Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017

Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại 400

hộ gia đình chuyên canh rau ở 2 xã Vũ Phúc, Vũ Chính,

tỉnh Thái Bình. Kết quả nghiên cứu về thực hành của

người dân trồng rau tại 2 xã về sử dụng hóa chất bảo

vệ thực vật (HCBVTV) cho thấy tỷ lệ người trồng rau

pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá

cao chiếm 57,2%; tuy nhiên vẫn còn 8,4% người trồng

rau còn pha đặc hơn hướng dẫn. Thời gian người dân

trồng rau thường thu hoạch rau từ 10 đến 15 ngày sau

khi phun HCBVTV vẫn còn thấp chiếm 59,5% ở nhóm

có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm

có trình độ học vấn dưới THCS. Tỷ lệ người trồng rau

thu gom bao bì, đúng theo hướng dẫn vẫn còn thấp

chiếm 37,3%

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017

Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn32
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
TÓM TẮT
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại 400 
hộ gia đình chuyên canh rau ở 2 xã Vũ Phúc, Vũ Chính, 
tỉnh Thái Bình. Kết quả nghiên cứu về thực hành của 
người dân trồng rau tại 2 xã về sử dụng hóa chất bảo 
vệ thực vật (HCBVTV) cho thấy tỷ lệ người trồng rau 
pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá 
cao chiếm 57,2%; tuy nhiên vẫn còn 8,4% người trồng 
rau còn pha đặc hơn hướng dẫn. Thời gian người dân 
trồng rau thường thu hoạch rau từ 10 đến 15 ngày sau 
khi phun HCBVTV vẫn còn thấp chiếm 59,5% ở nhóm 
có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm 
có trình độ học vấn dưới THCS. Tỷ lệ người trồng rau 
thu gom bao bì, đúng theo hướng dẫn vẫn còn thấp 
chiếm 37,3%. 
Từ khóa: Thực hành, hóa chất bảo vệ thực vật
ABSTRACT: 
PRACTICE OF VEGETABLE GROWERS ON 
USING PESTICIDES IN VU PHUC AND VU CHINH 
COMMUNES, THAI BINH PROVINCE IN 2017
The descriptive, cross-sectional study was 
implemented among 400 vegetables growing 
households to describe their’s practice on using 
pesticides in Vu Phuc and Vu Chinh communes, 
Thai Binh City in 2017. The results showed that the 
percentage of the farmers mixed the recommended 
dose on the package were 57.2% meanwhile 8.4% 
of them applied a higher dosage than recommended. 
The rate of practicing the harvest interval from 10 
to 15 days after spraying pesticides correctly were 
quite low, 59.5% among those at secondary level and 
above and 54.1% among those at lower levels. Only 
37.3% of the farmers collecting the packages properly 
according to the instructions.
Keywords: Practice, pesticides
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật tràn lan, không 
đúng quy cách đã gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con 
người, đặc biệt là rau xanh. Trong thời gian gần đây, sản 
xuất và tiêu thụ rau xanh đang đối mặt với vấn đề hết sức 
nghiêm trọng đó là sự mất an toàn trong các sản phẩm rau 
xanh. Một trong những nguyên nhân đưa đến sản phẩm 
rau không đạt độ an toàn thì dư lượng hóa chất bảo vệ thực 
vật, dư lượng nitrat và vi sinh vật là những yếu tố phổ biến 
và nguy hại gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng 
với các bệnh lý cấp tính và mạn tính. 
Theo kết quả nghiên cứu của Đặng Xuân Phi và 
cộng sự tại hai xã Đại Đồng, Tân Kỳ của huyện Tứ Kỳ, 
tỉnh Hải Dương tại 120 hộ trồng rau súp lơ cho thấy có 
72 loại thuốc khác nhau được sử dụng trên địa bàn 2 xã, 
có một số loại là cùng hoạt chất với nhau. Tại xã Đại 
Đồng có tỷ lệ sử dụng thuốc sinh học chiếm 16,28% cao 
hơn Tân Kỳ chỉ có 8,33%. Trung bình trong 1 vụ, mỗi 
hộ sản xuất súp lơ tại xã phun trung bình từ 6 đến 7 lần 
thuốc BVTV [4].
Kết quả nghiên cứu của May Lwin và cộng sự về 
kiến thức, thực hành của nông dân về sử dụng thuốc trừ 
sâu trong trồng cà chua tại hồ Inlay, Myanmar cho thấy 
có khoảng 80% không biết được tác hại của HCBVTV; 
94,6% người dân có đọc hướng dẫn sử dụng trước khi pha 
thuốc trừ sâu; 86,9% có sử dụng bảo hộ lao động khi phun 
HCBVTV [6].
Theo kết quả nghiên cứu của K’Vởi và cộng sự 
(2010) tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng cho thấy tỷ 
lệ người dân có kiến thức chung đúng về hóa chất bảo vệ 
thực vật chỉ có 35%; 29% có thái độ chung đúng trong 
việc sử dụng và đảm bảo an toàn hóa chất bảo vệ thực vật 
và 27% có thực hành an toàn trong việc sử dụng hóa chất 
bảo vệ thực vật [1].
Vì vậy, để góp phần vào công tác nâng cao nhận 
thức, thực hành của người dân về sử dụng hóa chất 
Ngày nhận bài: 12/04/2018 Ngày phản biện: 27/04/2018 Ngày duyệt đăng: 29/05/2018
THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT 
CỦA NGƯỜI DÂN TRỒNG RAU TẠI 2 XÃ VŨ PHÚC VÀ VŨ 
CHÍNH, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2017
Lê Thị Kiều Hạnh1, Đặng Thị Vân Quý1, Đặng Thị Ngọc Anh1 
1. Trường Đại học Y Dược Thái Bình
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 33
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
bảo vệ thực vật an toàn trong trồng rau, chúng tôi 
tiến hành triển khai thực hiện nghiên cứu với mục 
tiêu: Mô tả thực hành của người dân về sử dụng 
hóa chất bảo vệ thực vật trong trồng rau tại địa bàn 
nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Địa bàn, đối tượng và thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại 
xã Vũ Phúc và xã Vũ Chính thuộc thành phố Thái Bình, 
tỉnh Thái Bình
Đối tượng nghiên cứu: Người chuyên canh rau tại hai 
xã Vũ Phúc và Vũ Chính
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ 
tháng 1/2017 đến 6/2017
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Thiết kế nghiên cứu: Dịch tễ học mô tả dựa trên 
cuộc điều tra cắt ngang có phân tích
- Chọn mẫu và cỡ mẫu:
+ Cỡ mẫu: Để phỏng vấn người chuyên canh rau 
về kiến thức sử dụng HCBVT sử dụng công thức tính 
tỷ lệ.
Trong đó: 
n: Là cỡ mẫu cho nghiên cứu (đơn vị mẫu là hộ gia 
đình)/xã
Z1-α/2: Hệ số tin cậy phụ thuộc vào ngưỡng xác suất µ 
(Với µ = 0,05 thì Z = 1,96) 
p: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng đúng hóa chất bảo vệ 
thực vật trong trồng rau, ước tính p=0,5 
e: Độ sai lệch mong muốn, trong nghiên cứu này 
chúng tôi chọn e = 0,05.
Với các dữ liệu trên cỡ mẫu được tính cho điều tra 
384 được làm tròn là 400 hộ gia đình. Và như vậy mỗi xã 
tiến hành điều tra 200 hộ gia đình.
+ Chọn mẫu:
- Chọn xã điều tra: Chúng tôi chọn chủ định xã Vũ 
Phúc và xã Vũ Chính thuộc thành phố Thái Bình. 
- Chọn đối tượng nghiên cứu: Từ các xã đã được chọn, 
chọn ngẫu nhiên ra 2 thôn trong các thôn trồng rau chính 
của xã, sau đó chọn ngẫu nhiên hộ gia đình đầu tiên để điều 
tra, các hộ gia đình tiếp theo được tiến hành theo phương 
pháp cổng liền cổng cho đến khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu.
2.3. Xử lý số liệu
Các số liệu được nhập vào máy tính và phân tích dựa 
trên phần mềm Epi-info 6.04, Epi-Data và sử dụng các 
thuật toán thống kê y học
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
( )
2
2
)2/1(
1
e
ppZn −××= −α
Bảng 3.1. Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu (n=400) 
Trình độ học vấn Số lượng Tỷ lệ (%)
Không biết chữ 2 0,5
Biết đọc, biết viết 6 1,5
Tiểu học 66 16,5
THCS 271 67,8
THPT 50 12,5
Cao đẳng, đại học 5 1,3
Số liệu bảng 3.1 cho thấy, trình độ học vấn của đối 
tượng nghiên cứu của 2 xã chủ yếu là THCS và tiểu học 
chiếm 67,8% và 16,5%. Vẫn còn tỷ lệ nhỏ đối tượng tham 
gia nghiên cứu là không biết chữ hoặc chỉ biết đọc, biết 
viết chiếm 2%.
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn34
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
Bảng 3.2. Thực hành pha HCBVTV của người trồng rau (n=400)
Cách pha HCBVTV
≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400)
SL % SL % SL %
Theo đúng hướng dẫn trên bao bì 256 78,5 42 56,8 298 57,2
Đặc hơn hướng dẫn 35 10,7 9 12,2 44 8,4
Loãng hơn chỉ dẫn 4 1,2 0 - 4 0,8
Pha 1 loại 45 13,8 13 17,6 58 11,1
Pha trộn trên 2 loại 87 26,7 21 28,4 108 20,7
Khác 6 1,8 3 4,1 9 1,7
Bảng 3.3. Thực hành của người trồng rau về cách chọn thời tiết
và hướng gió khi phun hóa chất bảo vệ thực vật (n=400)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Thời tiết
Trời nắng 26 6,5
Trời râm mát 370 92,5
Trời âm u 4 1,0
Hướng gió
Ngược chiều gió 99 24,8
Xuôi chiều gió 301 75,3
Kết quả bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ người dân trồng rau 
pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá cao 
chiếm 78,5% ở nhóm 1 và 56,8% ở nhóm 2. Tuy nhiên 
vẫn còn 10,7% ở nhóm 1 và 12,2% ở nhóm 2 vẫn pha 
HCBVTV đặc hơn hướng dẫn.
Số liệu bảng 3.3 cho thấy đa số người dân đều biết 
đúng thời tiết khi phun hóa chất bảo vệ thực vật là lúc trời 
râm mát (92,5% ), 75,3% người dân có thực hành đúng 
về chọn hướng gió khi phun HCBVTV là xuôi chiều gió.
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 35
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.4. Thực hành của người trồng rau về các phương tiện bảo vệ
khi phun hóa chất bảo vệ thực vật (n=400)
Các phương tiện khi phun 
HCBVTV
≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400)
SL % SL % SL %
Quần áo BHLĐ 112 34,4 20 27,0 132 9,7
Mũ nón 252 77,3 54 73,0 306 22,5
Găng tay 201 61,7 43 58,1 244 18,0
Ủng 128 39,3 22 29,7 150 11,0
Kính 42 12,9 13 17,6 55 4,0
Khẩu trang 270 82,8 61 82,4 331 24,4
Áo mưa 91 27,9 26 35,1 117 8,6
Không sử dụng 20 6,1 4 5,4 24 1,8
Sử dụng đầy đủ 0 - 0 - 0 -
Bảng 3.5. Thời gian người dân thường thu hoạch rau sau khi sử dụng 
hóa chất bảo vệ thực vật (n=400)
Thời gian thu hoạch rau
≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400)
SL % SL % SL %
< 10 ngày 82 25,2 20 27,0 102 25,5
10 – 15 ngày 194 59,5 40 54,1 234 58,5
> 15 ngày 50 15,3 14 18,9 64 16,0
Số liệu bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ người dân sử dụng khẩu 
trang khi phun hóa chất bảo vệ thực vật là cao nhất chiếm 
82,8% ở nhóm 1 và 82,4% ở nhóm 2; thấp nhất là kính mắt 
chiếm 12,9% ở nhóm 1 và 17,6% ở nhóm 2. Tuy nhiên vẫn 
còn 6,1% ở nhóm 1 và 5,4% ở nhóm 2 không sử dụng các 
phương tiện bảo vệ khi phun hóa chất bảo vệ thực vật
Kết quả bảng 3.5 cho thấy đa số người dân trồng ra 
thường thu hoạch từ 10 ngày đến 15 ngày sau khi phun 
xong hóa chất bảo vệ thực vật (59,5% ở nhóm có trình 
độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ 
học vấn dưới THCS). Tuy nhiên vẫn còn 25,2% ở nhóm 
có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 27,0% ở nhóm có 
trình độ học vấn dưới THCS thu hoạch rau dưới 10 ngày 
sau khi phun hóa chất bảo vệ thực vật.
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn36
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
Bảng 3.6 cho biết thực hành của người dân trồng rau 
về xử lý bao bì, chai đựng HCBVTV sau khi phun. Kết 
quả cho thấy tỷ lệ người trồng rau gom đúng theo hướng 
dẫn vẫn còn thấp chiếm 45,4% ở nhóm có trình độ học 
vấn từ THCS trở lên và 35,1% ở nhóm có trình độ học 
vấn dưới THCS.
IV. BÀN LUẬN
Khi pha thuốc nếu thay đổi về liều lượng của hợp chất 
sẽ dễ dẫn đến tăng liều lượng được cho phép theo từng 
sản phẩm đồng thời có thể sẽ tạo ra một lượng dư thừa 
HCBVTV trong sản phẩm do chưa kịp phân hủy hết có 
thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu thụ. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 78,5% ở nhóm 1 và 
56,8% ở nhóm 2 pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên 
bao bì. Tuy nhiên vẫn còn 10,7% ở nhóm 1 và 12,2% ở 
nhóm 2 vẫn pha HCBVTV đặc hơn hướng dẫn (bảng 3.2). 
Nghiên cứu này của chúng thấp hơn với kết quả nghiên 
cứu của Trần Thị Ngọc Lan và cộng sự tại Thái Bình cho 
thấy khoảng 70% các hộ tăng nồng độ sử dụng thuốc từ 
1,5-2 lần; đặc biệt là trên các vùng rau việc tăng nồng độ 
thuốc trừ sâu là khá lớn [3]. Tỷ lệ người dân trồng rau trong 
nghiên cứu của chúng tôi tự tăng nồng độ khi phun tuy khá 
thấp nhưng đây cũng là vấn đề đáng lo ngại; đặc biệt là vẫn 
còn 26,7% và 28,4% ở 2 nhóm học vấn pha trộn trên 2 loại 
HCBVTV khi phun. Việc tăng nồng độ cũng như phối hợp 
nhiều loại là vì người dân trồng rau kỳ vọng là có thể năng 
cao hiệu quả của thuốc. Điều này cho thấy sự thiếu hụt về 
kiến thức khi sử dụng HCBVTV của người dân trồng rau. 
Thực tế trên đồng ruộng ít khi nhiều đối tượng dịch hại xuất 
hiện đỉnh cao cùng một lúc với nhau, do đó việc tăng nồng 
độ thuốc hay tạo hỗn hợp thuốc nhiều khi chỉ gây lãng phí, 
ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường, đôi khi còn gây ảnh 
hưởng đến cây trồng và hệ sinh thái.
Phun thuốc trong điều kiện nắng có thể làm tăng độc 
tính của thuốc BVTV với sức khỏe con người. Vì điều 
kiện trời nắng có thể làm các lỗ chân lông mở ra, mồ hôi 
bài tiết nhiều, làm tăng sự hấp thu thuốc, giảm sức chống 
đỡ của cơ thể như làm cho cơ thể mất nước hoặc say nắng 
kèm theo. Đồng thời phun thuốc trong điều kiện nắng gắt, 
nhiệt độ cao thuốc sẽ bị phân hủy nhanh, giảm hiệu lực 
của thuốc. Một trong những nguyên tắc của 4 đúng khi 
phun là đi giật lùi, không phun thuốc ngược chiều gió, nên 
đi vuông góc với chiều gió để đảm bảo an toàn cho người 
lao động. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ người 
dân có thực hành đúng khi chọn thời tiết và hường gió để 
phun HCBVTV là khá cao. Có 92,5% người dân có thực 
hành đúng về chọn thời tiết phun là lúc trời râm mát và 
75,3% người dân có thực hành đúng về chọn hướng gió 
khi phun HCBVTV là xuôi chiều gió (bảng 3.3). Nghiên 
cứu của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh cho thấy về tỷ lệ 
người chọn thời tiết khi phun là trời râm mát chiếm 91,2% 
gần như tương đương với nghiên cứu của chúng tôi nhưng 
phun xuôi chiều gió lại thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi 
chỉ chiếm 44,4% [2]. 
Trang bị bảo hộ lao động khi phun hóa chất bảo vệ 
thực vật giảm sự tiếp xúc và xâm nhập thuốc vào cơ thể, 
đồng thời hạn chế nguy cơ bị ngộ độc. Kết quả về phần 
Bảng 3.6. Thực hành của người trồng rau về xử lý bao bì, chai đựng HCBVTV sau khi phun (n=400)
Xử lý bao bì, chai đựng 
HCBVTV
≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400)
SL % SL % SL %
Gom lại rồi bán 1 0,3 1 1,4 2 0,4
Vứt ngay chỗ phun 26 8,0 10 13,5 36 7,7
Tiện chỗ nào thì vất 23 7,1 7 9,5 30 6,4
Đốt 128 39,3 30 40,5 158 33,8
Chôn sâu 31 9,5 6 8,1 37 7,9
Gom theo hướng dẫn 148 45,4 26 35,1 174 37,3
Khác 22 6,7 8 10,8 30 6,4
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 37
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thực hành của người dân cho thấy chủ yếu người dân sử 
dụng khẩu trang khi phun HCBVTV là cao nhất chiếm 
82,8% ở nhóm 1 và 82,4% ở nhóm 2. Vẫn còn 6,1% và 
5,4% ở nhóm 1 và ở nhóm 2 không sử dụng bất kỳ một 
bảo hộ lao động nào khi đi phun. Không có trường hợp 
nào ở cả hai nhóm sử dụng đầy đủ các phương tiện khi 
phun HCBVTV. Nghiên cứu của cao hơn so với nghiên 
cứu tác giả như Basssam tại miền Bắc Gaza cho thấy 
100% người dân không sử dụng bất kỳ phương tiện nào 
khi phun HCBVTV [6].
Về thời gian cách ly hóa chất bảo vệ thực vật trước 
khi thu hoạch có 59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ 
THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới 
THCS thường thu hoạch từ 10 ngày đến 15 ngày. Nghiên 
cứu chúng tôi cao hơn so với kết quả nghiên cứu của 
nhóm tác giả Bùi Thị Nga tại xã Thuận An, huyện Bình 
Minh, tỉnh Vĩnh Long năm 2014 cho thấy tỷ lệ hộ trồng 
rau có thời gian ngưng sử dụng thuốc chủ yếu là trước 6 
ngày chiếm 54,7%; vì các hộ gia đình thường cho rằng 
việc tưới nước thường xuyên cho rau sẽ góp phần rửa 
trôi thuốc nên dư lượng thuốc tồn tại trên rau là không 
đáng kể [5].
IV. KẾT LUẬN 
 - Phương tiện bảo vệ cơ thể khi phun HCBVTV được 
người dân sử dụng nhiều nhất là khẩu trang chiếm 82,8% 
ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 82,4% ở 
nhóm có trình độ học vấn dưới THCS
- Tỷ lệ người dân trồng rau pha HCBVTV theo đúng 
hướng dẫn trên bao bì khá cao chiếm 78,5% ở nhóm có 
trình độ học vấn từ THCS trở lên và 56,8% ở nhóm có 
trình độ học vấn dưới THCS.
- Thời gian người dân trồng rau thường thu hoạch rau 
từ 10 đến 15 ngày sau khi phun HCBVTV vẫn còn thấp 
chiếm 59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên 
và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. K’Vởi, Đỗ Văn Dũng (2010), “Kiến thức, thái độ, thực hành về hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng 
rau tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng năm 2008”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14.
2. Nguyễn Tuấn Khanh (2010), Đánh giá ảnh hưởng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đến sức khỏe người 
chuyên canh chè tại Thái Nguyên và hiệu quả các biện pháp can thiệp, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học 
Thái Nguyên. 
3. Trần Thị Ngọc Lan, Nguyễn Phượng Lê, Nguyễn Thành Phong (2014), “Quản lý nhà nước về sử dụng 
thuốc bảo vệ thực vật của hộ nông dân ở tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, số 6 (tập 12), tr.863-843.
4. Đặng Xuân Phi, Đỗ Kim Chung (2012), “Đánh giá rủi ro thuốc bảo vệ thực vật thông qua chỉ số tác động 
môi trường trong sản xuất súp lơ ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 5(15), tr. 51-57
5. Bassam, Al-zain, Jihad mosalami (2014), Pesticides Usage, Perceptions, practices and health effects among 
farmers in North Gaza, Palestine, Indian journal of applied research, vol 4(6), pp. 17-22.
6. May Lwin OO, Mitsuyasu Yabe, Huynh Viet Khai (2012), Farmers’ perception, knowledge and pesticide 
usage practice: A case study of tomato production in Inlay Lake, Myanmar, Journal Facutly of Agriculture, vol 57 (1), 
pp.327-331.

File đính kèm:

  • pdfthuc_hanh_ve_su_dung_hoa_chat_bao_ve_thuc_vat_cua_nguoi_dan.pdf