Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại 400
hộ gia đình chuyên canh rau ở 2 xã Vũ Phúc, Vũ Chính,
tỉnh Thái Bình. Kết quả nghiên cứu về thực hành của
người dân trồng rau tại 2 xã về sử dụng hóa chất bảo
vệ thực vật (HCBVTV) cho thấy tỷ lệ người trồng rau
pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá
cao chiếm 57,2%; tuy nhiên vẫn còn 8,4% người trồng
rau còn pha đặc hơn hướng dẫn. Thời gian người dân
trồng rau thường thu hoạch rau từ 10 đến 15 ngày sau
khi phun HCBVTV vẫn còn thấp chiếm 59,5% ở nhóm
có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm
có trình độ học vấn dưới THCS. Tỷ lệ người trồng rau
thu gom bao bì, đúng theo hướng dẫn vẫn còn thấp
chiếm 37,3%
Bạn đang xem tài liệu "Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hành về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại 2 xã Vũ Phúc và Vũ Chính, tỉnh Thái Bình năm 2017
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn32 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 TÓM TẮT Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại 400 hộ gia đình chuyên canh rau ở 2 xã Vũ Phúc, Vũ Chính, tỉnh Thái Bình. Kết quả nghiên cứu về thực hành của người dân trồng rau tại 2 xã về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) cho thấy tỷ lệ người trồng rau pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá cao chiếm 57,2%; tuy nhiên vẫn còn 8,4% người trồng rau còn pha đặc hơn hướng dẫn. Thời gian người dân trồng rau thường thu hoạch rau từ 10 đến 15 ngày sau khi phun HCBVTV vẫn còn thấp chiếm 59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS. Tỷ lệ người trồng rau thu gom bao bì, đúng theo hướng dẫn vẫn còn thấp chiếm 37,3%. Từ khóa: Thực hành, hóa chất bảo vệ thực vật ABSTRACT: PRACTICE OF VEGETABLE GROWERS ON USING PESTICIDES IN VU PHUC AND VU CHINH COMMUNES, THAI BINH PROVINCE IN 2017 The descriptive, cross-sectional study was implemented among 400 vegetables growing households to describe their’s practice on using pesticides in Vu Phuc and Vu Chinh communes, Thai Binh City in 2017. The results showed that the percentage of the farmers mixed the recommended dose on the package were 57.2% meanwhile 8.4% of them applied a higher dosage than recommended. The rate of practicing the harvest interval from 10 to 15 days after spraying pesticides correctly were quite low, 59.5% among those at secondary level and above and 54.1% among those at lower levels. Only 37.3% of the farmers collecting the packages properly according to the instructions. Keywords: Practice, pesticides I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật tràn lan, không đúng quy cách đã gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt là rau xanh. Trong thời gian gần đây, sản xuất và tiêu thụ rau xanh đang đối mặt với vấn đề hết sức nghiêm trọng đó là sự mất an toàn trong các sản phẩm rau xanh. Một trong những nguyên nhân đưa đến sản phẩm rau không đạt độ an toàn thì dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật, dư lượng nitrat và vi sinh vật là những yếu tố phổ biến và nguy hại gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng với các bệnh lý cấp tính và mạn tính. Theo kết quả nghiên cứu của Đặng Xuân Phi và cộng sự tại hai xã Đại Đồng, Tân Kỳ của huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tại 120 hộ trồng rau súp lơ cho thấy có 72 loại thuốc khác nhau được sử dụng trên địa bàn 2 xã, có một số loại là cùng hoạt chất với nhau. Tại xã Đại Đồng có tỷ lệ sử dụng thuốc sinh học chiếm 16,28% cao hơn Tân Kỳ chỉ có 8,33%. Trung bình trong 1 vụ, mỗi hộ sản xuất súp lơ tại xã phun trung bình từ 6 đến 7 lần thuốc BVTV [4]. Kết quả nghiên cứu của May Lwin và cộng sự về kiến thức, thực hành của nông dân về sử dụng thuốc trừ sâu trong trồng cà chua tại hồ Inlay, Myanmar cho thấy có khoảng 80% không biết được tác hại của HCBVTV; 94,6% người dân có đọc hướng dẫn sử dụng trước khi pha thuốc trừ sâu; 86,9% có sử dụng bảo hộ lao động khi phun HCBVTV [6]. Theo kết quả nghiên cứu của K’Vởi và cộng sự (2010) tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng cho thấy tỷ lệ người dân có kiến thức chung đúng về hóa chất bảo vệ thực vật chỉ có 35%; 29% có thái độ chung đúng trong việc sử dụng và đảm bảo an toàn hóa chất bảo vệ thực vật và 27% có thực hành an toàn trong việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật [1]. Vì vậy, để góp phần vào công tác nâng cao nhận thức, thực hành của người dân về sử dụng hóa chất Ngày nhận bài: 12/04/2018 Ngày phản biện: 27/04/2018 Ngày duyệt đăng: 29/05/2018 THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT CỦA NGƯỜI DÂN TRỒNG RAU TẠI 2 XÃ VŨ PHÚC VÀ VŨ CHÍNH, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2017 Lê Thị Kiều Hạnh1, Đặng Thị Vân Quý1, Đặng Thị Ngọc Anh1 1. Trường Đại học Y Dược Thái Bình SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 33 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC bảo vệ thực vật an toàn trong trồng rau, chúng tôi tiến hành triển khai thực hiện nghiên cứu với mục tiêu: Mô tả thực hành của người dân về sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong trồng rau tại địa bàn nghiên cứu. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa bàn, đối tượng và thời gian nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại xã Vũ Phúc và xã Vũ Chính thuộc thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình Đối tượng nghiên cứu: Người chuyên canh rau tại hai xã Vũ Phúc và Vũ Chính Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2017 đến 6/2017 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: Dịch tễ học mô tả dựa trên cuộc điều tra cắt ngang có phân tích - Chọn mẫu và cỡ mẫu: + Cỡ mẫu: Để phỏng vấn người chuyên canh rau về kiến thức sử dụng HCBVT sử dụng công thức tính tỷ lệ. Trong đó: n: Là cỡ mẫu cho nghiên cứu (đơn vị mẫu là hộ gia đình)/xã Z1-α/2: Hệ số tin cậy phụ thuộc vào ngưỡng xác suất µ (Với µ = 0,05 thì Z = 1,96) p: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng đúng hóa chất bảo vệ thực vật trong trồng rau, ước tính p=0,5 e: Độ sai lệch mong muốn, trong nghiên cứu này chúng tôi chọn e = 0,05. Với các dữ liệu trên cỡ mẫu được tính cho điều tra 384 được làm tròn là 400 hộ gia đình. Và như vậy mỗi xã tiến hành điều tra 200 hộ gia đình. + Chọn mẫu: - Chọn xã điều tra: Chúng tôi chọn chủ định xã Vũ Phúc và xã Vũ Chính thuộc thành phố Thái Bình. - Chọn đối tượng nghiên cứu: Từ các xã đã được chọn, chọn ngẫu nhiên ra 2 thôn trong các thôn trồng rau chính của xã, sau đó chọn ngẫu nhiên hộ gia đình đầu tiên để điều tra, các hộ gia đình tiếp theo được tiến hành theo phương pháp cổng liền cổng cho đến khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu. 2.3. Xử lý số liệu Các số liệu được nhập vào máy tính và phân tích dựa trên phần mềm Epi-info 6.04, Epi-Data và sử dụng các thuật toán thống kê y học III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ( ) 2 2 )2/1( 1 e ppZn −××= −α Bảng 3.1. Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu (n=400) Trình độ học vấn Số lượng Tỷ lệ (%) Không biết chữ 2 0,5 Biết đọc, biết viết 6 1,5 Tiểu học 66 16,5 THCS 271 67,8 THPT 50 12,5 Cao đẳng, đại học 5 1,3 Số liệu bảng 3.1 cho thấy, trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu của 2 xã chủ yếu là THCS và tiểu học chiếm 67,8% và 16,5%. Vẫn còn tỷ lệ nhỏ đối tượng tham gia nghiên cứu là không biết chữ hoặc chỉ biết đọc, biết viết chiếm 2%. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn34 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 Bảng 3.2. Thực hành pha HCBVTV của người trồng rau (n=400) Cách pha HCBVTV ≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400) SL % SL % SL % Theo đúng hướng dẫn trên bao bì 256 78,5 42 56,8 298 57,2 Đặc hơn hướng dẫn 35 10,7 9 12,2 44 8,4 Loãng hơn chỉ dẫn 4 1,2 0 - 4 0,8 Pha 1 loại 45 13,8 13 17,6 58 11,1 Pha trộn trên 2 loại 87 26,7 21 28,4 108 20,7 Khác 6 1,8 3 4,1 9 1,7 Bảng 3.3. Thực hành của người trồng rau về cách chọn thời tiết và hướng gió khi phun hóa chất bảo vệ thực vật (n=400) Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%) Thời tiết Trời nắng 26 6,5 Trời râm mát 370 92,5 Trời âm u 4 1,0 Hướng gió Ngược chiều gió 99 24,8 Xuôi chiều gió 301 75,3 Kết quả bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ người dân trồng rau pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá cao chiếm 78,5% ở nhóm 1 và 56,8% ở nhóm 2. Tuy nhiên vẫn còn 10,7% ở nhóm 1 và 12,2% ở nhóm 2 vẫn pha HCBVTV đặc hơn hướng dẫn. Số liệu bảng 3.3 cho thấy đa số người dân đều biết đúng thời tiết khi phun hóa chất bảo vệ thực vật là lúc trời râm mát (92,5% ), 75,3% người dân có thực hành đúng về chọn hướng gió khi phun HCBVTV là xuôi chiều gió. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 35 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 3.4. Thực hành của người trồng rau về các phương tiện bảo vệ khi phun hóa chất bảo vệ thực vật (n=400) Các phương tiện khi phun HCBVTV ≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400) SL % SL % SL % Quần áo BHLĐ 112 34,4 20 27,0 132 9,7 Mũ nón 252 77,3 54 73,0 306 22,5 Găng tay 201 61,7 43 58,1 244 18,0 Ủng 128 39,3 22 29,7 150 11,0 Kính 42 12,9 13 17,6 55 4,0 Khẩu trang 270 82,8 61 82,4 331 24,4 Áo mưa 91 27,9 26 35,1 117 8,6 Không sử dụng 20 6,1 4 5,4 24 1,8 Sử dụng đầy đủ 0 - 0 - 0 - Bảng 3.5. Thời gian người dân thường thu hoạch rau sau khi sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật (n=400) Thời gian thu hoạch rau ≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400) SL % SL % SL % < 10 ngày 82 25,2 20 27,0 102 25,5 10 – 15 ngày 194 59,5 40 54,1 234 58,5 > 15 ngày 50 15,3 14 18,9 64 16,0 Số liệu bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ người dân sử dụng khẩu trang khi phun hóa chất bảo vệ thực vật là cao nhất chiếm 82,8% ở nhóm 1 và 82,4% ở nhóm 2; thấp nhất là kính mắt chiếm 12,9% ở nhóm 1 và 17,6% ở nhóm 2. Tuy nhiên vẫn còn 6,1% ở nhóm 1 và 5,4% ở nhóm 2 không sử dụng các phương tiện bảo vệ khi phun hóa chất bảo vệ thực vật Kết quả bảng 3.5 cho thấy đa số người dân trồng ra thường thu hoạch từ 10 ngày đến 15 ngày sau khi phun xong hóa chất bảo vệ thực vật (59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS). Tuy nhiên vẫn còn 25,2% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 27,0% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS thu hoạch rau dưới 10 ngày sau khi phun hóa chất bảo vệ thực vật. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn36 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 Bảng 3.6 cho biết thực hành của người dân trồng rau về xử lý bao bì, chai đựng HCBVTV sau khi phun. Kết quả cho thấy tỷ lệ người trồng rau gom đúng theo hướng dẫn vẫn còn thấp chiếm 45,4% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 35,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS. IV. BÀN LUẬN Khi pha thuốc nếu thay đổi về liều lượng của hợp chất sẽ dễ dẫn đến tăng liều lượng được cho phép theo từng sản phẩm đồng thời có thể sẽ tạo ra một lượng dư thừa HCBVTV trong sản phẩm do chưa kịp phân hủy hết có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu thụ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 78,5% ở nhóm 1 và 56,8% ở nhóm 2 pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì. Tuy nhiên vẫn còn 10,7% ở nhóm 1 và 12,2% ở nhóm 2 vẫn pha HCBVTV đặc hơn hướng dẫn (bảng 3.2). Nghiên cứu này của chúng thấp hơn với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Lan và cộng sự tại Thái Bình cho thấy khoảng 70% các hộ tăng nồng độ sử dụng thuốc từ 1,5-2 lần; đặc biệt là trên các vùng rau việc tăng nồng độ thuốc trừ sâu là khá lớn [3]. Tỷ lệ người dân trồng rau trong nghiên cứu của chúng tôi tự tăng nồng độ khi phun tuy khá thấp nhưng đây cũng là vấn đề đáng lo ngại; đặc biệt là vẫn còn 26,7% và 28,4% ở 2 nhóm học vấn pha trộn trên 2 loại HCBVTV khi phun. Việc tăng nồng độ cũng như phối hợp nhiều loại là vì người dân trồng rau kỳ vọng là có thể năng cao hiệu quả của thuốc. Điều này cho thấy sự thiếu hụt về kiến thức khi sử dụng HCBVTV của người dân trồng rau. Thực tế trên đồng ruộng ít khi nhiều đối tượng dịch hại xuất hiện đỉnh cao cùng một lúc với nhau, do đó việc tăng nồng độ thuốc hay tạo hỗn hợp thuốc nhiều khi chỉ gây lãng phí, ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường, đôi khi còn gây ảnh hưởng đến cây trồng và hệ sinh thái. Phun thuốc trong điều kiện nắng có thể làm tăng độc tính của thuốc BVTV với sức khỏe con người. Vì điều kiện trời nắng có thể làm các lỗ chân lông mở ra, mồ hôi bài tiết nhiều, làm tăng sự hấp thu thuốc, giảm sức chống đỡ của cơ thể như làm cho cơ thể mất nước hoặc say nắng kèm theo. Đồng thời phun thuốc trong điều kiện nắng gắt, nhiệt độ cao thuốc sẽ bị phân hủy nhanh, giảm hiệu lực của thuốc. Một trong những nguyên tắc của 4 đúng khi phun là đi giật lùi, không phun thuốc ngược chiều gió, nên đi vuông góc với chiều gió để đảm bảo an toàn cho người lao động. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ người dân có thực hành đúng khi chọn thời tiết và hường gió để phun HCBVTV là khá cao. Có 92,5% người dân có thực hành đúng về chọn thời tiết phun là lúc trời râm mát và 75,3% người dân có thực hành đúng về chọn hướng gió khi phun HCBVTV là xuôi chiều gió (bảng 3.3). Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh cho thấy về tỷ lệ người chọn thời tiết khi phun là trời râm mát chiếm 91,2% gần như tương đương với nghiên cứu của chúng tôi nhưng phun xuôi chiều gió lại thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi chỉ chiếm 44,4% [2]. Trang bị bảo hộ lao động khi phun hóa chất bảo vệ thực vật giảm sự tiếp xúc và xâm nhập thuốc vào cơ thể, đồng thời hạn chế nguy cơ bị ngộ độc. Kết quả về phần Bảng 3.6. Thực hành của người trồng rau về xử lý bao bì, chai đựng HCBVTV sau khi phun (n=400) Xử lý bao bì, chai đựng HCBVTV ≥ THCS (n=326) < THCS (n=74) Chung (n=400) SL % SL % SL % Gom lại rồi bán 1 0,3 1 1,4 2 0,4 Vứt ngay chỗ phun 26 8,0 10 13,5 36 7,7 Tiện chỗ nào thì vất 23 7,1 7 9,5 30 6,4 Đốt 128 39,3 30 40,5 158 33,8 Chôn sâu 31 9,5 6 8,1 37 7,9 Gom theo hướng dẫn 148 45,4 26 35,1 174 37,3 Khác 22 6,7 8 10,8 30 6,4 SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 37 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC thực hành của người dân cho thấy chủ yếu người dân sử dụng khẩu trang khi phun HCBVTV là cao nhất chiếm 82,8% ở nhóm 1 và 82,4% ở nhóm 2. Vẫn còn 6,1% và 5,4% ở nhóm 1 và ở nhóm 2 không sử dụng bất kỳ một bảo hộ lao động nào khi đi phun. Không có trường hợp nào ở cả hai nhóm sử dụng đầy đủ các phương tiện khi phun HCBVTV. Nghiên cứu của cao hơn so với nghiên cứu tác giả như Basssam tại miền Bắc Gaza cho thấy 100% người dân không sử dụng bất kỳ phương tiện nào khi phun HCBVTV [6]. Về thời gian cách ly hóa chất bảo vệ thực vật trước khi thu hoạch có 59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS thường thu hoạch từ 10 ngày đến 15 ngày. Nghiên cứu chúng tôi cao hơn so với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Bùi Thị Nga tại xã Thuận An, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long năm 2014 cho thấy tỷ lệ hộ trồng rau có thời gian ngưng sử dụng thuốc chủ yếu là trước 6 ngày chiếm 54,7%; vì các hộ gia đình thường cho rằng việc tưới nước thường xuyên cho rau sẽ góp phần rửa trôi thuốc nên dư lượng thuốc tồn tại trên rau là không đáng kể [5]. IV. KẾT LUẬN - Phương tiện bảo vệ cơ thể khi phun HCBVTV được người dân sử dụng nhiều nhất là khẩu trang chiếm 82,8% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 82,4% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS - Tỷ lệ người dân trồng rau pha HCBVTV theo đúng hướng dẫn trên bao bì khá cao chiếm 78,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 56,8% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS. - Thời gian người dân trồng rau thường thu hoạch rau từ 10 đến 15 ngày sau khi phun HCBVTV vẫn còn thấp chiếm 59,5% ở nhóm có trình độ học vấn từ THCS trở lên và 54,1% ở nhóm có trình độ học vấn dưới THCS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. K’Vởi, Đỗ Văn Dũng (2010), “Kiến thức, thái độ, thực hành về hóa chất bảo vệ thực vật của người dân trồng rau tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng năm 2008”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14. 2. Nguyễn Tuấn Khanh (2010), Đánh giá ảnh hưởng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đến sức khỏe người chuyên canh chè tại Thái Nguyên và hiệu quả các biện pháp can thiệp, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Thái Nguyên. 3. Trần Thị Ngọc Lan, Nguyễn Phượng Lê, Nguyễn Thành Phong (2014), “Quản lý nhà nước về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của hộ nông dân ở tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, số 6 (tập 12), tr.863-843. 4. Đặng Xuân Phi, Đỗ Kim Chung (2012), “Đánh giá rủi ro thuốc bảo vệ thực vật thông qua chỉ số tác động môi trường trong sản xuất súp lơ ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 5(15), tr. 51-57 5. Bassam, Al-zain, Jihad mosalami (2014), Pesticides Usage, Perceptions, practices and health effects among farmers in North Gaza, Palestine, Indian journal of applied research, vol 4(6), pp. 17-22. 6. May Lwin OO, Mitsuyasu Yabe, Huynh Viet Khai (2012), Farmers’ perception, knowledge and pesticide usage practice: A case study of tomato production in Inlay Lake, Myanmar, Journal Facutly of Agriculture, vol 57 (1), pp.327-331.
File đính kèm:
thuc_hanh_ve_su_dung_hoa_chat_bao_ve_thuc_vat_cua_nguoi_dan.pdf

