Thực hành cảnh giác dược trong điều trị lao tại trung tâm y tế TP.Châu Đốc tỉnh An Giang năm 2016-2017

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong năm 2016 có khoảng 10,4 triệu

người mắc bệnh lao, Việt Nam nằm trong số 20 nước có gánh nặng bệnh lao cao nhất toàn

cầu(1). Năm 2016, tổng số trường hợp bệnh lao được phát hiện lên đến 106.527, số người mắc

lao phổi chiếm đến 81%(1). Số liệu từ chương trình Chống lao quốc gia cho thấy, mỗi năm có

gần 14.000 người chết do bệnh lao. Đây là con số không nhỏ mặc dù sự chẩn đoán và điều trị

lao không còn khó khăn như trước đây

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thực hành cảnh giác dược trong điều trị lao tại trung tâm y tế TP.Châu Đốc tỉnh An Giang năm 2016-2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hành cảnh giác dược trong điều trị lao tại trung tâm y tế TP.Châu Đốc tỉnh An Giang năm 2016-2017

Thực hành cảnh giác dược trong điều trị lao tại trung tâm y tế TP.Châu Đốc tỉnh An Giang năm 2016-2017
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 149 
THỰC HÀNH CẢNH GIÁC DƯỢC TRONG ĐIỀU TRỊ LAO 
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ TP.CHÂU ĐỐC TỈNH AN GIANG NĂM 2016 -2017 
Phạm Quang Quốc Uy, Lê Hoàn Vinh, Phạm Thị Thùy Linh, 
Lâm Sơn Hải, Đỗ Lê Minh Tiến, Nguyễn Hồng Thanh 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong năm 2016 có khoảng 10,4 triệu 
người mắc bệnh lao, Việt Nam nằm trong số 20 nước có gánh nặng bệnh lao cao nhất toàn 
cầu(1). Năm 2016, tổng số trường hợp bệnh lao được phát hiện lên đến 106.527, số người mắc 
lao phổi chiếm đến 81%(1). Số liệu từ chương trình Chống lao quốc gia cho thấy, mỗi năm có 
gần 14.000 người chết do bệnh lao. Đây là con số không nhỏ mặc dù sự chẩn đoán và điều trị 
lao không còn khó khăn như trước đây(2). 
 Năm 2016, 2017 toàn thành phố Châu Đốc thu dung và điều trị 634 bệnh nhân lao, trong đó 
lao mới là 453 bệnh nhân, chiếm 71,45%(3). Phác đồ điều trị chính cho bệnh nhân là phác đồ 1 
với 2 tháng tấn công và 4 tháng duy trì. Một trong những nguyên nhân bỏ trị là do bệnh nhân 
gặp phải những phản ứng bất lợi/ tác dụng không mong muốn của thuốc điều trị, những phản 
ứng bất lợi này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của bệnh nhân lao. Khi bệnh nhân gặp phải 
những phản ứng bất lợi của thuốc, nguy cơ phải nhập viện điều trị tăng lên, tăng tỷ lệ bỏ trị, 
tăng tỷ lệ điều trị lao thất bại thậm chí tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân. Gặp phản ứng bất 
lợi cũng khiến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trở nên kém hơn(4). 
 Đề tài hướng đến hai mục tiêu: 
 (1)Xác định tỷ lệ phản ứng có hại của thuốc điều trị lao phác đồ 1 trên bệnh nhân lao 
quản lý điều trị tại Trung tâm Y tế thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang. 
 (2) Phân tích một số yếu tố liên quan tới phản ứng bất lợi của thuốc điều trị lao phác đồ 1 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Đối tượng nghiên cứu:Bệnh nhân lao và hồ sơ bệnh án của bệnh nhân đang điều trị lao 
phác đồ 1, được tổ lao Trung tâm Y tế thành phố Châu Đốc thu dung điều trịtrong khoảng thời 
gian từ tháng 08 đến tháng 12 năm 2017. 
 Thiết kế nghiên cứu:Nghiên cứu dọc (longitudinal study). 
 Phương pháp chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu được lấy toàn bộ 122 bệnh nhân lao ở 07 tổ lao 
của 07 phường, xã trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. 
 Phương pháp thu thập số liệu: Bệnh nhân được phỏng vấn trực tiếp về tiền sử bệnh, tình 
trạng bệnh, khám lâm sàng trước khi bắt đầu điều trị. Trong quá trình điều trị bệnh nhân tiếp 
tục được theo dõi sức khỏe, diễn tiến điều trị trên lâm sàng hàng tuần cho đến khi kết thúc điều 
trị.Riêng các xét nghiệm cận lâm sàng (AST, ALT, GGT, Acid uric máu và crearinin huyết) 
được thực hiện tại tuần 08 (kết thúc giai đoạn tấn công) và tuần 20 . 
 Công cụ thu thập số liệu:Phiếu phỏng vấn được xây dựng dựa trên “Hướng dẫn chẩn đoán, 
điều trị và dự phòng bệnh lao”(5), ban hành kèm theo Quyết định số 4263/QĐ-BYT ngày 13 
tháng 10 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế, bao gồm các nội dung: Các yếu tố nhân khẩu học; 
Tiền sử bệnh tật của bản thân và gia đình; hành vi nguy cơ như sử dụng rượu bia. Tiền sử mắc 
các bệnh liên quan đến gan, thận, khớp, tiền sử dị ứng của bản thân và gia đình; Diễn tiến sức 
khỏe của bệnh nhân, bao gồm thay đổi về cân nặng, kết quả âm hóa đàm, các triệu chứng bệnh 
(ho-khạc đờm, sốt về chiều, khó thở, đau ngực, mệt mỏi kém ăn gầy sút) tại 03 thời điểm tuần 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 150 
0, tuần 8 và tuần 20 từ khi bắt đầu điều trị.Các phản ứng bất lợi của thuốc, và các kết quả cận 
lâm sàng. 
 Khái niệm dùng trong nghiên cứu: 
 Phản ứng bất lợi của thuốc: là những bất thường về sức khỏe gặp phải trong thời gian 
dùng thuốc điều trị mà trước khi dùng thuốc không có. 
 Bệnh nhân gày: Là bệnh nhân có BMI<18,5 kg/m2. 
 Phân tích số liệu:Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi data, phân tích số liệu bằng SPSS, 
tần số và tỷ lệ được dùng để mô tả các biến định tính, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn hoặc 
trung vị và khoảng được dùng để mô tả biến định lượng. Các phân tích cho số liệu đo lường lặp 
lại sẽ được sử dụng để xác định mối liên quan giữa một số yếu tố với tình trạng sức khỏe của 
bệnh nhân 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
 Bảng1Error! Bookmark not defined.: Thông tin chung của bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu 
Nữ (n=39; 32,0%) Nam (n=83; 68,0%) Chung (N=122) 
n % n % n % 
Nhóm tuổi Tuổi TB (SD): 46,69 (13,7) 
Từ 18 đến 30 6 15,38 10 12,05 16 13,11 
Từ 31 đến 50 21 53,85 42 50,60 63 51,64 
Từ 51 đến 77 12 30,77 31 37,35 43 35,25 
Nghề nghiệp 
CBCNV 1 2,56 2 2,41 3 2,46 
Làm ruộng 2 5,13 14 16,87 16 13,11 
Nội trợ 13 33,33 1 1,20 14 11,48 
Làm thuê 6 15,38 38 45,78 44 36,07 
Thất nghiệp 12 30,77 18 21,69 30 24,59 
 Khác 6 15,38 10 12,05 16 13,11 
Học vấn 
Dưới THCS 20 51,28 44 53,01 64 52,46 
Từ THCS trở lên 19 48,72 39 46,99 58 47,54 
Kinh tế gia đình 
Nghèo 22 56,41 54 65,06 76 62,30 
 Không nghèo 17 43,59 29 34,94 46 37,70 
BMI 
Gày 14 35,90 36 43,37 50 40,98 
Bình thường 25 64,10 47 56,63 72 59,02 
Mức độ sử dụng rượu bia trong tuần 
Không lần nào 33 84,62 23 27,71 56 45,90 
1-2 lần 3 7,69 21 25,30 24 19,67 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 151 
3-5 lần 2 5,13 25 30,12 27 22,13 
 > 5 lần 1 2,56 14 16,87 15 12,30 
 Tỷ lệ bệnh nhân làm ruộng là 13,1%; có 43 bệnh nhân làm thuê (35,0%). Gần 90% bệnh 
nhân có học vấn dưới cấp II, và 62,3% bệnh nhân sống trong hộ gia đình có kinh tế 
nghèo.Trong tổng số 122 bệnh nhân, có 83 bệnh nhân nam (68,0%), còn lại là bệnh nhân nữ. 
Tỷ lệ bệnh nhân từ 31 đến 50 tuổi là 51,6%, tỷ lệ trên 50 tuổi là 35,3% còn lại là 13,1%. Có 
41% bệnh nhân có thể trạng gầy, còn lại là BMI bình thường ở thời điểm đăng ký điều trị.Có 
27 người (22,1%) sử dụng rượu bia từ 03 đến 05 lần trong một tuần, và có 15 người (12,3%), 
sử dụng rượu bia nhiều hơn 05 lần trong một tuần. 
 Biểu đồ 1.1: Tiền sử bệnh tật và dùng thuốc của đối tượng nghiên cứu ở thời điểm 
đăng ký điều trị (N=122) 
 Trong 122 bệnh nhân, có 22 bệnh nhân (18,0%) có các mắc các bệnh khác cùng với 
lao. Có đến 28 (23,0%) bệnh nhân có sử dụng ít nhất một loại thuốc ngoài thuốc lao. Tỷ lệ bệnh 
nhân có tiền sử dị ứng là 5,2%. Có 20 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ là 18% có tiền sử mắc các bệnh 
liên quan đến gan, thận và khớp và các bệnh khác. Có 04 bệnh nhân đồng nhiễm HIV, chiếm tỷ 
lệ 3,2%. 
 2. Phản ứng bất lợi của bệnh nhân điều trịlaotheo phác đồ 1 
 Phản ứng bất lợi của thuốc điều trị lao phác đồ 1 
 Trong thời gian điều trị, có 48 biểu hiện bất thường sức khoẻ (phản ứng bất lợi của 
thuốc) xuất hiện ở 46 bệnh nhân. Có 33 trường hợp mức độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 68,75%, mức độ 
trung bình có 13 trường hợp (27,08%), 02 trường hợp nặng chiếm tỷ lệ 4,17%. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 152 
 Biểu đồ 2.1:Phân bố phản ứng bất lợi của thuốc bệnh nhân lao gặp phải (n=48) 
 Trong các bất thường về sức khỏe trên lâm sàng nghiên cứu ghi nhận được, triệu chứng 
chóng mặt chiếm tỷ lệ cao nhất 29% (14/48 dấu hiệu), đau khớp là 12 (25%), rối loạn tiêu hóa 
và dị ứng da mỗi bất thường có 8 trường hợp, chiếm tỷ lệ 16,5%, vàng da là 4,7% (2/48). 
 Biểu đồ 2.2: Mức độ và thời điểm xuất hiện các phản ứng bất lợi của thuốc (n=48) 
 Trong 48 biểu hiện bất thường về sức khỏe của bệnh nhân lao trên lâm sàng, (46 bệnh 
nhân),có 33 trường hợp mức độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 68,75%, mức độ trung bình có 13 trường hợp 
(27,08%), 02 trường hợp nặng chiếm tỷ lệ 4,17%. 
 Có 81% các biểu hiện bất thường của thuốc xuất hiện ở tuần điều trị đầu tiên, 14% xuất 
hiện ở tuần thứ hai, chỉ có 5% xuất hiện sau tuần thứ ba của quá trình điều trị. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 153 
 3. Một số yếu tố liên quan đến phản ứng bất lợi của thuốc 
 Bảng 3.1:Mối liên quan giữa phản ứng bất lợi của thuốc với một số yếu tố 
Đặc điểm n 
Có phản ứng 
bất lợi n(%) 
Mô hình 1* 
OR (CI95%) 
Mô hình 2$ 
OR (CI95%) 
Giới tính 
Nữ 39 19 (48,72) 
 Nam 83 27 (32,53) 0,51 (0,23; 1,1) 0,06 (0,1; 0,34) 
Kinh tế gia đình 
Không nghèo 76 22 (28,95) 
Nghèo 46 24 (52,17) 2,68(1,25; 5,74) 2,66 (1,21; 7,23) 
BMI 
Bình thường 72 17 (23,61) 
 Gày 50 29 (58,0) 4,46 (2,04; 9,76) 4,75 (1,91; 11,8) 
Uống rượu 
Không uống 56 15 (26,79) 
Có uống 66 31 (46,97) 2,42 (1,13; 5,2) 14,07 (2,68; 73,79) 
*Hồi qui logistics đơn biến 
$ Hồi qui logistic đa biến 
 Bệnh nhân nam có khả năng gặp phản ứng bất lợi của thuốc chỉ bằng 6% so với bệnh 
nhân nữ (OR=0,06; CI95%OR: 0,1; 0,34) khi có cùng các đặc tính khác trong mô hình. Những 
bệnh nhân sống trong gia đình nghèo có khả năng gặp phản ứng bất lợi cao gấp 2,66 lần những 
bệnh nhân trong gia đình không nghèo (OR=2,66; CI95%OR: 1,21; 7,23). Ở thời điểm bắt đầu 
điều trị, những bệnh nhân gày có khả năng gặp phản ứng bất lợi của thuốc cao gấp 4,75 lần 
những bệnh nhân không gày (OR=4,75; CI95%OR: 1,91; 11,8). Nếu có cùng các đặc điểm 
khác như giới tính, học vấn, BMI, kinh tế hộ gia đình thì những bệnh nhân uống rượu trong 
vòng 1 tuần trước khi vào điều trị có khả năng gặp phản ứng bất lợi của thuốc cao gấp 14,07 
lần những bệnh nhân không uống rượu (OR=14,07; CI95%OR: 2,68; 73,79). Chưa thấy có mối 
liên quan giữa tuổi, nghề nghiệp, học vấn và tiền sử mắc bệnh kèm theo hoặc dị ứng với việc 
gặp phải phản ứng bất lợi của thuốc điều trị lao (p>0,05). 
BÀN LUẬN 
 Phản ứng bất lợi của thuốc 
 Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bất thường về sức khỏe trên lâm sàng tương 
đương với tác giả Guo và cộng sự(6) nhưng lại cao hơn so với nghiên cứu của Hoàng Như 
Dũng(7) với tỷ lệ gặp phản ứng bất lợi là 36,6%; kết quả trên cũng cao hơn nghiên cứu của 
nhóm tác giả Dedun(8) thực hiện trên 974 bệnh nhân lao điều trị phác đồ 1 với tỷ lệ gặp phản 
ứng bất lợi chỉ là 7,79%. Điều này có thể lý giải, do nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến hành 
theo dõi bệnh nhân trong khoảng thời điều trị và ghi nhận những phản ứng bất lợi bệnh nhân 
gặp phải trong quá trình dùng thuốc. Chúng tôi chưa khám kỹ càng và loại trừ được các bất 
thường có thể do yếu tố khác mang lại. Chính vì vậy tỷ lệ trong nghiên cứu ở Châu Đốc có thể 
cao hơn thực tế. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại thấp hơn nghiên cứu của Hanxiquin và 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 154 
cộng sự(9)với tỷ lệ 74% bệnh nhân điều trị lao, xuất hiện tác dụng không mong muốn một cách 
rõ ràng. Tỷ lệ của nghiên cứu chúng tôi thấp hơn, vì nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến hành 
theo dõi bệnh nhân trong khoảng thời gian tham gia đến kết thúc điều trị, chỉ trong vòng 06 
tháng, nên có thể bỏ sót những ADR của thuốc, hoặc các biến cố khác xuất hiện muộn hơn sẽ 
không được ghi nhận. Mặt khác, do hạn chế về nguồn lực nên các bất thường về sức khỏe khác 
về tâm thần và một số xét nghiệm cận lâm sàng khác theo hướng dẫn của bộ Y tế đã không 
được tiến hành trong nghiên cứu tại Châu Đốc. 
 Yếu tố liên quan đến phản ứng bất lợi của thuốc 
 Thể trạng bệnh nhân: Bệnh nhân gày có nguy cơ/ khả năng gặp những phản ứng bất lợi 
của thuốc cao hơn bệnh nhân không gày. Kết quả này tương tự với nghiên cứu khác(9), đối với 
những bệnh nhân có BMI<18,5 (gày), nồng độ thuốc trong huyết thanh của họ cao hơn ở 
những bệnh nhân có trọng lượng cơ thể bình thường, dẫn đến tần suất xuất hiện ADR của 
thuốc, cũng như các bất thường khác về sức khỏe sẽ cao hơn so với những bệnh nhân có BMI 
lớn hơn. Mặt khác, lượng chất dinh dưỡng đầy đủ là quan trọng cho sự toàn vẹn của quá trình 
chuyển hóa gan và giải độc các thuốc lao, vì hệ thống enzyme cytochrome P450 bị ảnh hưởng 
bởi tình trạng suy dinh dưỡng(10). 
 Kinh tế hộ gia đình: Những bệnh nhân thuộc gia đình nghèo có khả năng gặp phản ứng 
bất lợi của thuốc cao hơn những bệnh nhân thuộc gia đình không nghèo. Kết quả này tương tự 
một số nghiên cứu khác(11). Có thể thấy kết quả này là phù hợp, vì đối tượng có hoàn cảnh 
kinh tế nghèo, thường là những đối tượng phải vất vả kiếm sống, lao động nặng nhọc trong 
những môi trường dễ bị tổn thương như tiếng ồn, khói bụi, ô nhiễm, thêm vào đó là tình trạng 
dinh dưỡng kém, ý thức về giữ gìn và bảo vệ sức khỏe thấp, nên tần suất xuất hiện những bất 
thường về sức khỏe cũng cao hơn nhóm còn lại. 
 Uống rượu: Tỷ lệ gặp bất thường về sức khỏe trên lâm sàng trong những người có uống 
cao hơn nhóm không uống rượu. Tương tự, một nghiên cứu về lạm dụng rượu và lao ở Hoa Kỳ 
được tiến hành trong số những người từ 15 tuổi trở lên. Kết quả cho thấy, việc sử dụng quá 
nhiều rượu dẫn đến sự âm hóa đờm bị giảm, gặp ADR nhiều, nguy cơ tử vong trong điều trị 
bệnh lao tăng lên so với người không sử dụng nhiều rượu (12). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 
sự tồn tại trong tế bào và tăng trưởng của M. tuberculosis trong các đại thực bào của con người 
tăng lên khi tiếp xúc với rượu. 
 Nồng độ AST, ALT, GGT, tăng dần theo thời gian điều trị của bệnh nhân khi đã cân nhắc 
các yếu tố tuổi, giới, kinh tế gia đình, bệnh mắc kèm như các yếu tố nhiễu. 
 Hướng dẫn chẩn đoán, dự phòng và điều trị bệnh lao do Bộ Y tế ban hành, có ghi rõ, 
nguyên gây ra các tổn thương gan do bệnh lao là các thuốc chống lao hàng 1, cụ thể: 
INH+Rifampicin>INH một mình>Pyrazinamyd một mình> Rifampicin một mình.(13) 
 INH được chuyển hóa và giải phóng chủ yếu ở gan, tạo thành Acetyl diazine là chất 
chuyển hóa độc hại hoặc có thể phân hủy thành ion acetyl onium, có thể liên kết cộng hóa trị 
với các đại phân tử gan dẫn đến tổn thương gan. Ngoài ra, thủy phân trực tiếp INH mà không 
cần acetyl hóa tạo ra hydrazin cũng có thể gây tổn thương gan. Sự trao đổi chất INH thông qua 
con đường nhỏ này được tăng lên gấp mười lần trong nhóm người aceyl hóa chậm, đặc biệt là 
kết hợp với rifampicin.(14). Về phần Rifampicin, thuốc là một chất gây cảm ứng mạnh của 
nhiều con đường chuyển hóa enzyme trong hệ thống cytochrome P450 (CYP3A4) đặc biệt 
thông qua các thụ thể của tế bào gan.(15). Việc kích hoạt CYP3A4 dẫn đến tăng sự trao đổi 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 155 
chất của isoniazid tạo ra các chất chuyển hóa độc hại, do đó giải thích hiệu ứng chuyển hóa của 
rifampicin trong thuốc chống lao gây ra độc tính với gan. 
 Nồng độ creatinine cũng tăng dần theo thời gian điều trị của bệnh nhân, đến tuần 20 
creatinine tăng có ý nghĩa thống kê so với thời điểm bắt điều trị (p<0,05) khi đã cân nhắc các 
yếu tố tuổi, giới, kinh tế gia đình, bệnh mắc kèm như các yếu tố nhiễu. 
 Mặc dù không phổ biến, rifampin là thuốc chống lao thường xuyên nhất liên quan đến 
viêm thận kẽ cấp tính (16). Rifampicin có chức năng như một phân tử, khi liên kết với protein, 
tạo ra phản ứng miễn dịch bằng cách tạo kháng thể kháng rifampicin (17). Do đó, khi tiếp xúc 
lại với rifampicin, cơ thể bệnh nhân hình thành các phức hợp kháng thể thuốc dẫn đến tổn 
thương tế bào thận (12). Phác đồ 1 theo quy định của BYT duy trì Rifampcin trong suốt 06 
tháng, 02 tháng tấn công và 04 tháng duy trì, việc dùng thuốc liên tục làm tăng khả năng 
rifampicin gây các tác dụng không mong muốn lên chức năng thận, mà ở đây là làm tăng nồng 
độ Creatinin huyết. 
 Acid uric ở các thời điểm 8 tuần và 20 tuần tăng có ý nghĩa thống kê so với thời điểm bắt 
điều trị (p<0,05) khi đã cân nhắc các yếu tố tuổi, giới, kinh tế gia đình. Kết quả này là phù 
hợp, do nồng độ acid uric trong huyết thanh thường tăng cao ở những bệnh nhân sử dụng 
pyrazinamide do chất chuyển hóa là Pyrazinoid ức chế đào thải acid uric vào nước tiểu(16). 
Đồng thời tăng acid uric máu đã được báo cáo trong 43% đến 100% bệnh nhân được điều trị 
bằng pyrazinamide một mình hoặc kết hợp với các thuốc chống lao khác (17). 
KẾT LUẬN 
 Nghiên cứu ghi nhận 48 biểu hiện bất thường về sức khỏe của bệnh nhân lao trên lâm sàng, 
(46 bệnh nhân), có 33 trường hợp mức độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 68,75%, mức độ trung bình có 13 
trường hợp (27,08%), 02 trường hợp nặng chiếm tỷ lệ 4,17%. Có 81% các biểu hiện bất thường 
của thuốc xuất hiện ở tuần điều trị đầu tiên, 14% xuất hiện ở tuần thứ hai, chỉ có 5% xuất hiện 
sau tuần thứ ba của quá trình điều trị. 
 Những bệnh nhân nghèo có nguy cơ gặp các bất thường về sức khỏe cao gấp 2,7 lần so với 
những bệnh nhân không nghèo (OR=2,7; CI95% OR: 1,25; 5,9), p<0,05. Những bệnh nhân có 
thể trạng gày có nguy cơ gặp bất thường về sức khỏe cao gấp 4,5 lần những bệnh nhân không 
gày (OR=4,5; CI95%OR: 2,0; 9,8), p<0,001. Những bệnh nhân uống rượu có nguy cơ gặp 
ADR cao gấp 2,4 lần so với những người không uống rượu (OR=2,4; CI95%OR: 1,12; 5,2), 
P<0,05. 
 Nồng độ AST, ALT, GGT, tăng dần theo thời gian điều trị của bệnh nhân khi đã cân nhắc 
các yếu tố tuổi, giới, kinh tế gia đình, bệnh mắc kèm như các yếu tố nhiễu. Nồng độ 
creatinine cũng tăng dần theo thời gian điều trị của bệnh nhân, đến tuần 20 creatinine tăng có ý 
nghĩa thống kê so với thời điểm bắt điều trị (p<0,05). Acid uric ở các thời điểm 8 tuần và 20 
tuần tăng có ý nghĩa thống kê so với thời điểm bắt điều trị (p<0,05). 
KHUYẾN NGHỊ 
 1. Kiểm tra sức khỏe toàn diện của bệnh nhân lao khi bắt đầu tham gia điều trị, tập trung 
kiểm soát các yếu tố có thể làm gia tăng các vấn đề về sức khỏe của bệnh nhân như tiền sử 
bệnh gan, cũng như các bệnh mãn tính khác. 
 2. Chú ý theo dõi và đánh giá bất thường về sức khỏe đối với bệnh nhân có dùng rượu bia tại 
thời điểm bắt đầu điều trị, BMI<18,5, hoàn cảnh kinh tế nghèo từ đó gia tăng các biện pháp tư 
vấn và can thiệp kịp thời khi xuất hiện các bất thường về sức khỏe 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 156 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. World Health Organization. Global tuberculosis report 2017. Geneva: World Health Organization, 2018. 
2. Organization WH. Global tuberculosis report 2017: World Health Organization, Geneva, Switzerland; 2016. 
3. Đốc TtYttpC. Báo cáo công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2017. 2017. 
4. Triệu Nguyên Trung. Gánh nặng bệnh lao toàn cầu và Chiến lược chấm dứt bệnh lao của WHO. Viện Sốt rét ký sinh 
trùng Quy Nhơn. 2016. 
5. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao (Ban hành kèm theo Quyết định số: 4263/QĐ-BYT ngày 13 tháng 
10 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ y tế), (2015). 
6. Guo N, Marra F, Fitzgerald JM, Elwood RK, Marra CA. Impact of adverse drug reaction and predictivity of quality of 
life status in tuberculosis. The European respiratory journal. 2010;36(1):206-8. 
7. Hoàng Như Dũng và cộng sự. Nghiên cứu lâm sàng và một thông số cận lâm sàng tác dụng phụ của thuốc chống lao ở 
bệnh nhân điều trị lao tại Trung Tâm Y tế Phú Vang năm 2012 -2013. Tạp chí Y học Thực Hành. 2014;Số 911(Số 6.2014). 
8. Dedun AR, Borisagar GB, Solanki RN. Impact of adverse drug reaction of first line anti - tuberculous drugs on treatment 
outcome of tuberculosis under revised national tuberculosis control programme. 2017. 2017;4(3):5. 
9. Han XQ, Pang Y, Ma Y, Liu YH, Guo R, Shu W, et al. Prevalence and Risk Factors Associated with Adverse Drug 
Reactions among Previously Treated Tuberculosis Patients in China. Biomedical and environmental sciences : BES. 
2017;30(2):139-42. 
10. Burk O, Koch I, Raucy J, Hustert E, Eichelbaum M, Brockmoller J, et al. The induction of cytochrome P450 3A5 
(CYP3A5) in the human liver and intestine is mediated by the xenobiotic sensors pregnane X receptor (PXR) and 
constitutively activated receptor (CAR). The Journal of biological chemistry. 2004;279(37):38379-85. 
11. Muture BN, Keraka MN, Kimuu PK, Kabiru EW, Ombeka VO, Oguya F. Factors associated with default from treatment 
among tuberculosis patients in Nairobi province, Kenya: a case control study. BMC public health. 2011;11:696. 
12. Volkmann, Moonan, Miramontes, Oeltmann. Tuberculosis and excess alcohol use in the United States, 1997–2012. 
2015;International Union Against Tuberculosis and Lung Disease. 
13. tế BY. Hướng dẫn chẩn đoán và dự phòng bệnh lao 2015. 
14. G.R S, C I, S K, . Rifampin-induced release of hydrazine from isoniazid. A possible cause of hepatitis during treatment 
of tuberculosis with regimens containing isoniazid and rifampin. Am Rev Respir Dis 1996. 1996. 
15. O B, I. K, J R. the induction of cytochrome P450 3A5 (CYP3A5) in the human liver and intestine is mediated by the 
xenobiotic sensors pregnane X receptor (PXR) and constitutively activated receptor (CAR). J Biol Chem. 2004;279:38379–
38385. 
16. Hằng TTT. Dược lực học 2012. 
17. TN S, NK J, BB M, al e. Hyperuricemia and arthralgia during pyrazinamide therapy.;Ind J Tub. 28(2). 

File đính kèm:

  • pdfthuc_hanh_canh_giac_duoc_trong_dieu_tri_lao_tai_trung_tam_y.pdf