấp cứu nhi khoa phù hợp các tuyến nhằm giam tỷ lệ tử vong trong 24 giờ đầu, Đề tài độc lập cấp nhà nước,tr.59- 61. 3. Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1, Tạp chí Y học thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121. 4. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Trung ương năm 2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-19. 5. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35. 6. Kronick, J.B., et al. (1996), Pediatric and neonatal critical care transport: a comparison of therapeutic interventions. Pediatr Emerg Care, 1996. 12(1): p. 23-6. 7. Jons Hopkins Lifline (2014), The Jons Hopkins Medecine Lifeline Transportation Program, 410.614.7777. 1800 Orleans Street Nelson SB-280 Baltimore, Maryland 21287. 8. Praveen Khilnani and R.Chhabra (2008), Transport of critically ill children: How to utilize resourses in the developing world, Indian J Pediatr, 75(6), pp.591-598. 9. Warren J.and et al (2004), Guidelines for the inter- and intrahospital transport of critically ill patients, Crit Care Med, 32(1), pp.256-62.
File đính kèm:
thuc_trang_can_bo_y_te_van_chuyen_cap_cuu_chuyen_tuyen_benh.pdf

