Thực trạng bệnh nha chu, kiến thức, thái độ, thực hành và nhu cầu điều trị ở phụ nữ mang thai

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Bệnh nha chu là một vấn đề nổi bật và quan trọng của sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là ở

phụ nữ mang thai. Mục tiêu của đề tài là mô tả đặc điểm lâm sàng; tìm hiểu kiến thức, thái độ, thực hành

vệ sinh răng miệng và đánh giá nhu cầu điều trị bệnh nha chu ở phụ nữ mang thai. Đối tượng và phương

pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 210 phụ nữ mang thai đến khám tại khoa Sản, Bệnh viện

Trường Đại học Y Dược Huế. Khám lâm sàng và phỏng vấn các câu hỏi về kiến thức, thái độ, thực hành chăm

sóc răng miệng cho tất cả đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ viêm nướu là 100%, trong đó viêm nướu nhẹ

là 4,3% và viêm nướu trung bình là 95,7% và có sự khác biệt tỷ lệ mức độ viêm nướu theo giai đoạn thai kỳ

(p<0,001). tỷ="" lệ="" viêm="" nha="" chu="" là="" 17,6%="" và="" không="" có="" sự="" khác="" biệt="" theo="" giai="" đoạn="" thai="" kỳ="" (p="">0,05). Trung bình

các chỉ số GI và BOP có sự khác biệt theo giai đoạn thai kỳ (p<0,05) còn="" trung="" bình="" các="" chỉ="" số="" pd,="" ohi-s="" và="">

thì không có sự khác biệt (p>0,05). Tỷ lệ đối tượng không biết đến bệnh nha chu là 80,5%; tỷ lệ phụ nữ mang

thai kiêng đánh răng sau sinh là 61,4%. Tỷ lệ đối tượng đánh răng 1 lần/ngày: 7,1%; 2 lần/ngày: 70,5% và ≥

3 lần/ngày: 22,4%; trong đó giá trị trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHI-S và PlI tỷ lệ nghịch với số lần đánh

răng (p<0,001). tỷ="" lệ="" đối="" tượng="" chỉ="" cần="" hướng="" dẫn="" vệ="" sinh="" răng="" miệng="" là="" 3,3%;="" tỷ="" lệ="" nhu="" cầu="" hướng="" dẫn="">

sinh răng miệng kết hợp lấy cao răng, mảng bám và cạo láng gốc răng là 94,3%; tỷ lệ đối tượng cần kết hợp

với điều trị chuyên sâu là 2,4%. Kết luận: Bệnh nha chu, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai có tỷ lệ cao. Cần

thiết giáo dục về kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng đúng và có biện pháp đáp ứng tốt nhu cầu

điều trị bệnh nha chu cho phụ nữ mang thai.

pdf 7 trang phuongnguyen 4920
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng bệnh nha chu, kiến thức, thái độ, thực hành và nhu cầu điều trị ở phụ nữ mang thai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng bệnh nha chu, kiến thức, thái độ, thực hành và nhu cầu điều trị ở phụ nữ mang thai

Thực trạng bệnh nha chu, kiến thức, thái độ, thực hành và nhu cầu điều trị ở phụ nữ mang thai
138
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
THỰC TRẠNG BỆNH NHA CHU, KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH 
VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ Ở PHỤ NỮ MANG THAI
Nguyễn Đức Thiền1, Trần Tấn Tài2
(1) Học viên Cao học Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Bệnh nha chu là một vấn đề nổi bật và quan trọng của sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là ở 
phụ nữ mang thai. Mục tiêu của đề tài là mô tả đặc điểm lâm sàng; tìm hiểu kiến thức, thái độ, thực hành 
vệ sinh răng miệng và đánh giá nhu cầu điều trị bệnh nha chu ở phụ nữ mang thai. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 210 phụ nữ mang thai đến khám tại khoa Sản, Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế. Khám lâm sàng và phỏng vấn các câu hỏi về kiến thức, thái độ, thực hành chăm 
sóc răng miệng cho tất cả đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ viêm nướu là 100%, trong đó viêm nướu nhẹ 
là 4,3% và viêm nướu trung bình là 95,7% và có sự khác biệt tỷ lệ mức độ viêm nướu theo giai đoạn thai kỳ 
(p0,05). Trung bình 
các chỉ số GI và BOP có sự khác biệt theo giai đoạn thai kỳ (p<0,05) còn trung bình các chỉ số PD, OHI-S và PlI 
thì không có sự khác biệt (p>0,05). Tỷ lệ đối tượng không biết đến bệnh nha chu là 80,5%; tỷ lệ phụ nữ mang 
thai kiêng đánh răng sau sinh là 61,4%. Tỷ lệ đối tượng đánh răng 1 lần/ngày: 7,1%; 2 lần/ngày: 70,5% và ≥ 
3 lần/ngày: 22,4%; trong đó giá trị trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHI-S và PlI tỷ lệ nghịch với số lần đánh 
răng (p<0,001). Tỷ lệ đối tượng chỉ cần hướng dẫn vệ sinh răng miệng là 3,3%; tỷ lệ nhu cầu hướng dẫn vệ 
sinh răng miệng kết hợp lấy cao răng, mảng bám và cạo láng gốc răng là 94,3%; tỷ lệ đối tượng cần kết hợp 
với điều trị chuyên sâu là 2,4%. Kết luận: Bệnh nha chu, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai có tỷ lệ cao. Cần 
thiết giáo dục về kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng đúng và có biện pháp đáp ứng tốt nhu cầu 
điều trị bệnh nha chu cho phụ nữ mang thai.
Từ khóa: Bệnh nha chu, phụ nữ mang thai, kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng, nhu cầu 
điều trị.
Abstract
PERIODONTAL DISEASE STATUS, KNOWLEDGE, ATTITUDE, 
PRACTICE AND TREATMENT NEEDS OF PREGNANT WOMEN
Nguyen Duc Thien1, Tran Tan Tai2
(1) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Hue University of Medicine and Pharmacy
Background: Periodontal disease is a prominent and important issue of public health, especially in 
pregnant women. The objective of this study is to describe the clinical characteristics; learn knowledge, 
attitudes, practice oral hygiene and assess the need for treatment of periodontal disease in pregnant women. 
Subjects and Methods: A cross-sectional study of 210 pregnant women who visited the Department of 
Obstetrics and Gynecology at the Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital. Clinical examination 
and interview questions on knowledge, attitudes and practice of oral care for all subjects. Results: The 
incidence of gingivitis was 100%, with mild gingivitis of 4,3% and moderate gingivitis of 95.7%. There was a 
difference in incidence rates of gingivitis in the gestational period (p<0.001). The incidence of periodontitis is 
17.6% and there is no difference in gestational age (p>0.05). The mean values of GI and BOP indices differed 
by gestation period (p<0.05) and PD, OHI-S, PlI have statistically significant relationship with gestation period 
(p>0.05). The incidence of periodontal disease is 80.5%; The percentage of pregnant women who abstain 
from brushing their teeth after birth is 61.4%. Prevalence of brushing once a day: 7.1%; Twice a day: 70.5% 
and 3 times daily: 22.4%; The mean values of GI, PD, BOP, OHI-S and PlI were inversely proportional to 
the number of brushing (p<0.001). The rate of dental hygiene is just 3.3%; The rate of oral hygiene, dental 
plaque and plaque removal was 94,3%; The proportion of subjects required for intensive treatment is 2.4%. 
- Địa chỉ liên hệ: Trần Tấn Tài, email: taihangdr@gmail.com 
- Ngày nhận bài: 18/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 8/11/2018, Ngày xuất bản: 17/11/2018 
139
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Conclusion: Periodontal disease, especially for pregnant women, is high. It is necessary to educate the 
knowledge, attitudes and practice of proper oral hygiene and to better meet the demand for periodontal 
disease treatment for pregnant women.
Key words: Periodontal disease, pregnant women, knowledge, attitude, practice for oral hygiene, 
treatment needs.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh nha chu (BNC) là một bệnh lý phổ biến, 
phức tạp, đặc trưng bởi sự phá hủy mô mềm và 
mô cứng nâng đỡ răng, gây ra các biến chứng ảnh 
hưởng xấu đến sức khỏe và sinh hoạt con người, 
điều trị bệnh lại rất tốn kém. Đặc biệt trong công 
việc hằng ngày, các bác sĩ Răng Hàm Mặt thường 
phải tiếp nhận một đối tượng khá đặc biệt là phụ nữ 
mang thai (PNMT) mà việc điều trị đòi hỏi phải hiệu 
quả, an toàn cho người mẹ và thai nhi. 
Một số nghiên cứu trong và ngoài nước như của 
Lopez N.J (2002) và Vũ Trần Bảo Châu (2014) đã kết 
luận bệnh nha chu không chỉ gây hậu quả tại chỗ ở 
vùng miệng mà còn ảnh hưởng xấu đến thai kỳ như 
gây sinh non, nhẹ cân hoặc thai kém phát triển [1], 
[9]. Kiến thức hạn chế về bệnh nha chu của PNMT 
có ảnh hưởng xấu đến kết quả thai kỳ và đa số họ 
không đến gặp nha sĩ vì sợ điều trị sẽ gây hại cho 
thai nhi hoặc cảm thấy không cần thiết. Nguyên 
nhân có thể do thiếu sự tư vấn và cung cấp thông tin 
về chăm sóc răng miệng trong thai kỳ tại các đơn vị 
chăm sóc sức khỏe trước sinh. 
Hiện nay, tại Thừa Thiên - Huế và các tỉnh miền 
trung, chưa có nhiều nghiên cứu về sức khỏe răng 
miệng ở PNMT. Nghiên cứu về đặc điểm bệnh nha 
chu của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế của Nguyễn 
Toại và cộng sự (2014) thì tỷ lệ lưu hành bệnh nha 
chu trong cộng đồng là 52,3% [2]. Thực trạng này 
đặt ra vấn đề là phải chăng bệnh nha chu ở PNMT 
còn có những đặc điểm gì liên quan đến sinh lý lúc 
mang thai, kiến thức và thái độ đối với sức khỏe 
răng miệng (SKRM) và nhu cầu điều trị bệnh nha 
chu ở đối tượng đặc biệt này là như thế nào? từ đó, 
chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm 2 mục tiêu:
1. Khảo sát thực trạng bệnh nha chu ở phụ nữ 
mang thai đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học 
Y Dược Huế.
2. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc 
sức khỏe răng miệng và xác định nhu cầu điều trị 
bệnh nha chu ở các đối tượng nghiên cứu trên. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn chọn: Bao gồm các PNMT trên 
18 tuổi đến khám tại phòng khám Sản, Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế, có thai kỳ bình thường, 
còn hơn 20 răng thật trừ các răng cối lớn thứ 3.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các đối tượng có thai kỳ nguy 
cơ cao (bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp thai kỳ, 
bệnh huyết học,), đang sử dụng thuốc kháng sinh, 
kháng viêm và hút thuốc lá, uống rượu bia. 
Tất cả đều đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
- Cỡ mẫu: cho điều tra cắt ngang, công thức tính 
cỡ mẫu thích hợp là:
Tính được n=195, với P=0,523 theo Nguyễn Toại 
và cs (2014) là 52,3% [2]. Đây là cỡ mẫu tối thiểu, 
nghiên cứu chúng tôi có số PNMT được khảo sát là 
210 người.
- Phương pháp cụ thể:
+ Số liệu thu thập thông qua khám và phỏng vấn 
trực tiếp bởi bác sĩ chuyên khoa.
+ Bác sĩ khám lâm sàng được tập huấn, định 
chuẩn thống nhất cách khám.
+ Các tiêu chuẩn đánh giá viêm nướu, viêm nha 
chu ở PNMT theo các nghiên cứu khác trên thế giới 
và trong nước [4], [9].
+ Đánh giá tình trạng bệnh nha chu và vệ sinh 
răng miệng (VSRM) thông qua các chỉ số như: chỉ số 
nướu GI (Gingival index), chỉ số độ sâu túi nha chu 
chu khi thăm dò PD (Pocket Depth), chỉ số chảy máu 
khi thăm dò BOP (Bleeding on Probing), chỉ số VSRM 
đơn giản OHI-S (Oral Hygiene Index-Simplified), chỉ 
số mảng bảm PlI (Plaque Index) [5].
+ Tìm hiểu kiến thức, thái độ, thực hành qua 
phỏng vấn, từ đó mô tả được sự hiểu biết, thái độ 
và thực hành VSRM của PNMT đối với bệnh nha chu.
+ Đánh giá nhu cầu điều trị bệnh nha chu của 
PNMT thông qua chỉ số Nhu cầu điều trị bệnh 
nha chu CPITN (Community Periodontal Index of 
Treatment Need), trong đó có 3 mức là: CPITN1 (cần 
hướng dẫn VSRM), CPITN2 (cần hướng dẫn VSRM và 
lấy cao răng, cạo láng gốc răng), CPITN3 (cần hướng 
dẫn VSRM, lấy cao răng, cạo láng gốc răng và điều trị 
chuyên sâu) [3], [5].
2.3. Xử lý số liệu
- Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm 
Excel 2007 và SPSS 20.
n= Z
2 x P(1-P)
d2
140
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Dùng kiểm định χ2, kiểm định chính xác Fisher 
để so sánh tỷ lệ giữa các nhóm khác nhau.
- Test phi tham số để đánh giá sự liên quan giữa 
giá trị trung bình các chỉ số nha chu và các đặc điểm 
thai kỳ và thói quen chăm sóc răng miệng.
3.KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm n %
Thai kỳ
Quý 1 45 21,4
Quý 2 79 37,6
Quý 3 86 41,0
Tuổi của PNMT
18-25 73 34,8
26-30 78 37,1
31-35 43 20,5
36-40 16 7,6
Địa dư
Thành thị 74 35.2
Nông thôn 136 64.8
Nhóm PNMT ở quý 1, quý 2 và quý 3 chiếm tỷ lệ lần lượt là 21,4%; 37,6% và 41,0%. Đối tượng nhỏ tuổi 
nhất là 21, lớn tuổi nhất là 40, tuổi trung bình là 28,13 ± 4,50. Nhóm tuổi 18-25, 26-30, 31-35 và 36-40 chiếm 
tỷ lệ lần lượt là 34,8%; 37,1%; 20,5% và 7,6%. Tỷ lệ PNMT ở thành thị là 35,2% và nông thôn là 64,8%.
3.2. Thực trạng bệnh nha chu 
Bảng 3.2. Múc độ viêm nướu ở PNMT qua các giai đoạn thai kỳ
Giai đoạn 
thai kỳ
Mức độ viêm nướu
Tổng Giá trị pNhẹ Trung bình
Số lượng % Số lượng %
Quý 1 7 15,6 38 84,4 45
<0,001
Quý 2 1 1,3 78 98,7 79
Quý 3 1 1,2 85 98,8 86
Tổng 9 4,3 201 95,7 210
Tỷ lệ viêm nướu trung bình chiếm 95,7% và viêm nướu nhẹ là 4,3%. Không có trường hợp nào bị viêm 
nướu nặng. Nhóm PNMT ở các quý 1, quý 2 và quý 3 có tỷ lệ viêm nướu trung bình lần lượt là 84,4%, 98,7% 
và 98,8%; tỷ lệ viêm nướu nhẹ lần lượt là 15,6%, 1,3% và 1,2%. Tỷ lệ các mức độ viêm nướu theo các giai đoạn 
thai kỳ có sự khác biệt với p<0,001. 
Bảng 3.3. Tỉ lệ viêm nha chu ở PNMT qua các giai đoạn thai kỳ
Giai đoạn thai kỳ
Tình trạng viêm nha chu
Tổng Giá trị pCó Không
SL % SL %
Quý 1 6 13,3 39 86,7 45
>0,05
Quý 2 16 20,3 63 79,7 79
Quý 3 15 17,4 71 82,6 86
Tổng 37 17,6 173 82,4 210
Tỷ lệ VNC là 17,6% và không VNC là 82,4%. Nhóm PNMT ở các quý 1, quý 2 và quý 3 có tỷ lệ VNC lần lượt 
là 13,3%, 20,3% và 17,4%; không VNC có tỷ lệ lần lượt là 86,7%, 79,7% và 82,6%. Tỷ lệ VNC theo giai đoạn thai 
kỳ không có sự khác biệt với p>0,05.
Bảng 3.4. Trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHI-S và PlI
Thai kỳ
GI
TB ± DLC
PD
TB ± DLC
BOP
TB ± DLC
OHI-S
TB ± DLC
PlI
TB ± DLC
Quý 1 1,44 ± 0,30 1,62 ± 0,37 46,51 ± 14,49 2,54 ± 1,02 1,38 ± 0,32
141
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Quý 2 1,60 ± 0,24 1,74 ± 0,32 54,63 ± 12,34 2,41 ± 1,03 1,35 ± 0,24
Quý 3 1,55 ± 0,25 1,78 ± 0,28 52,65 ± 13,24 2,34 ± 1,06 1,31 ± 0,24
Giá trị p 0,05 0,05 > 0,05
Trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHI-S và PlI ở quý 1 lần lượt là 1,44; 1,62; 46,51; 2,54 và 1,38; ở quý 2 
lần lượt là 1,60; 1,74; 54,63; 2,41 và 1,35; ở quý 3 lần lượt là 1,55; 1,78; 52,65; 2,34 và 1,31. Trung bình các 
chỉ số PD, OHIS và PlI theo giai đoạn thai kỳ không có sự khác biệt với p>0,05. Trung bình các chỉ số GI và BOP 
theo giai đoạn thai kỳ có sự khác biệt với p<0,05.
3.3. Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng và nhu cầu điều trị
Bảng 3.5. Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng ở PNMT
Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng n %
Đã từng nghe đến bệnh 
nha chu hay chưa ?
Có 41 19,5
Không 169 80,5
Kiêng đánh răng sau khi 
sinh không ?
Có 129 61,4
Không 81 38,6
Thói quen đánh răng
1 lần/ngày 15 7,1
2 lần/ngày 148 70,5
≥ 3 lần/ngày 47 22,4
Số PNMT đã từng nghe đến BNC có tỷ lệ 19,5% và tỷ lệ đối tượng chưa từng nghe đến BNC chiếm 80,5%. 
Số PNMT có ý định kiêng đánh răng sau sinh chiếm tỷ lệ 61,4%. Tỷ lệ đối tượng đánh răng 1 lần/ngày chiếm 
7,1%; 2 lần/ngày chiếm 70,5% và ≥ 3 lần/ngày chiếm 22,4%.
Bảng 3.6. Trung bình các chỉ số nha chu theo thói quen vệ sinh răng miệng
Số lần đánh 
răng
GI
TB ± DLC
PD
TB ± DLC
BOP
TB ± DLC
OHIS
TB ± DLC
PlI
TB ± DLC
1 lần/ngày 1,93 ± 0,06 2,25 ± 0,12 76,40 ± 5,37 4,06 ± 0,20 1,71 ± 0,06
2 lần/ngày 1,54 ± 0,23 1,73 ± 0,27 51,30 ± 11,16 2,28 ± 0,96 1,32 ± 0,23
≥ 3 lần/ngày 1,45 ± 0,30 1,57 ± 0,34 46,79 ± 13,95 2,27 ± 0,97 1,30 ± 0,28
Giá trị p <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
Giá trị trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHIS và PlI ở PNMT đánh răng 1 lần/ngày lần lượt là: 1,93; 2,25; 
76,40; 4,06 và 1,71; đánh răng 2 lần/ngày lần lượt là 1,54; 1,73; 51,30; 2,28 và 1,32; đánh răng ≥ 3 lần/ngày 
lần lượt là 1,45; 1,57; 46,79; 2,27 và 1,30. Trung bình các chỉ số nha chu theo số lần đánh răng có sự khác 
biệt với p<0,001.
Bảng 3.7. Nhu cầu điều trị bệnh nha chu ở PNMT qua các giai đoạn thai kỳ
Thai kỳ
Chỉ số CPITN
Tổng Giá trị pCPITN1 CPITN2 CPITN3
SL % SL % SL %
Quý 1 5 11,1 40 88,9 0 0,0 45
<0,05
Quý 2 1 1,3 75 94,9 3 3,8 79
Quý 3 1 1,2 83 96,5 2 2,3 86
Tổng 7 3,3 198 94,3 5 2,4 210
Đối tượng có chỉ số CPITN 1, CPITN 2 và CPITN 3 chiếm tỷ lệ lần lượt là 3,3%; 94,3% và 2,4%. Ở Quý 1 tỷ 
lệ các mức CPITN 1, CPITN 2 và CPITN 3 lần lượt là 11,1%; 88,9% và 0,0%; sang quý 2 có tỷ lệ lần lượt là 1,3%; 
94,9% và 3,8%; đến quý 3 có tỷ lệ lần lượt là 1,2%; 96,5% và 2,3%. Tỷ lệ các mức CPITN theo giai đoạn thai kỳ 
có sự khác biệt p<0,05.
4. BÀN LUẬN
4.1. Về thực trạng bệnh nha chu
Theo bảng 2, tỷ lệ PNMT bị viêm nướu là 100% 
và đa số là viêm nướu trung bình chiếm 95,7%, còn 
lại 4,3% là viêm nướu nhẹ. So sánh với y văn và các 
nghiên cứu trên thế giới thì tỷ lệ viêm nướu của 
142
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
PNMT từ 35% – 100% [8], [14]. Nghiên cứu của Phan 
Thị Kim Tuyết (2007) thực hiện trên 146 PNMT tại 
Bệnh viện Cai Lậy, Tiền Giang, thì tỷ lệ PNMT bị viêm 
nướu là 100%, trong đó viêm nướu trung bình là 
97,9% và viêm nướu nhẹ là 2,1% [4]; tác giả Lê Bảo 
Trâm (2009) thực hiện trên 290 PNMT tại khoa Sản, 
Bệnh viện Bạch Mai thì tỷ lệ PNMT bị viêm nướu 
là 90,7%, trong đó viêm nướu nhẹ chiếm 73,4% và 
viêm nướu trung bình là 26,6% [3].
Kết quả bảng 3.2, tình trạng viêm nướu tăng 
dần theo thời gian mang thai có ý nghĩa thống kê 
(p<0,001). Những PNMT ở quý 2 và quý 3 có tỷ lệ 
mức độ viêm nướu trung bình cao hơn quý 1. Theo 
tác giả Tilakaratne và cộng sự (2000) nhận thấy rằng 
dù mảng bám được kiểm soát ở cả PNMT và phụ 
nữ không mang thai nhưng tình trạng viêm nướu ở 
PNMT vẫn cao hơn và tăng dần theo thời gian mang 
thai [15]. Kết quả này chứng tỏ nồng độ hormone 
giới tính cao có ảnh hưởng đến độ trầm trọng của 
viêm nướu và cũng phù hợp với nghiên cứu của 
chúng tôi.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi 
thấy rằng dường như viêm nướu là biểu hiện lâm 
sàng chủ yếu của bệnh nha chu và trầm trọng hơn 
ở PNMT. Kết luận này phù hợp với nghiên cứu của 
Machuca và cộng sự (1999), Taani và cộng sự (2003) 
[10], [14].
Kết quả ở bảng 3.3, có tỷ lệ PNMT bị viêm nha 
chu là 17,6%, so với nghiên cứu của Lê Bảo Trâm 
(2009) thì không có trường hợp nào bị viêm nha 
chu [3]. Kết quả của chúng tôi lại tương đương với 
nghiên cứu của Phan Thị Kim Tuyết (2007) có tỷ lệ 
PNMT bị viêm nha chu là 11,6% [4]. Sự khác biệt 
này là do sự khác nhau giữa các yếu tố địa dư, kinh 
tế xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp của các 
đối tượng và cách đánh giá chỉ số của mỗi tác giả.
Theo bảng 3.3 thì tỷ lệ viêm nha chu không 
khác biệt theo các giai đoạn thai kỳ (p>0,05) và 
bảng 4 thì giá trị trung bình độ sâu túi nha chu 
PD cũng không khác biệt theo các giai đoạn thai 
kỳ (p>0,05). Như vậy, quá trình mang thai chỉ là 
yếu tố làm tăng thêm nguy cơ bị viêm nha chu 
chứ không ảnh hưởng trực tiếp. Bởi vì theo nghiên 
cứu của Taani D.Q (2003) và Tilakaratne (1994) đều 
không tìm thấy ảnh hưởng của thai kỳ lên mức độ 
bám dính của mô nha chu [14], [15]. Mất bám dính 
thực sự cần một tình trạng viêm nướu mạn tính 
kéo dài hơn thời gian 9 tháng của thai kỳ [8].
Theo Tilakaratne và cộng sự (2000) thì không có 
sự khác biệt về độ mất bám dính giữa PNMT và phự 
nữ không mang thai, giữa tình trạng mang thai so 
với sau sinh 3 tháng dù viêm nướu tăng có ý nghĩa 
trong lúc mang thai [15]. Như vậy, trong lúc mang 
thai, tình trạng viêm nướu tăng dần và rõ rệt hơn 
các thành phần nha chu khác nhưng không gây phá 
hủy mô nha chu
Kết quả ở bảng 3.4, theo các giai đoạn thai kỳ 
thì giá trị trung bình của chỉ số mảng bảm PlI và chỉ 
số VSRM đơn giản OHI-S giảm dần không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05) và chỉ số viêm nướu GI, BOP lại 
tăng từ quý 1 sang quý 2 nhưng có chiều hướng 
giảm ở quý 3, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05) cho thấy viêm nướu lúc mang thai không 
tương xứng với số lượng mảng bám mà phụ thuộc 
vào sự thay đổi sinh lý trong quá trình mang thai. 
Điều này cũng phù hợp với kết luận của Lain A.M 
(2002) và Maximino González-Jaranay (2017): Mức 
độ viêm nướu tăng dần theo thời gian mang thai từ 
tháng thứ 2 trở đi và đạt đỉnh khoảng tháng thứ 8, 
giảm dần từ tháng thứ 9 cho đến sau sinh [8], [11]. 
Trong quý 1 của thai kỳ, các PNMT thường bị 
ốm nghén, đánh răng thường làm kích thích phản 
xạ nôn và theo nghiên cứu của Machuca và cộng 
sự (1999) cho thấy PNMT thường có sự thay đổi 
tâm sinh lý và hành vi theo hướng thiếu chăm sóc 
cá nhân trong lúc mang thai [10]. Sau thời gian quý 
1 của thai kỳ, tình trạng thiếu VSRM giảm dần theo 
thời gian mang thai cho đến khi sinh.
Trong nghiên cứu chúng tôi không tìm thấy sự 
đồng thuận giữa các chỉ số PlI, OHI-S với chỉ số GI, 
BOP theo giai đoạn thai kỳ (bảng 3.4). Điều này 
phù hợp với lập luận trước đây của Silness và Loe 
(1964): Viêm nướu có thể xảy ra trong suốt thai kỳ 
nhưng sự tương quan giữa số lượng mảng bám và 
mức độ viêm nướu sau khi sinh cao hơn so với lúc 
mang thai, kết luận rằng có yếu tố khác liên quan 
đến nguyên nhân của viêm nướu thai nghén [12]. 
Theo tác giả Taani D.Q (2003) thì sự tăng lên của 
viêm nướu là do tăng lượng hormone oestrogen 
và progesterone, những ảnh hưởng của chúng lên 
mạch máu nướu trong thai kỳ [14]. 
4.2. Về kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh 
răng miệng và nhu cầu điều trị bệnh nha chu
Ở bảng kết quả 3.5, chỉ có 41 PNMT là biết đến 
bệnh nha chu chiếm 19,5%, mà có đến 169 người, 
chiếm 80,5% là chưa hề nghe đến bệnh nha chu 
(Bảng 3.5). Tỷ lệ này tương đương với tác giả Phan 
Thị Kim Tuyết (2007) với tỷ lệ số PNMT không biết 
đến bệnh nha chu là 78,8% trong 146 PNMT [4]. 
Điều này cho thấy sự hạn chế trong việc tiếp nhận 
các thông tin về sức khỏe mô nha chu của người dân, 
đặc biệt là đối tượng PNMT. Công tác tuyên truyền 
về ảnh hưởng xấu của bệnh nha chu lên sức khỏe 
tổng quát và thai kỳ còn nhiều hạn chế và chưa thực 
sự phổ biến đến với người dân và PNMT. Trên thế 
giới, nghiên cứu của Asa’ad F.A và cộng sự (2015) 
143
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
khảo sát trên 300 PNMT ở các khu vực trung tâm và 
phía đông Ả Rập Saudi, có khoảng 97% biết tác dụng 
xấu của việc hút thuốc đối với thai kỳ, trong khi đó 
chỉ có 12% là biết bệnh nha chu ảnh hưởng xấu đến 
kết quả của thai kỳ [6]. 
Những quan niệm lạc hậu về SKRM vẫn còn tồn 
tại khá phổ biến như: Không khám và điều trị bệnh 
lý răng miệng lúc mang thai, kiêng đánh răng hoàn 
toàn sau sinh ít nhất một tháng. Trong nghiên cứu 
chúng tôi, có quá nửa số PNMT là kiêng đánh răng 
sau sinh chiếm tỷ lệ 61,4% (bảng 3.5). Tỷ lệ này ở 
nghiên cứu của Phan Thị Kim Tuyết (2007) là 58,9% 
thấp hơn so với nghiên cứu chúng tôi [4]. Rất không 
may là những điều sai lầm này được truyền dạy từ 
những người lớn tuổi trong gia đình nên ảnh hưởng 
mạnh tới thái độ và thói quen chăm sóc răng miệng 
của PNMT. 
Tình trạng này rất hay gặp ở đối tượng có trình 
độ học vấn thấp, nghề nghiệp không có thu nhập 
ổn định, phụ thuộc nhiều vào kinh tế gia đình. Kiến 
thức về bệnh lý răng miệng nói chung và bệnh nha 
chu nói riêng là rất cần thiết để phòng ngừa và duy 
trì tốt SKRM. Cho nên việc cung cấp kiến thức bằng 
các chương trình chăm sóc SKRM đóng vai trò hết 
sức quan trọng, giúp phòng ngừa tốt bệnh nha chu 
cho người dân và đặc biệt là đối tượng PNMT. 
Kết quả ở bảng 3.6, chúng tôi tìm thấy mối liên 
quan có ý nghĩa thống kê giữa thói quen đánh răng 
với các chỉ số GI, PlI, OHI-S, BOP và PD, theo đó giá trị 
trung bình của các chỉ số này giảm dần khi tần số đánh 
răng tăng lên. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên 
cứu của tác giả Machuca (1999): Tăng cường VSRM 
có thể làm giảm tác động xấu của sự gia tăng nồng 
độ hormone giới tính trên mô nha chu [10]. Điều này 
cho thấy nếu chúng ta chú trọng lồng ghép các vấn 
đề chăm sóc SKRM, mô nha chu đúng cách vào các 
chương trình giáo dục sức khỏe trong cộng đồng, 
nhất là trong các lần đi khám thai sản định kỳ thì sẽ 
cải thiện phần nào tình trạng sức khỏe của PNMT.
Vì người mẹ đóng một vai trò quyết định trong 
việc thực hành và truyền đạt những thói quen chăm 
sóc răng miệng tốt cho con của họ nên có thể xem 
PNMT là nhóm đối tượng mục tiêu cho giáo dục 
SKRM. Điều này phù hợp và khả thi hơn với điều 
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Ở Bảng 3.7, trong 210 PNMT thì có 7 người có chỉ 
số CPITN 1 tương ứng với nhu cầu hướng dẫn VSRM 
chiếm 3,3%, 198 người có mức CPITN 2 tương ứng 
với nhu cầu lấy cao răng chiếm 94,3%, còn lại là 5 
người ở mức CPITN 3 với nhu cầu điều trị chuyên 
sâu chiếm 2,4%. Như vậy phần đông đối tượng 
PNMT đều có nhu cầu điều trị là lấy cao răng, mảng 
bám và hướng dẫn VSRM. Trong quá trình thực hiện 
nghiên cứu, chúng tôi đã tư vấn các vần đề sức khỏe 
và chăm sóc răng miệng một cách trực tiếp. Đa phần 
các PNMT có túi nha chu sâu ≥ 4mm, tình trạng cao 
răng, mảng bám nhiều sau khi được giải thích đều 
ý thức được tầm quan trọng của SKRM đối với thai 
kỳ và thai nhi nên đã cố gắng đến và điều trị. Chứng 
tỏ rằng, người dân ở vùng nông thôn còn rất thiếu 
thông tin đúng về chăm sóc SKRM. Đa số PNMT vẫn 
theo những kinh nghiệm dân gian nên có những thói 
quen không tốt như kiêng đánh răng sau khi sinh, 
chỉ sử dụng nước súc miệng hoặc ngậm nước muối 
để làm sạch răng. Điều này ảnh hưởng xấu đến sức 
khỏe mô nha chu của phụ nữ lúc mang thai và sau 
khi sinh.
Nghiên cứu của Lê Bảo Trâm (2009) đã xếp 
những người có túi nha chu nông (CPI3) vào nhóm 
điều trị chuyên sâu cho nên tỷ lệ đối tượng có nhu 
cầu hướng dẫn VSRM (CPITN1) là 23,8%, lấy cao răng 
(CPITN2) là 65,5%, nhóm kết hợp điều trị chuyên sâu 
(CPITN3) là 1,4% còn lại là 9,3% các đối tượng có 
CPITN0 [3]. Kết quả của chúng tôi có cao hơn so với 
nghiên cứu của Sousa LLA (2016) khảo sát trên 302 
PNMT tại thành phố Picos, bang Piauí, Brazil với tỷ lệ 
CPITN1, CPITN2 và CPITN3 lần lượt là 11,6%; 45,7% 
và 42,7% nhưng tương đương với Gunjan Satija 
(2014) nghiên cứu trên 800 PNMT tới khám tại các 
bệnh viện ở thành phố Faridabad, Haryana, Ấn Độ với 
tỷ lệ CPITN2 và CPITN 3 lần lượt là 97,25% và 2,75% 
[7], [13]. Sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu, 
là do sự khác nhau về các đặc điểm địa dư, văn hóa 
xã hội và trình độ học vấn của đối tượng tham gia và 
cách đánh giá chỉ số của tác giả. Nhưng nhìn chung, 
đa số các PNMT đều có nhu cầu cần các thông tin về 
hướng dẫn vệ sinh, chăm sóc SKRM và lấy cao răng, 
mảng bám.
Kết quả ở bảng 3.7, theo thời gian mang thai thì 
nhu cầu điều trị có sự khác biệt giữa các quý của 
thai kỳ (p<0,05). Ở mức CPITN 1 thì quý 1 có tỷ lệ 
là 11,1% đến quý 3 là 3,3%, còn mức CPITN 2 ở quý 
1 là 88,9% đến quý 3 là 96,5%, mức CPITN 3 ở quý 
1 là 0%, quý 2 là 3,8% và quý 3 là 2,3%. Kết quả của 
nghiên cứu cho thấy các PNMT ở quý 1 của thai kỳ 
phần lớn do tác động của sự thay đổi trong sinh lý 
và sự phát triển của bào thai nên gây ra tình trạng 
ốm nghén hay nôn mửa, ảnh hưởng nhiều tới tình 
trạng VSRM làm tích tụ dần lượng cao răng mảng 
bám nhiều ở các giai đoạn thai kỳ tiếp theo làm tăng 
nhu cầu điều trị. 
5. KẾT LUẬN
5.1. Về thực trạng bệnh nha chu
- Tỷ lệ viêm nướu là 100%, trong đó viêm nướu 
nhẹ là 4,3% và viêm nướu trung bình là 95,7% và có 
144
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
sự khác biệt tỷ lệ mức độ viêm nướu theo giai đoạn 
thai kỳ (p<0,001). 
- Tỷ lệ viêm nha chu là 17,6% và không có sự khác 
biệt theo giai đoạn thai kỳ (p>0,05). 
- Trung bình các chỉ số GI và BOP có sự khác biệt 
theo giai đoạn thai kỳ (p<0,05) còn trung bình các 
chỉ số PD, OHI-S và PlI thì không có sự khác biệt 
(p>0,05). 
5.2. Về kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh 
răng miệng. 
- Tỷ lệ đối tượng không biết đến bệnh nha chu 
là 80,5%. 
- Tỷ lệ phụ nữ mang thai kiêng đánh răng sau 
sinh là 61,4%. 
- Tỷ lệ đối tượng đánh răng 1 lần/ngày: 7,1%; 2 
lần/ngày: 70,5% và ≥ 3 lần/ngày: 22,4%; trong đó giá 
trị trung bình các chỉ số GI, PD, BOP, OHI-S và PlI tỷ lệ 
nghịch với số lần đánh răng (p<0,001). 
5.3. Về nhu cầu điều trị bệnh nha chu
- Tỷ lệ đối tượng tỷ lệ nhu cầu hướng dẫn VSRM 
kết hợp lấy cao răng, mảng bám và cạo láng gốc răng 
là 94,3%; tỷ lệ cần kết hợp thêm điều trị chuyên sâu 
là 2,4%. Tỷ lệ các mức nhu cầu điều trị bệnh nha chu 
(CPITN) theo giai đoạn thai kỳ có sự khác biệt (p<0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Trần Bảo Châu và Ngô Thị Quỳnh Lan (2014), 
“Ảnh hưởng của nha chu đối với sinh non - sinh nhẹ cân 
một nghiên cứu bệnh chứng “, Nghiên cứu Y học - Y Học. 
TP Hồ Chí Minh, tr. 270-275.
2. Nguyễn Toại và các cộng sự (2014), “Nghiên cứu đặc 
điểm bệnh nha chu của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế”, 
Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học, Khoa Răng 
Hàm Mặt,, Trường, Đại Học Y Dược Huế, tr. 36- 42.
3. Lê Bảo Trâm (2009), Khảo sát tình trạng bệnh quanh 
răng, kiến thức, thái độ, thực hành và nhu cầu điều trị ở 
phụ nữ mang thai, Luận án bác sỹ chuyên khoa cấp II, Đại 
Học Y Hà Nội.
4. Phan Thị Kim Tuyết (2007), Tình trạng nha chu của 
phụ nữ mang thai nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Khu 
vực Cai Lậy -Tiền Giang, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại Học Y 
Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
5. Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt (2013), Các chỉ số đo 
lường sức khỏe răng miệng, Nha Khoa Cộng Đồng, Tập 1, 
Trường đại học Y Hà Nội, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
6. Farah A Asa’ad , Ghousia Rahman, Noura Al 
Mahmoud, Ebtehaj Al Shamasi, (2015), “Periodontal 
disease awareness among pregnant women in the 
central and eastern regions of Saudi Arabia”, Journal of 
Investigative and Clinical Dentistry. 6, tr. 8-15.
7. Gunjan Satija , C M Marya, J Avinash, Ruchi Nagpal, 
Balpreet Kaur Saini, Rohtash Kapoor and Nandita, (2014), 
“Periodontal Health Status of Pregnant Women Attending 
Various Government Hospitals in Faridabad City, Haryana, 
India”, British Journal of Medicine & Medical Research. 
4(15), tr. 2969-2982.
8. Laine AM (2002), “Effect of pregnancy on 
periodontal and dental health a review”, Acta Odontal 
Scand. 60, tr. 257 - 264
9. López NJ , Smith PC, Gutierrez J, (2002), 
“Periodontal therapy may reduce the risk of preterm 
low birth weight in women with periodontal disease: a 
randomized controlled trial”, J Periodontol. 73(8), tr. 911-
924.
10. Machuca G , Khoshfeiz O, Lacalle RJ, Machuca 
C, Bullon P (1999), “The influence of general health and 
sociocultural variables on the periodontal condition of 
pregnant women”, J Periodontol, Jul. 70(7), tr. 779 - 785.
11. Maximino González-Jaranay , Luís Téllez, Antonio 
Roa-López, Gerardo Gómez-Moreno, Gerardo Moreu, 
(2017), “Periodontal status during pregnancy and 
postpartum”, Plos One. 12(5).
12. Silness J , Loe H (1963), “Periodontal disease 
in pregnancy. II. Correlation between oral hygiene and 
periodontal condition”, Acta Odontologica Scandinavica. 
22, tr. 121-135.
13. Sousa LLA , Cagnani A, Barros AMS, Zanin L, Flório 
FM, (2016), “Pregnant women’s oral health: knowledge, 
practices and their relationship with periodontal disease”, 
RGO - Revista Gaúcha de Odontologia. 64(2), tr. 154-163.
14. Taani DQ , Habashneh R, Hammad MM, Batieha 
A (2003), “The periodontal status of pregnant women 
and its relationship with sosio-demographic and clinical 
cariables”, J of Oral Rehabilitation. 30, tr. 440-445.
15. Tilakaratne A , Soory M, Ranasinghe AW and et L 
(2000), “Periodontal diseases status during pregnancy and 
3 months post-partum in a rural population of Srilanka 
women”, J Clin Periondontol. 27, tr. 787 - 792.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_benh_nha_chu_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_va_nhu_c.pdf