Thực trạng bệnh viêm não nhật bản ghi nhận tại bệnh viện lớn một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng năm 2009-2014

Viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh nhiễm virus cấp tính, gây tử vong cao và để lại di chứng

nặng nề về sức khỏe cho người mắc bệnh. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng

mắc bệnh viêm não Nhật Bản trên người tại các bệnh viện lớn ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông

Hồng từ năm 2009 – 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh VNNB là khá cao, Thái Bình

là tỉnh có số người mắc bệnh cao nhất trong 4 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng. Năm 2009 và 2010

là những năm đã có dịch VNNB xảy ra, tỷ lệ người mắc bệnh cao nhất là vào tháng 6 và tháng 7.

Tăng cường truyền thông giáo dục về phòng chống bệnh viêm não Nhật Bản cho người dân và tiêm

vacxin đầy đủ theo hướng dẫn của Ngành Y tế là điều rất cần thiết

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng bệnh viêm não nhật bản ghi nhận tại bệnh viện lớn một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng năm 2009-2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng bệnh viêm não nhật bản ghi nhận tại bệnh viện lớn một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng năm 2009-2014

Thực trạng bệnh viêm não nhật bản ghi nhận tại bệnh viện lớn một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng năm 2009-2014
35
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
THÖÏC TRAÏNG BEÄNH VIEÂM NAÕO NHAÄT BAÛN GHI NHAÄN TAÏI BEÄNH VIEÄN 
LÔÙN MOÄT SOÁ TÆNH ÑOÀNG BAÈNG SOÂNG HOÀNG NAÊM 2009 - 2014
Lê Thị Hương1, Phạm Thị Duyên1, Phạm Quang Thái2
Nguyễn Thị Lan3, Phạm Hồng Ngân3, Nguyễn Hữu Nam3
TÓM TẮT
Viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh nhiễm virus cấp tính, gây tử vong cao và để lại di chứng 
nặng nề về sức khỏe cho người mắc bệnh. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng 
mắc bệnh viêm não Nhật Bản trên người tại các bệnh viện lớn ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông 
Hồng từ năm 2009 – 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh VNNB là khá cao, Thái Bình 
là tỉnh có số người mắc bệnh cao nhất trong 4 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng. Năm 2009 và 2010 
là những năm đã có dịch VNNB xảy ra, tỷ lệ người mắc bệnh cao nhất là vào tháng 6 và tháng 7. 
Tăng cường truyền thông giáo dục về phòng chống bệnh viêm não Nhật Bản cho người dân và tiêm 
vacxin đầy đủ theo hướng dẫn của Ngành Y tế là điều rất cần thiết. 
Từ khóa: Viêm não Nhật Bản, Tỷ lệ mắc bệnh, Đồng bằng sông Hồng
Status of Japanese encephalitis in mayor hospitals of 
some provinces in Red river delta in 2009-2014
Le Thi Huong, Pham Thi Duyen, Pham Quang Thai,
Nguyen Thi Lan, Pham Hong Ngan, Nguyen Huu Nam
SUMMARY
Japanese encephalitis is an acute viral infection disease causing high mortality rate and 
remaining heavy sequel for the patients. This study was conducted to investigate the status of 
Japanese encephalitis virus infection in human in some provincial major hospitals in Red River 
Delta from 2009 to 2014. The studied result showed that the prevalence of Japanese encepha-
litis was relatively high. Thai Binh was the province having the highest numbers of the infected 
persons with Japanese encephalitis in comparison with other provinces. In 2009 and 2010, 
Japanese encephalitis epidemic occurred in several provinces. The highest infection rate was 
in June - July of the year. Enhancing communication and education on the prevention of Japa-
nese encephalitis for people, sufficient vaccination according to guideline of the public health 
authority is very necessary. 
Keywords: Japanese encephalitis, Prevalence, Red river delta
1. Viện Đào tạo YHDP – YTCC Đại học Y Hà Nội
2. Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương
3. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh 
nhiễm virus cấp tính làm tổn thương hệ thống 
thần kinh trung ương. Bệnh gây nên bởi virus 
VNNB lây truyền từ nguồn bệnh đến người qua 
muỗi đốt. Ổ chứa virus VNNB chủ yếu là 
chim, lợn mà muỗi là véc tơ chính truyền bệnh 
giữa các động 
vật có xương sống, từ đó truyền sang người[1].
Bệnh VNNB lưu hành rộng rãi ở châu Á và 
là căn bệnh hàng đầu của các viêm não virus 
ở khu vực này với số ca mắc hàng năm lên tới 
30.000 - 50.000 ca, trong đó có 10.000 ca tử 
vong, số mắc và chết hầu hết là trẻ em[2]. Bệnh 
VNNB để lại hậu quả nghiêm trọng cho sức 
khỏe của người do tỷ lệ tử vong cao, dao động 
từ 0,3% đến 60%; số sống sót có tới 30% - 80% 
36
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
bị di chứng nặng nề về tinh thần và vận động 
như động kinh, đần độn, liệt, câm điếc Trong 
thời gian gần đây, do các đặc điểm dịch tễ học 
phức tạp, bệnh VNNB lại có chiều hướng tăng 
lên ở các quốc gia như Ấn Độ, Việt Nam, My-
anmar Do khả năng lây lan rộng về địa dư và 
tỷ lệ tử vong cao nên bệnh VNNB vẫn còn là 
một vấn đề y tế cần được quan tâm, nhất là ở 
khu vực châu Á, nơi có nhiều nước nghèo, đông 
dân cư [3].
Việt Nam nằm trong khu vực lưu hành bệnh 
VNNB và đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh vùng 
đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tỷ lệ mới 
mắc hằng năm ở khu vực này là từ 6 - 10 trường 
hợp/100.000 dân, chủ yếu ở những người dân 
sống bằng nghề trồng lúa nước và chăn nuôi lợn 
là khu vực thuận lợi cho sự phát triển của véc tơ 
truyền bệnh [4]. 
Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương 
là 4 tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, có 
nền nhiệt độ cao và mưa nhiều vào mùa hè, đây 
là điều kiện thuận lợi để muỗi-véc tơ truyền 
bệnh phát triển, làm lưu hành virus VNNB trong 
thiên nhiên và bệnh VNNB thường xuyên xảy 
ra ở người. Theo báo cáo thống kê của Viện Vệ 
sinh dịch tễ trung ương năm 2007, trong 4 tỉnh 
đã nêu, có trên 150 trường hợp mắc bệnh gây nên 
hậu quả xấu tới sức khỏe người dân trong tỉnh 
[5]. Trước tình hình đó, ngành Y tế của các tỉnh 
đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp phòng 
chống dịch tích cực như: tăng cường giám sát 
phát hiện bệnh nhân, tập huấn chuyên môn kỹ 
thuật cho đội ngũ cán bộ để nâng cao chất lượng 
chẩn đoán và điều trị bệnh, tuyên truyền rộng 
rãi các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Các 
biện pháp trên đã góp phần vào việc khống chế 
bệnh. Tuy nhiên do điều kiện thời tiết, khí hậu 
trong vùng thuận lợi cho sự phát triển của véc 
tơ truyền bệnh nên các biện pháp trên vẫn còn 
nhiều hạn chế, do đó hàng năm bệnh VNNB vẫn 
xảy ra ở các huyện, thị trong tỉnh. Mặc dù vậy 
tới nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào mô tả 
đầy đủ đặc điểm dịch tễ học của bệnh VNNB 
được thực hiện tại các tỉnh này [5].
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh tại 4 tỉnh đồng bằng sông Hồng 
(Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương)
được xét nghiệm và chẩn đoán mắc VNNB tại 
các bệnh viện, thời gian từ năm 2009 – 2014. 
Tổng số mẫu của nghiên cứu là 589 ca bệnh.
Những bệnh nhân này đã được lưu trữ hồ sơ 
bệnh án.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Những hồ sơ bệnh án không thu thập đủ dữ 
liệu nghiên cứu.
+ Không có đủ các biểu hiện lâm sàng theo 
tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới.
+ Có đủ các biểu hiện lâm sàng nhưng quá 
trình lấy mẫu bệnh phẩm (huyết thanh) không 
đúng quy định.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng thiết kế nghiên cứu dịch tễ học mô 
tả cắt ngang, hồi cứu số liệu trong 6 năm, từ năm 
2009 đến 2014.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Dân số trung bình của các tỉnh trong 6 năm (2009 – 2014)
Năm
Dân số trung bình trong năm
Bắc Ninh Thái Bình Hưng Yên Hải Dương
2009 1.026.700 1.784.000 1.131.200 1.706.800
2010 1.034.200 1.786.300 1.132.300 1.712.800
2011 1.060.300 1.786.000 1.150.400 1.718.900
2012 1.079.900 1.787.300 1.145.600 1.735.100
2013 1.114.000 1.788.400 1.151.600 1.747.500
2014 1.167.737 1.931.059 1.224.447 1.757.457
37
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
Bốn tỉnh nghiên cứu đều là những tỉnh có 
mật độ dân số cao so với các tỉnh khác trong cả 
nước, trong đó Thái Bình là tỉnh có dân số cao 
nhất, vào khoảng 1,9 triệu dân vào năm 2014. 
Bảng 2. Số ca mắc bệnh và chết do VNNB tại 4 tỉnh từ năm 2009 - 2014
Năm
Bắc Ninh Thái Bình Hưng Yên Hải Dương Tổng
Mắc Chết Mắc Chết Mắc Chết Mắc Chết Mắc Chết
2009 0 0 151 0 0 0 6 0 157 0
2010 0 0 132 0 0 0 5 0 137 0
2011 2 0 77 0 11 0 5 0 95 0
2012 0 0 61 0 0 0 2 0 63 0
2013 0 0 58 0 0 0 0 0 58 0
2014 1 0 68 0 1 0 9 0 79 0
Năm 2009 là năm có số lượng bệnh nhân mắc 
viêm não Nhật Bản cao nhất với tổng số 157 ca 
mắc bệnh, số lượng giảm dần qua các năm. Thái 
Bình là tỉnh có số ca mắc bệnh VNNB cao nhất 
với 151 trường hợp (năm 2009), thấp nhất là 
Bắc Ninh, trong suốt 6 năm mới xảy ra 3 trường 
hợp mắc bệnh. 
Bảng 3. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh và chết do VNNB tại 4 tỉnh từ năm 2009 – 2014
Năm
Mắc Chết
Số lượng
(ca)
Tỷ lệ /100.000 dân
(%)
Số lượng
(ca)
Tỷ lệ /100.000 dân
(%)
2009 157 11,1 0 0
2010 137 9,7 0 0
2011 95 6,7 0 0
2012 63 4,4 0 0
2013 58 4,0 0 0
2014 79 5,2 0 0
 Tổng số mắc do VNNB
- Công thức tính tỷ lệ mắc VNNB /100.000 dân = x 1000
 Dân số trung bình năm đó
 Tổng số chết do VNNB
- Công thức tính tỷ lệ chết do VNNB /100.000 dân = x 1000
 Dân số trung bình năm đó
Trong 6 năm (năm 2009 đến năm 2014), tỷ 
lệ bệnh nhân mắc VNNB tính theo chỉ số tỷ lệ 
mắc/100.000 dân giảm dần qua các năm. Tỷ lệ này 
cao nhất là vào năm 2009 với 11,1% và thấp nhất 
là vào năm 2013 với 4,0%. Bên cạnh đó chưa xuất 
hiện ca mắc VNNB nào dẫn tới tử vong. 
38
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
Theo bảng 4, bệnh VNNB lưu hành thường 
xuyên tại các tỉnh từ năm 2009 - 2014, những 
năm 2009 và 2010 là những năm có dịch xảy 
ra. Đây cũng là 2 năm có tỷ lệ bệnh nhân mắc 
VNNB cao nhất. Năm 2009 là năm có hệ số 
dịch cao nhất với 1,6; bên cạnh đó 2013 là năm 
có hệ số dịch thấp nhất là 0,6.
Bảng 4. Hệ số năm dịch VNNB
Năm Chỉ số mắc trung bình tháng (CSMTBT) Hệ số năm dịch
2009 13,08 1,60
2010 11,42 1,40
2011 7,92 0,90
2012 5,25 0,65
2013 4,83 0,60
2014 6,58 0,80
2009 – 2014 8,18 Tham chiếu
 - Chỉ số mắc TB tháng trong 1 năm (CSMTBT/1 năm) = Số mới mắc trong năm/12 tháng 
 - Chỉ số mắc TB tháng trong nhiều năm (CSMTBT/nhiều năm) = Số mới mắc trong nhiều năm/Số
 tháng trong nhiều năm
 - Hệ số năm dịch = CSMTBT/1 năm: CSMTBT/nhiều năm 
Hình 1. Tỷ lệ mắc VNNB theo tháng
Để xác định phân bố bệnh VNNB theo tháng, 
chúng tôi tính số mắc của từng tháng trong từng 
năm, sau đó cộng dồn số mắc của từng tháng 
trong 6 năm (từ 2009 – 2014) và tính tỷ lệ phần 
trăm số mắc của từng tháng trong suốt giai đoạn 
2009 – 2014. 
Bệnh VNNB tại các tỉnh xuất hiện hầu hết 
ở các tháng trong năm và số mắc tăng dần lên, 
tăng cao vào các tháng 5, 6, 7 là những tháng 
39
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
của mùa hè mà đỉnh cao là tháng 7 với 14,6% 
tổng số mắc của 12 tháng. Sau đó giảm dần, số 
ca mắc bệnh đến tháng 12 giảm hẳn. Trong 12 
tháng thì tháng 1 là tháng có tỷ lệ mắc bệnh thấp 
nhất, chỉ chiếm 3,1% tổng số ca mắc. 
IV. THẢO LUẬN
Theo số liệu thống kê của Viện vệ sinh dịch 
tễ trung ương từ năm 2009 - 2014 cho thấy số 
ca mắc VNNB có sự biến động giữa các năm và 
có sự khác nhau cơ bản giữa các tỉnh tham gia 
nghiên cứu. Năm 2009 là năm có số lượng bệnh 
nhân mắc VNNB cao nhất với tổng số khoảng 
trên 150 ca mắc bệnh. Thái Bình là tỉnh có số 
lượng bệnh nhân mắc bệnh VNNB nhiều nhất, 
có thể là do Thái Bình là một trong số những 
tỉnh trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm 
đón nhận một lượng mưa lớn (1.700 - 2.200 
mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông 
lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi 
chảy ra biển. Bên cạnh đó, Thái Bình còn là vựa 
lúa nước lớn nhất trong cả nước. Những yếu tố 
trên tạo điều kiện thuận lợi không nhỏ tới môi 
trường sống của các vectơ truyền bệnh. Từ đó 
dẫn tới kết quả thuận lợi cho các vectơ gây bệnh 
VNNB cho người cao hơn so với các tỉnh khác 
trong nghiên cứu.
Trong 6 năm nghiên cứu, năm nào cũng xuất 
hiện trường hợp mắc bệnh VNNB xảy ra ở các 
tỉnh. Tỷ lệ này giảm dần qua các năm. Năm 2009 
và năm 2010 là 2 năm dịch VNNB cao nhất. Kết 
quả này là phù hợp khi tỷ lệ người mắc bệnh 
VNNB trong 2 năm này cao nhất so với các năm 
khác. 2009 là năm có hệ số dịch cao nhất là 1,6 
với 157 ca mắc bệnh viêm não Nhật Bản.
Tỷ lệ mắc giảm dần qua các năm là kết quả 
thành công của chương trình tiêm chủng mở 
rộng cũng như các chương trình phòng chống 
dịch VNNB được triển khai tại các tỉnh trong 
thời gian vừa qua. Trong tổng số trên 500 trường 
hợp mắc VNNB, trong 6 năm nghiên cứu tại các 
tỉnh, chưa có trường hợp tử vong nào đã cho 
thấy khả năng điều trị và chẩn đoán tốt của các 
bệnh viện, cơ sở y tế thuộc địa bản các tỉnh 
nghiên cứu. Tuy nhiên số lượng ca mắc bệnh tại 
các tỉnh trong nghiên cứu vẫn còn lớn, là thách 
thức không nhỏ cho công tác phòng dịch và tiêm 
chủng vacxin. 
Tỷ lệ bệnh nhân mắc VNNB ở các tháng có 
sự khác nhau rõ rệt là do điều kiện khí hậu, thời 
tiết chi phối tới tình hình bệnh. Tháng 5, 6, 7 
là những tháng hè thời tiết nóng ẩm, tạo điều 
kiện thuận lợi cho virus phát triển tốt trong cơ 
thể muỗi, tạo điều kiện cho tỷ lệ mắc bệnh tăng 
cao. Đó cũng là lý do lý giải bệnh giảm nhiều 
vào những tháng lạnh khi thời tiết dưới 20oC 
thì sự phát triển của bệnh giảm. Tại miền Bắc, 
bệnh giảm nhiều vào những tháng lạnh, tăng 
vào những tháng hè và đỉnh cao vào các tháng 
5, 6, 7. Tại miền Nam, thời tiết nóng nên bệnh 
rải rác quanh năm.
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù 
hợp với nghiên cứu của Đặng Thị Trang năm 
2011, phân bố bệnh theo mùa tại Thái Bình 
giai đoạn 2004 - 2010 cho thấy số các trường 
hợp có VNNB được xác định chủ yếu trong các 
tháng hè. Bệnh bắt đầu từ tháng 4, đỉnh cao là 
các tháng 5, 6, 7; trong đó tháng 7 có số mắc 
cao nhất[6]. Khí hậu với những yếu tố nhiệt độ 
và mưa cũng có ảnh hưởng đến tình hình bệnh. 
Vào mùa mưa, ruộng đồng đầy nước tạo điều 
kiện tốt cho muỗi sinh sản và phát triển mạnh 
trong thiên nhiên, trùng hợp với thời điểm bệnh 
xảy ra nhiều. Vào mùa hè thời tiết nóng, ở nhiệt 
đồ từ 270C - 300C, virus thường phát triển tốt. 
Nếu dưới 200C thì sự phát triển của virus dừng 
lại. Đó là lý do tại sao mô hình dịch tễ học lại 
khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam. 
Ở miền Bắc, bệnh giảm nhiều vào những tháng 
lạnh, tăng vào những tháng hè và đỉnh cao vào 
các tháng 5, 6, 7. Ở miền Nam, thời tiết nóng 
nên bệnh xảy ra rải rác quanh năm.
V. KẾT LUẬN
Bệnh VNNB tại Việt Nam đang là một trong 
số những bệnh gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe 
cũng như tạo nên gánh nặng về mặt kinh tế, đặc 
biệt là khi bệnh VNNB đang có diễn biến phức 
tạp trong những năm gần đây. Do đó cần có các 
chương trình can thiệp, tăng cường giám sát phát 
40
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 3 - 2016
hiện bệnh, tiêm phòng vacxin để khống chế và 
phòng chống bệnh viêm não Nhật Bản.
Lời cảm ơn: 
Nghiên cứu này sử dụng kinh phí của đề tài 
NCKH cấp Bộ của Học viện Nông nghiệp Việt 
Nam năm 2014 – 2015, chủ nhiệm đề tài: PGS.
TS. Nguyễn Hữu Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Truyền nhiễm - Học viên Quân Y 
(2008), “Bệnh học truyền nhiễm và nhiệt 
đới”, Nhà xuất bản Y học, tr. 259 - 266.
2. Centers for Disease Control and Preven-
tion (2006), “Factors in the changing 
epidemiology of Japanese encephalitis“, 
31.10.2006. Atlanta, USA: CDC, 2003.
3. Pyke AT et al. (2001), “The appearance of 
a second genotype of Japanese encephalitis 
virus in the Australian region.”, Am J Trop.
med Hyg (62 - 65).
4. Phan Thị Ngà và cs, (2010), “Sự đồng lưu 
hành virus viêm não Nhật Bản genotyp 1 và 
3 ở Việt Nam, 1986 - 2007”, Tạp chí Y học 
dự phòng, tập XX (số 6), tr. 155 - 162.
5. Viện vệ sinh dịch tễ trung ương (2011), 
“Dịch tễ học bệnh Viêm não Nhật Bản và 
biện pháp phòng chống”, Tài liệu tập huấn 
giám sát và thống kê báo cáo một số bệnh 
truyền nhiễm gây dịch, Viện vệ sinh Dịch tễ 
Trung ương, Hà Nội, tr. 50 - 60 
6. Đặng Thị Trang (2011), “Đặc điểm dịch tễ 
học bệnh viêm não Nhật Bản tại tỉnh Thái 
Bình từ năm 2004 - 2010 và đánh giá hiệu 
quả sư dụng vác xin phòng bệnh”, Luận văn 
thạc sỹ Y học - Trường đại học Y Hà Nội, tr. 
66 - 70.
Nhận ngày 5-11-2015
Phản biện ngày 15-2-2016
THÀNH LẬP TRUNG TÂM ĐIỀU PHỐI ASEAN VỀ THÚ Y 
VÀ BỆNH TRUYỀN LÂY TỪ ĐỘNG VẬT SANG NGƯỜI
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ thay mặt Chính phủ nước ta ký Hiệp định 
ACCAHZ.
Trong những năm qua, thế giới liên tục ghi nhận sự xuất hiện của các dịch bệnh mới nổi, nguy hiểm, 
có nguồn gốc từ động vật như: SARS, cúm A(H5N1), cúm A(H7N9), MERS-CoV, Ebola, Với độc 
tính cao và sự lây truyền nhanh, các dịch bệnh này không chỉ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe người dân mà 
còn tác động lớn tới sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh, chính trị của các quốc gia trên toàn cầu. Tình 
hình đó đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế và mỗi người dân phải có những nỗ lực hơn nữa nhằm 
thúc đẩy sự hợp tác, sự cam kết trong việc triển khai các hoạt động phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là 
dịch bệnh mới nổi, nguy hiểm, có nguồn gốc từ động vật sang người, nhằm hướng tới một thế giới an 
toàn và an ninh hơn với các bệnh truyền nhiễm.
Ở cấp quốc gia, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ban chỉ đạo quốc gia, có tính phối hợp 
liên ngành trong việc triển khai các hoạt động phòng chống dịch bệnh, điển hình là việc phòng chống 
dịch cúm gia cầm và đại dịch cúm ở người. Văn phòng đáp ứng khẩn cấp phòng chống dịch bệnh (EOC) 
cũng đã được triển khai tại Việt Nam từ năm 2013 với sự tham gia tích cực của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn và các Tổ chức quốc tế (WHO, FAO và USCDC) nhằm điều phối và đáp ứng tốt 
hơn với các bệnh dịch mới nổi, trong đó có các dịch bệnh lây truyền từ động vật sang người.
Ở cấp khu vực, Việt Nam với vai trò là nước đi đầu trong khu vực ASEAN đã phối hợp với các nước 
thành viên xây dựng Chiến lược loại trừ bệnh dại của khu vực ASEAN; hiện nay Việt Nam đang triển 
khai kế hoạch thực hiện Chiến lược này với mục tiêu tiến tới loại trừ bệnh dại ở các nước trong khu vực 
và duy trì các vùng không có bệnh dại của khu vực ASEAN đến năm 2020
 Phương Nhi - Báo Điện tử Chính Phủ

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_benh_viem_nao_nhat_ban_ghi_nhan_tai_benh_vien_lon.pdf