Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ 7-24 tháng tuổi và các yếu tố ảnh huởng

Bài viết này phân tích thực trạng và các yếu tố tác

động đến việc cho trẻ ăn bổ sung trong giai đoạn 7-24 tháng tuổi

ở một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên

cứu chỉ ra rằng đa số nhóm trẻ 7-24 tháng tuổi đã được sử dụng

khá đa dạng các loại thức ăn, uống chứa đầy đủ ít nhất 4 nhóm

thực phẩm chính, nhưng khẩu phần ăn trẻ còn chưa đồng đều về

cơ cấu dinh dưỡng. Dinh dưỡng công thức chưa phải là thức ăn

chiếm ưu thế trong khẩu phần ăn của trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên.

Các phân tích đa biến cho thấy khu vực sống ở thành thị và có

thu nhập cao là yếu tố có tác động mạnh nhất làm tăng khả

năng trẻ được sử dụng đa dạng thức ăn và bổ sung dinh dưỡng

công thức.

 

pdf 17 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ 7-24 tháng tuổi và các yếu tố ảnh huởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ 7-24 tháng tuổi và các yếu tố ảnh huởng

Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ 7-24 tháng tuổi và các yếu tố ảnh huởng
Nghiên cứu
Gia đình và Giới
Số 2 - 2014
Thực hành bổ sung thức ăn 
cho trẻ 7-24 tháng tuổi và các yếu tố ảnh hưởng
Nguyễn Hữu Minh, Hà Thị Minh Khương, Trần Thị Cẩm Nhung
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới
Tóm tắt: Bài viết này phân tích thực trạng và các yếu tố tác
động đến việc cho trẻ ăn bổ sung trong giai đoạn 7-24 tháng tuổi
ở một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng đa số nhóm trẻ 7-24 tháng tuổi đã được sử dụng
khá đa dạng các loại thức ăn, uống chứa đầy đủ ít nhất 4 nhóm
thực phẩm chính, nhưng khẩu phần ăn trẻ còn chưa đồng đều về
cơ cấu dinh dưỡng. Dinh dưỡng công thức chưa phải là thức ăn
chiếm ưu thế trong khẩu phần ăn của trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên.
Các phân tích đa biến cho thấy khu vực sống ở thành thị và có
thu nhập cao là yếu tố có tác động mạnh nhất làm tăng khả
năng trẻ được sử dụng đa dạng thức ăn và bổ sung dinh dưỡng
công thức. 
Từ khóa: Trẻ em, dinh dưỡng trẻ nhỏ; thức ăn bổ sung cho trẻ.
1. Giới thiệu
Chế độ nuôi dưỡng trẻ dưới 6 tháng tuổi thường được coi là đầy đủ khi
trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn này. Tuy nhiên, đối với trẻ trên
6 tháng tuổi, nếu chỉ chú ý đến việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn là chưa đủ.
68 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
Theo Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ năm 1985
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “chỉ có một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ [có đủ
khối lượng và chất lượng sữa] có thể đáp ứng nhu cầu [dinh dưỡng] của
một trẻ cân nặng khoảng 7kg... Việc thiếu thức ăn bổ sung và mắc một số
bệnh khi còn nhỏ, hơn là sự thiếu chất hay kém chất của sữa mẹ, là lý do
của sự chậm phát triển thể lực của trẻ em ở các nước đang phát triển so
với trẻ ở các nước phát triển” (WHO, 1985:74).
WHO cũng nhấn mạnh trong báo cáo này rằng: “Những luận điểm
khuyến khích bú sữa mẹ là rất hợp lý. Cho con bú sữa mẹ vừa kinh tế, vừa
bổ sung các chất đề kháng cho trẻ. Tuy nhiên, việc kêu gọi kéo dài thời
gian bú mẹ đã đánh giá thấp sự thật là dù sớm hay muộn nguồn cung cấp
(về khối lượng và chất lượng) sữa mẹ sẽ không thể đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng của trẻ và việc bổ sung thức ăn khác là không thể tránh khỏi”. 
Như vậy, giai đoạn cần cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ được 6 đến 24
tháng tuổi, - là giai đoạn rất nhạy cảm vì đó là thời gian nhiều trẻ bắt đầu
có dấu hiệu suy sinh dưỡng. Thời điểm thích hợp cho tất cả trẻ sơ sinh
được cho ăn bổ sung bên cạnh việc bú mẹ bắt đầu từ tháng thứ 6 trở đi.
Thức ăn bổ sung cần bảo đảm đủ lượng, đủ bữa, ổn định và đa dạng đảm
bảo đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ (WHO, 2000; Viện Dinh
dưỡng Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, 2011; Alive&Thrive
và ISMS, 2012).
Chính phủ Việt Nam đã khuyến khích áp dụng: (1) cho trẻ bắt đầu ăn
bổ sung từ tháng thứ 7 nghĩa là từ khi trẻ được vừa tròn 180 ngày tuổi trở
đi; (2) Trong trường hợp bà mẹ vì bất kể một lý do nào đó không có sữa
hoặc không thể cho con bú được, phải sử dụng các sản phẩm thay thế sữa
mẹ cho trẻ. Sau thời gian này, trẻ cần được cho ăn bổ sung hợp lý để đáp
ứng nhu cầu phát triển của trẻ, đồng thời tiếp tục duy trì cho trẻ bú sữa mẹ
ít nhất cho đến khi trẻ được 24 tháng. Thời điểm trẻ em được khuyến nghị
ăn bổ sung còn gọi là ăn sam, ăn dặm là một thời kỳ rất quan trọng đối với
sự phát triển của trẻ. 
Dựa trên số liệu điều tra của Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS đã
được Hội Nhi khoa Việt Nam phê duyệt, bài viết này tập trung phân tích
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 69
thực trạng và các yếu tố liên quan đến việc cho trẻ ăn bổ sung trong giai
đoạn 7-24 tháng tuổi. 
Mẫu khảo sát gồm 1200 mẫu các bà mẹ trong độ tuổi 18-40 tuổi, có
con trong độ tuổi 0-4, được chọn một cách ngẫu nhiên. Nếu người mẹ có
nhiều hơn một con, thì con nhỏ nhất sẽ được chọn lấy thông tin. 
Cuộc khảo sát được tiến hành ở 4 thành phố chính là Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng – đại diện cho khu vực thành thị và 4
tỉnh Thái Bình, Nghệ An, Đồng Nai, Tiền Giang – đại diện cho khu vực
nông thôn. Cỡ mẫu n = 150 ở mỗi tỉnh. Mặc dù mẫu nghiên cứu đã trải
rộng trên cả ba vùng miền và bao gồm cả các khu vực thành thị và nông
thôn, tuy nhiên vẫn không bảo đảm đây là số liệu có tính đại diện quốc
gia. Vì vậy các kết luận rút ra cần được hiểu trong khuôn khổ của mẫu đã
được chọn. Trong một số trường hợp, mẫu phân tích chỉ là một bộ phận
trong tổng thể mẫu, số lượng hạn chế, vì vậy không thực hiện được các
phân tích chi tiết.
Trong bài viết này, việc thực hành cho trẻ 7-24 tháng tuổi ăn thức ăn bổ
sung được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố như: khu vực sống
(thành thị - nông thôn), đặc điểm nhân khẩu của người mẹ (học vấn, nghề
nghiệp) và kiểu/cách cho trẻ ăn(1) và thu nhập hộ gia đình. Cỡ mẫu phân
tích gồm 475 trường hợp trẻ 7-24 tháng tuổi(2), trong đó có 258 trường hợp
trẻ có chế độ ăn bú sữa mẹ là chủ yếu đồng thời cho ăn thực phẩm khác
và 217 số trẻ hiện ăn các thực phẩm khác là chủ yếu. Nội dung phân tích
về thời điểm cho ăn bổ sung sẽ dựa trên cơ sở mẫu là các bà mẹ hiện đang
cho con bú chủ yếu và có cho ăn thức ăn khác (385 trường hợp). 
Dựa vào khuyến nghị thực hành thức ăn bổ sung cho trẻ của WHO,
UNICEF và Viện Dinh dưỡng Việt Nam (NIN), trong nghiên cứu này,
khái niệm thức ăn bổ sung cho trẻ nhỏ được hiểu là: các loại thức ăn, uống
và sản phẩm gia vị phù hợp khi nguồn sữa mẹ không còn đủ để đáp ứng
nhu cầu dinh dưỡng của trẻ nhỏ. Thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung là từ
khi trẻ đủ 6 tháng tuổi trở lên. Thức ăn bổ sung cần đảm bảo đủ ít nhất 4
nhóm thực phẩm chính: 1) Nhóm chất đạm; 2) Nhóm tinh bột; 3) Nhóm
chất béo; 4) Nhóm giàu vitamin và chất khoáng. Trẻ ăn cần được cho ăn
bổ sung đầy đủ, tức là được ăn các thức ăn đủ lượng, ổn định và đa dạng
để tiếp nhận đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ. 
70 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
2. Thời điểm cho trẻ ăn thức ăn bổ sung
Đặc điểm chủ yếu của việc cho trẻ ăn bổ sung là chưa đúng thời điểm.
Trên cơ sở mẫu gồm 385 bà mẹ, kết quả cho thấy có khoảng 2/3 (65,3%)
các bà mẹ không thực hành đúng độ tuổi khuyến nghị trẻ ăn được bổ sung
từ 6 tháng, phần lớn là quá sớm so với tháng tuổi (61,3% cho trẻ ăn từ 1-
5 tháng tuổi và 4% cho ăn bổ sung quá muộn 10 tháng trở lên). Thức ăn
bổ sung sớm thường là nhóm tinh bột như cơm, cháo và mì. Theo WHO
trẻ ăn bổ sung quá sớm sẽ không tốt bởi khi đó trẻ chưa có nhu cầu bổ
sung các loại thức ăn này và nó có thể khiến nhu cầu bú sữa mẹ của trẻ
ít đi và người mẹ cũng tiết ít sữa hơn. Như vậy không đảm bảo về dinh
dưỡng cho trẻ vì trẻ không nhận dưỡng chất quan trọng của sữa mẹ cho
hệ miễn dịch, do đó có nguy cơ mắc bệnh tiêu hóa do thức ăn không an
toàn như sữa mẹ. Các thức ăn bổ sung như súp, bột, nước cơm có thể giúp
trẻ ăn no nhưng lại có hàm lượng dinh dưỡng thấp. Ngược lại, trẻ được
ăn bổ sung quá muộn sẽ có những hậu quả như trẻ không được bổ sung
đầy đủ nhu cầu năng lượng và dinh dưỡng là nguyên nhân trẻ chậm phát
triển và bị suy dinh dưỡng (WHO, 2000).
Nghiên cứu cho thấy chỉ có 34,7% các bà mẹ trong số này có thực hành
cho trẻ ăn bổ sung theo đúng khuyến nghị trẻ ăn bổ sung từ 6-8,9 tháng(3),
vốn là giai đoạn quan trọng để tập cho trẻ làm quen với thức ăn mềm với
số lượng ít. 
Các bà mẹ ở thành thị cho trẻ ăn bổ sung không đúng cách (ăn sớm
trước 5 tháng tuổi) cao hơn so với ở nông thôn (70,7% so với 63,3%). Theo
quan sát của nhóm nghiên cứu, nhiều bà mẹ ở thành thị còn có trào lưu
phổ biến là cho trẻ ăn dặm sớm từ lúc sang 5 tháng tuổi theo kiểu Nhật
(xem Tổng hợp thực đơn ăn dặm kiểu Nhật tại webtretho). Các bà mẹ là
công nhân, viên chức cho trẻ ăn không đúng cách cao hơn đáng kể so với
các nhóm còn lại (88,2% so với các nhóm còn lại có tỷ lệ trên dưới 60%).
Điều này có thể do các bà mẹ làm công ăn lương phải chịu sức ép về thời
gian nghỉ thai sản ngắn hơn so khuyến nghị về thời điểm cho trẻ ăn bổ
sung (từ 2012 trở về trước là 4 tháng) nên họ buộc phải tập cho trẻ ăn sớm
hơn để chuẩn bị đi làm. Về mặt học vấn, so với trẻ ở nhóm các bà mẹ có
học vấn “Trung học phổ thông” và “Trung cấp, cao đẳng trở lên” thì trẻ
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 71
ở nhóm các bà mẹ có học vấn trung học cơ sở trở xuống có khả năng được
cho ăn đúng thời điểm thấp hơn.
Ăn bổ sung song song với bú mẹ cho trẻ 7-24 tháng tuổi là một lựa
chọn hợp lý theo đúng khuyến nghị. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là
quyết định lựa chọn kết hợp giữa bú mẹ và cho ăn các thực phẩm khác chủ
yếu vì những lý do bất khả kháng do hoàn cảnh (phải đi làm, không có
thời gian, chậm xuống sữa), chứ không hoàn toàn vì người nuôi trẻ hiểu
rõ tầm quan trọng của việc kết hợp như vậy. 
Cụ thể, 18,6% bà mẹ do không đủ sữa, 15,2% phải đi làm trở lại, 12,3%
cho biết vì không có thời gian/quá bận rộn không cho bú được, lý do vì
chậm xuống sữa (7,9%). Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy các bà
mẹ chưa chủ động tìm đến cán bộ y tế để hỏi ý kiến, cụ thể khi lựa chọn
cách kết hợp giữa cho trẻ bú mẹ và các loại thực phẩm khác thì có 21,5%
các bà mẹ làm theo lời khuyên của bạn bè/đồng nghiệp trong khi chỉ có
3,7% theo lời khuyên của bác sỹ. Điều này đáng quan tâm vì một số bạn
bè đồng nghiệp có thể cho những lời khuyên chính xác, nhưng nhìn chung
đó là thông tin không chính thống, không bảo đảm tính khoa học bằng lời
khuyên của các cán bộ y tế hay các kênh thông tin chính thống khác.
3. Các loại thức ăn trong khẩu phần của trẻ từ 7 -24 tháng 
Về lý thuyết, bổ sung nhiều loại thực phẩm khác nhau, cơ thể sẽ nhận
đủ các đa chất cũng như vi chất dinh dưỡng, đồng thời sự phối hợp thực
phẩm đúng cách sẽ tạo ra một nguồn dinh dưỡng hợp lý. Trong nghiên cứu
này các loại thức ăn, uống được sắp xếp thành 4 nhóm dinh dưỡng chính
theo khuyến nghị, gồm:
- Loại thức ăn/uống từ sữa gồm 7 loại: sản phẩm dinh dưỡng công
thức với mục đích ăn bổ sung (theo đúng tên gọi trong Quy chuẩn Quốc
gia vừa được Bộ Y tế ban hành, và tên gọi của Codex quốc tế; trong báo
cáo này có thể được gọi bằng tên gọi thông dụng trước đây là “Sữa bột
công thức”), sữa bột không công thức, sữa tươi, sữa đặc có đường và sữa
chua, sữa yaourt và phô mai (gọi tắt là “Nhóm 1”).
- Loại thức uống khác gồm 8 loại: nước, nước đường, nước cơm, sữa
đậu nành, nước ép trái cây, rau củ, thức uống pha từ bột sô cô la (gọi tắt
là “Nhóm 2”).
72 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
- Loại thức ăn khác gồm 6 loại: bột dinh dưỡng, cơm/cháo, bánh mì,
đậu hũ, thịt/cá/gà/tôm/cua/hải sản và trái cây rau củ (gọi tắt là “Nhóm 3”).
- Các sản phẩm gia vị, gồm 3 loại: đường, dầu ăn, hạt nêm nước mắm,
tương, muối (gọi tắt là “Nhóm 4”).
Mô hình truyền thống cho trẻ em sơ sinh ăn ở Việt Nam bắt đầu từ sữa
mẹ và/hoặc tiếp đến là các loại thức ăn khác như bột, cháo và cơm. Các
nghiên cứu khác đã chỉ ra hai thách thức chủ yếu trong việc cho trẻ ăn bổ
sung đó là: ăn bổ sung sớm và các loại thực phẩm bổ sung nghèo về nguồn
năng lượng cũng như các chất protein và các vi chất dinh dưỡng thấp
(Nguyễn Hồng Phương và cộng sự, 2011:364).
Nghiên cứu này cho thấy, ngoài sữa mẹ, 100% số trẻ từ 7 tháng tuổi
trở lên hiện được cho ăn ít nhất từ 2 loại thức ăn/uống trở lên, tuy nhiên
con số này chưa cho thấy tính đa dạng trong khẩu phần của trẻ. Ngoại trừ
sản phẩm dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu, số liệu từ Biểu đồ 1 cho
thấy tỷ lệ trẻ được bổ sung các thức ăn uống từ sữa hoặc thức uống có
Biểu đồ 1. Tỷ lệ thức ăn uống từ sữa hiện có 
trong khẩu phần ăn của trẻ 7-24 tháng (N=475)
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 73
hàm lượng dinh dưỡng còn thấp, cụ thể: có 41,8% số trẻ 7-24 tháng tuổi
được bổ sung sữa tươi, sữa nước; 34,2% trẻ ăn sữa chua Yaout; 12,5% có
ăn phô mai; 9,8% ăn sữa uống; 31,8% uống nước ép trái cây; 12,8% uống
sữa đậu nành. 
Biểu đồ 2 về tỷ lệ trẻ 7-24 tháng được cho ăn các thức ăn và gia vị, cho
thấy khoảng hơn 2/3 số trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung thức ăn cung cấp
chất bột đường, chất đạm và các thức ăn giầu chất khoáng và vitamin như
trái cây, rau củ hoặc các loại đậu. Như vậy vẫn còn một số không nhỏ các
bà mẹ chưa thực hành đúng việc đa dạng thức ăn theo 4 nhóm dinh dưỡng
chính. Ví dụ hơn 1/10 số bà mẹ chưa cho trẻ ăn cơm/cháo/gạo là nhóm
chất bột đường, 1/5 các bà mẹ không bổ sung nhóm chất đạm như
thịt/cá/hải sản và 1/3 bà mẹ chưa đưa nhóm trái cây rau củ vào khẩu phẩu
ăn của trẻ. Trong khi trái cây và rau quả giàu Vitamin A được WHO
khuyến nghị nên cho trẻ ăn hàng ngày. Vẫn còn số ít các bà mẹ cho trẻ
uống các loại đồ uống bị coi là không tốt cho trẻ như uống các loại nước
Biểu đồ 2. Tỷ lệ trẻ 7-24 tháng được ăn thức ăn 
và các sản phẩm gia vị (N=475)
74 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
giải khát đóng chai hoặc nước uống sôcôla.
Các sản phẩm gia vị như hạt nêm và dầu ăn chưa được các bà mẹ chú
ý bổ sung vào khẩu phần ăn cho trẻ. 35% bà mẹ chưa bổ sung dầu ăn vào
bữa ăn cho trẻ cho thấy sự thiếu hụt về nhu cầu lipid cho trẻ. Theo khuyến
nghị của WHO các loại đường/ đường thốt nốt và mật ong cũng là chất
giầu năng lượng, tuy nhiên ở đây khoảng 2/3 số bà mẹ chưa cho con ăn
thêm đường. 
Những hạn chế nêu ở trên về việc cho trẻ ăn bổ sung có thể xuất phát
từ nhận thức của các bà mẹ hoặc do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn.
Nghiên cứu của Hương L.T năm 2007 ở huyện Lang Chánh của tỉnh
Thanh Hóa cho thấy: Nhiều bà mẹ trong khảo sát cho rằng dầu ăn là thực
phẩm tốt cho trẻ em nhưng vì nó đắt tiền, nên họ không đủ khả năng để
mua mà thay vào đó là cho trẻ ăn mỡ động vật. Một số người còn không
nhận ra rằng chất béo và protein có nhiều trong đậu phộng và mè. Họ thậm
chí còn nghĩ rằng các loại thực phẩm này phù hợp hơn cho người lớn.
Tương tự một số người cũng cho biết họ không đủ tiền để mua hoa quả
cho trẻ hàng ngày mà chủ yếu ưu tiên mua gạo, rau, tiếp đến là cá hoặc
thịt (Mạng lưới tư vấn và tập huấn sức khỏe cộng đồng, 2010:25).
Phân loại theo số lượng các loại thức ăn, uống cho thấy: có 10,6% trẻ
7-24 tháng hiện được ăn 3 loại thức ăn trở xuống; 54,8% từ 4-9 loại và
34,6% cho ăn từ 10-15 loại thức ăn. Sự đa dạng về thức ăn có khác biệt
theo khu vực sống của trẻ: Trẻ ở thành thị có số lượng thức ăn đa dạng hơn
so với ở nông thôn, đặc biệt là số lượng từ 10-15 loại thức ăn (40% so
31%) ngược lại ở nông thôn trẻ ăn phổ biến ở mức từ 4-9 loại thức ăn/uống
(Bảng 1).
Khác biệt về số lượng các loại thức ăn, thức uống của trẻ theo học vấn
và nghề nghiệp của người mẹ tương đối khó giải thích. Học vấn của người
mẹ thấp thì tỷ lệ con được ăn, uống 10 loại trở lên lại cao hơn. Tương tự,
đối với nghề nghiệp người mẹ, những người làm công ăn lương công nhân
viên chức có tỷ lệ cho con ăn 10 loại thức ăn trở lên là cao nhất nhưng
những người mẹ ăn lương chuyên môn cao thì lại có tỷ lệ thấp hơn cả
những người mẹ hiện tự làm riêng. Tuy nhiên, phân tích đa biến cho thấy
những khác biệt này là không đáng kể.
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 75
Thu nhập hộ gia đình càng cao thì tỷ lệ trẻ được sử dụng đa dạng nhiều
loại thức ăn hơn. Ví dụ, tỷ lệ nhóm trẻ ở hộ gia đình thu nhập thấp nhất
được ăn ở mức từ 10-15 loại thức ăn là 29,9%, tăng lên lần lượt là 34,7%
ở nhóm thu nhập trung bình và 42,9% ở nhóm hộ có thu nhập cao n ...  trưởng và phát triển chiều
cao, sữa là nguồn cung cấp canxi quan trọng. Vì thế, ngày 17/1/2013,
trong Quyết định số 189/QĐ-BYT về “10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý
Bảng 1. Số lượng các loại thức ăn, uống của trẻ từ 7-24 tháng tuổi
theo khu vực sống, đặc điểm nhân khẩu của người mẹ 
và thu nhập hộ gia đình
76 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
đến năm 2020” thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn
2011-2020 tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Y tế đã đưa ra khuyến nghị “trẻ
sau 6 tháng và người trưởng thành nên sử dụng sữa và các sản phẩm sữa
phù hợp với từng lứa tuổi”. 
Dinh dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung là sản phẩm được sản
xuất theo đúng tiêu chuẩn về dinh dưỡng, đầy đủ các dưỡng chất cần thiết
cho sự tăng trưởng và phát triển tối ưu thể chất và trí tuệ của trẻ. Bộ Y Tế
cũng mới ban hành Bộ Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về các sản phẩm
Dinh dưỡng công thức cho trẻ nhỏ, trong đó phân biệt rõ sản phẩm dinh
dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung cho trẻ từ 6-24 tháng và sản
phẩm dinh dưỡng công thức có thể được sử dụng thay thế sữa mẹ cho trẻ
dưới 12 tháng. Theo khuyến nghị của WHO, tần suất uống sữa bột công
thức đối với những trẻ không bú mẹ (từ 7-24 tháng) là ít nhất 2 lần/ngày. 
Trong nghiên cứu này hiện có 63,8% bà mẹ đang sử dụng sản phẩm
dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu cho trẻ từ 7-24 tháng tuổi. Trong số
các bà mẹ đã từng cho con sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức có tới
60% bà mẹ cho biết lý do là họ lựa chọn loại sản phẩm này cho trẻ vì đây
là thức uống cung cấp đầy đủ dinh dưỡng như vitamin và khoáng chất(5),
tiếp đến là lý do sữa bột giúp trẻ khỏe mạnh (53,7%), các lý do khác như:
giúp trẻ cân bằng dinh dưỡng, được bác sĩ khuyên dùng, để mẹ đi làm,v.v.
chiếm tỷ lệ khoảng từ 20 đến 32%, và lý do mẹ không đủ sữa là 21%. 
Việc bổ sung dinh dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ có sự
khác biệt đáng kể theo khu vực sống và giai tầng xã hội. Chỉ có hơn một
nửa số trẻ từ 7-24 tháng tuổi ở nông thôn hiện được bổ sung dinh dưỡng
công thức (58,5%) so với 87,2% trẻ ở thành thị. Các bà mẹ làm việc ở lĩnh
vực chuyên môn cao có tỷ lệ cho trẻ sử dụng dinh dưỡng công thức cao
hơn đáng kể so với các nhóm nghề nghiệp còn lại. Hộ gia đình có thu nhập
cao thì tỷ lệ cho trẻ uống dinh dưỡng công thức cao hơn. Học vấn mẹ càng
cao thì tỷ lệ sử dụng dinh dưỡng công thức càng nhiều (xem Biểu đồ 3).
Tính trung bình các bà mẹ trong mẫu nghiên cứu này cho trẻ uống dinh
dưỡng công thức khoảng 3 lần/mỗi ngày(6). Nếu theo khuyến nghị của
WHO, trong nghiên cứu này có tới gần 40% trẻ hiện chưa được uống đủ
sữa hoặc chỉ được uống vừa đủ số lần sữa, cụ thể: có 6,2% các bà mẹ hiện
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 77
cho trẻ 7-24 tháng uống sữa bột chưa đủ lượng (1 lần/ngày); 32,6% trẻ
được uống trung bình 2 lần/ngày; 35,9% uống trung bình 3 lần/ngày và
25,2% uống trung bình 4 lần/ngày. 
Có sự khác biệt lớn về số lần uống sữa bột công thức của trẻ 7-24 tháng
tuổi theo khu vực sống. Trong khi ở trẻ nông thôn uống chủ yếu ở mức 2
lần/1 ngày (40,9% so 22,2% ở thành thị), thì 75,7% trẻ sống ở thành thị
có số lần uống sữa trung bình từ 3-4 lần/ngày, cao hơn 1,5 lần so với trẻ ở
nông thôn (49,5%). 
Về lượng sữa uống mỗi lần, có 33% số trẻ hiện uống ở mức 90ml/1 lần
trở xuống, 42,4% uống ở mức từ 90-150ml và 24,5% uống ở mức từ 150ml
trở lên.(7)
Ước tính lượng sữa bột công thức trung bình mỗi lần uống của trẻ ở
thành thị có mức từ 150ml trở lên cao gấp hơn 2 lần so với trẻ ở nông thôn
(36,8% so với 15,1%). Tương tự, trẻ ở hộ gia đình có mức thu nhập càng
Biểu đồ 3. Tỷ lệ trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung sản phẩm 
dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu theo khu vực sống, học vấn 
và nghề nghiệp của người mẹ và thu nhập hộ gia đình (N=475)
78 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
cao thì lượng sữa từ 150ml trở lên cao hơn đáng kể so với trẻ ở hộ gia đình
có mức sống thấp hơn lần lượt là 38,5% so với 28,9% và 9,7%. Tương tự,
các bà mẹ làm việc ở lĩnh vực chuyên môn cao cho trẻ uống sữa nhiều hơn
so với các nhóm còn lại. Các bà mẹ có học vấn cao thì cho con uống lượng
sữa nhiều hơn. 
Theo khuyến nghị của WHO thì lượng sữa/ngày đối với trẻ không được
bú mẹ là: 
+ 200-400 ml nếu ăn đủ lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật.
+ 300-500 ml nếu không ăn đủ lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật.
Ước lượng của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng phần lớn nhóm trẻ ăn
thức ăn khác là chủ yếu (tạm coi là tương đương với nhóm trẻ không được
bú mẹ) đã được bổ sung lượng sữa theo khuyến nghị. Tuy nhiên, có sự
khác biệt đáng kể giữa các nhóm xã hội đối với việc bổ sung lượng sữa
theo khuyến nghị của WHO. Chẳng hạn, dưới đây là tỷ lệ trẻ trong nhóm
ăn thức ăn khác là chủ yếu có sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức ít
hơn 200ml/ngày:
+ 37,1% trẻ ở nông thôn so với 1,3% trẻ ở thành thị.
+ 13% trẻ ở nhóm bà mẹ có học vấn trung học cơ sở trở xuống so với
0% trẻ ở nhóm bà mẹ có học vấn cao đẳng trở lên.
+ 48,6% trẻ ở nhóm gia đình thu nhập thấp so với 1,7% trẻ ở nhóm gia
đình thu nhập cao.
Vậy, yếu tố nào thực sự có tác động đến việc trẻ 7-24 tháng tuổi được
bổ sung dinh dưỡng công thức? Kết quả phân tích đa biến logistic cho
thấy: so với nhóm trẻ em 7-24 tháng tuổi sống ở nông thôn (nhóm đối
chứng) thì khả năng trẻ em ở thành thị được uống dinh dưỡng công thức
sẽ tăng lên 3 lần. So với nhóm trẻ em 7-24 tháng tuổi sống ở hộ gia đình
có mức thu nhập cao thì khả năng được bổ sung dinh dưỡng công thức có
nhãn hiệu ở hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và thấp sẽ giảm xuống
(tỷ số chênh lệch lần lượt là 1 so với 0,8 và 0,5). So với trẻ em có mẹ ở
nhóm học vấn cao nhất “Cao đẳng trở lên” (nhóm đối chứng) thì khả năng
trẻ 7-24 tháng ở nhóm bà mẹ học vấn thấp được uống dinh dưỡng công
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 79
thức thấp hơn. Trẻ có mẹ có nghề nghiệp làm công ăn lương (công nhân
viên chức và chuyên môn cao) thì có khả năng được uống dinh dưỡng
công thức cao hơn so với nhóm trẻ có mẹ tự làm việc. 
Yếu tố khu vực sống và kinh tế gia đình là có tác động mạnh nhất đến
khả năng được bổ sung dinh dưỡng công thức cho trẻ ở giai đoạn từ 7-24
tháng. Phát hiện này một lần nữa khẳng định có mối quan hệ giữa dinh
dưỡng trẻ nhỏ với mức sống của hộ gia đình, đặc biệt đối với các gia đình
nghèo ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa - là nơi thực sự gặp khó khăn để
đảm bảo các nhu cầu dinh dưỡng trẻ em, nó cho thấy sự cần thiết mở rộng
phạm vi triển khai chương trình dinh dưỡng sữa học đường hướng tới các
nhóm tuổi nhỏ hơn, ở vùng nông thôn và gia đình nghèo. Khu vực thành thị
là nơi mà các bà mẹ dễ dàng tiếp cận với các loại dinh dưỡng công thức này.
5. Thảo luận
Đặc điểm chủ yếu của việc cho trẻ ăn bổ sung là chưa đúng thời điểm.
Có khoảng 2/3 các bà mẹ không thực hành đúng độ tuổi khuyến nghị trẻ ăn
được bổ sung từ 6 tháng, phần lớn là quá sớm so với tháng tuổi.
Đa số nhóm trẻ 7-24 tháng tuổi được người mẹ bổ sung đa dạng các
loại thức ăn, uống chứa đầy đủ ít nhất 3 trong số 4 nhóm thực phẩm chính.
Trẻ ở hộ gia đình có thu nhập cao, nhóm trẻ ở thành thị có số lượng thức
ăn đa dạng nhiều hơn. Khẩu phần ăn trẻ còn chưa đồng đều về cơ cấu dinh
dưỡng, một phần có thể do nhận thức về cơ cấu bữa ăn đủ dinh dưỡng của
các bà mẹ còn hạn chế. 
Đa số trẻ ở nhóm tuổi 7-24 tháng hiện còn bú sữa là chủ yếu được các
bà mẹ thực hành nuôi dưỡng đúng cách theo khuyến nghị của WHO cho
trẻ ăn bổ sung đa dạng song song với việc duy trì cho trẻ bú sữa mẹ đến
24 tháng (83,5%).
Vẫn còn một bộ phận trẻ ở độ tuổi 7-24 tháng chưa bổ sung đầy đủ ít
nhất 4 loại nhóm thực phẩm chính. Nhóm người mẹ tự làm riêng, làm công
nhân viên chức có tỷ lệ cho trẻ ăn đúng cách cao hơn so với nhóm chuyên
môn cao và không đi làm. Hộ gia đình có mức thu nhập thấp nhất có tỷ lệ
cho trẻ ăn đúng cách thấp hơn so với hộ có thu nhập cao nhất. 
80 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy dinh dưỡng công thức chưa phải là
thức ăn chiếm ưu thế trong khẩu phần ăn của trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên.
Có sự khác biệt rõ nét trong việc bổ sung dinh dưỡng công thức vào khẩu
phần ăn của trẻ theo khu vực sống, nghề nghiệp, học vấn của mẹ và theo
thu nhập hộ gia đình. Trẻ ở nông thôn được uống dinh dưỡng công thức
thấp hơn đáng kể so với trẻ thành thị. Tỷ lệ trẻ được uống dinh dưỡng công
thức cao hơn ở nhóm trẻ có mẹ có học vấn cao nhất, làm việc ở lĩnh vực
chuyên môn cao, và ở hộ gia đình thu nhập cao. Rất ít các bà mẹ sử dụng
các sản phấm sữa tươi để bổ sung vào bữa ăn hàng ngày cho trẻ. Trên thực
tế thị trường dinh dưỡng công thức cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi ở Việt
Nam chịu sự tác động của rất nhiều các luật, quy định và chính sách điều
tiết khác nhau, cả ở tầm thế giới (Bộ Quy tắc WHO) và ở trong nước là
Nghị định số 21/2006/NĐ-CP ngày 27/2/2006 (Tổ chức Thống nhất và Tín
thác Bảo vệ Người Tiêu dùng, 2012). Trong đó Nghị định 21/2006/NĐ-CP
đã nhấn mạnh việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ tối ưu bằng cách hạn chế
cách thức và phạm vi các sản phẩm thay thế bằng sữa mẹ được phép quảng
bá, nói cách khác hạn chế sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ. (Alive
& Thrive và Bộ Y tế và UNICEF, 2012).
Các phân tích đa biến cho thấy, sống ở thành thị và có thu nhập cao là
yếu tố có tác động mạnh nhất làm tăng khả năng trẻ được sử dụng đa dạng
thức ăn và bổ sung dinh dưỡng công thức. Phát hiện này một lần nữa
khẳng định có mối quan hệ giữa dinh dưỡng trẻ nhỏ với mức sống của hộ
gia đình, đặc biệt đối với hộ gia đình nghèo ở nông thôn, vì vậy cần có
chính sách mở rộng phạm vi chương trình dinh dưỡng sữa học đường tới
cả nhóm tuổi nhỏ hơn, đặc biệt ở vùng nông thôn và gia đình nghèo. Trong
khi đó, tình trạng người mẹ làm công ăn lương, hoặc sống ở thành thị lại
làm giảm khả năng trẻ được ăn bổ sung đúng thời điểm cho thấy những
khó khăn trong sắp xếp công việc tác động đến việc chăm sóc và nuôi
dưỡng con nhỏ hợp lý theo khuyến nghị đối với những bà mẹ có con dưới
24 tháng tuổi. 
Thông tin cho các bà mẹ về các thức ăn dinh dưỡng bổ sung được dẫn
dắt bởi các quan niệm và thói quen truyền thống, đặc biệt là ở các vùng
nông thôn. Các bà mẹ chủ yếu tìm kiếm thông tin từ gia đình và bạn bè.
ảnh hưởng của các kênh truyền thông, vai trò của cán bộ, nhân viên y tế
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 81
trong việc thực hành cho trẻ nhỏ ăn bổ sung tới các bà mẹ là rất thấp.
Có thể nói, việc tăng cường tập trung cho ăn bổ sung an toàn và đảm
bảo dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng tuổi chính là yếu tố then chốt nhằm
đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia 2020. Cần
phải có chính sách nâng cao nhận thức cho các bà mẹ về việc cho trẻ ăn
bổ sung đúng thời điểm, đúng khẩu phần, bảo đảm cho các bà mẹ khả
năng tiếp cận thuận lợi với các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung an toàn và
tốt nhất. Các chính sách cần phải hỗ trợ các bà mẹ để họ có thể đưa ra
quyết định và thực hiện chọn lựa được các dinh dưỡng bổ sung tốt nhất và
phù hợp nhất cho con mình, đặc biệt là quan tâm tới các bà mẹ và trẻ nhỏ
ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, gia đình có thu nhập thấp. Chính sách trợ
cấp nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ 7-24 tháng tuổi, mở rộng chương trình dinh
dưỡng sữa học đường tới cả nhóm tuổi nhỏ hơn là một hướng đi có thể
khắc phục những hạn chế về việc cho trẻ ăn bổ sung hiện nay. Ngoài ra
cần hướng dẫn các bà mẹ về cách phối hợp bổ sung thức ăn cho trẻ nhỏ
(chẳng hạn, phương thức “tô màu bát bột”), cách thức cải tạo, sử dụng các
chất dinh dưỡng có sẵn ở địa phương. Cần phát huy hơn nữa vai trò của
Hội Liên hiệp Phụ nữ và các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế có liên quan
nhằm tạo điều kiện giúp các bà mẹ có thu nhập thấp có thể bổ sung thức
ăn cho trẻ một cách khoa học. 
Ngoài ra, việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ thường liên quan chặt chẽ tới
tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ em sau này. Các bà mẹ tuân thủ
đúng theo các khuyến cáo về thức ăn bổ sung cho trẻ nhỏ sẽ làm giảm nguy
cơ trẻ bị thấp còi, suy dinh dưỡng, góp phần nuôi dưỡng một thế hệ/nguồn
nhân lực tương lai khỏe mạnh về thể chất về trí tuệ cho đất nước. 
Về mặt nghiên cứu, cho đến nay những nghiên cứu liên quan đến việc
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ góc độ khoa học xã hội hay sự kết hợp
giữa khoa học xã hội và y học chưa nhiều. Những vấn đề về cách thức cho
trẻ ăn bổ sung, về cách thức truyền thông và tác động của truyền thông đối
với việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ, về mối liên hệ giữa quá trình nuôi dưỡng trẻ
ngay từ khi trong bụng mẹ và khi được sinh ra... là những hướng nghiên
cứu cần được quan tâm hiện nay.n
Chú thích
(1) Đang hoặc không bú mẹ: Hiện đang bú mẹ chủ yếu + uống sữa/thực phẩm
khác; và Hiện không bú mẹ.
(2) Loại trừ nhóm trẻ đang trong độ tuổi cần phải bú sữa mẹ hoàn toàn (14%)
(3) Theo định nghĩa về các chỉ số nuôi dưỡng trẻ nhỏ. 
(4) Sản phẩm này có tên gọi thông dụng là “sữa bột công thức”, trong bài viết này
đôi khi hai thuật ngữ này cũng được thay thế cho nhau.
(5) Bao gồm các bà mẹ đã từng cho con uống sản phẩm dinh dưỡng công thức. 
(6) Tính trong nhóm bà mẹ hiện vẫn còn cho con dùng dinh dưỡng công thức là
N=655.
(7) Theo khuyến nghị của WHO thì trẻ cần uống đủ 200-400ml/ngày. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này cho thấy với mức từ 240ml trở lên/ngày, chỉ có 5 trẻ uống đủ.
Tài liệu trích dẫn
Alive & Thrive, Bộ Y tế và UNICEF. 2012. Chính sách pháp luật nhằm bảo vệ việc
nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam: Tăng cường thực thi Nghị định
21/2006/NĐ-CP góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em và giảm tỷ lệ
thấp còi Alive&Thrive và Viện Nghiên cứu Y-Xã hội học (ISMS). 2012. Báo
cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh: Thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. 
Mạng lưới tư vấn và tập huấn sức khỏe cộng đồng. 2010. Báo cáo kỹ thuật về
nghiên cứu hình thành: Đánh giá về thực hành dinh dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ, tháng 3/2010, Hà Nội. (Tiếng Anh: Community health training and con-
sulting network, Technical report for formative research: infant and young
child feeding (IYCF) assessment).
Nguyễn Hồng Phương, Purnima Menon, Mariel Ruel, Nemat Hajeebhoy. 2011.
A situational review of infant and young child feeding practices and inter-
ventions in Viet Nam, Review Asia Pac J Clin Nutr 2011;20 (3):359-374.
Tổ chức Thống nhất và Tín thác Bảo vệ Người Tiêu dùng (CUTS). 2012. Tình
hình cạnh tranh trên thị trường sữa công thức dành cho trẻ em từ 0-12 tháng
tuổi tại Việt Nam qua các năm 2009-2011, tháng 6/2012.
Tổng hợp thực đơn ăn dặm kiểu Nhật (Chi tiết giờ ăn, lượng ăn, món ăn), Phần 1
82 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 24, số 2, tr. 67-83
-2, 
nhat-chi-tiet-gio-an-luong-an-mon-an-1129996/
Viện Dinh Dưỡng (NIN). 2006. Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt
Nam. Nxb. Y học, Hà Nội.
Viện Dinh dưỡng Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc. 2011. Đánh giá
Thực trạng dinh dưỡng Việt Nam 2009-2010, tháng 4/2011.
WHO, Complementary feeding, 
tary_feeding/en/ 
WHO. 1985. Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ.
WHO. 2000. Nuôi bổ sung bằng thức ăn gia đình cho trẻ bú mẹ (tiếng Anh:
Complementary Feeding Family foods for breastfed children, download tại
 ).
Nguyễn Hữu Minh và các tác giả 83

File đính kèm:

  • pdfthuc_hanh_bo_sung_thuc_an_cho_tre_7_24_thang_tuoi_va_cac_yeu.pdf