Thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam

Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, phát triển và ổn định kinh tế. Vì vậy,

phát triển tài chính toàn diện được các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính phủ nhiều quốc gia đặc

biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Bài viết khái quát một số vấn đề về tài chính toàn diện, đánh giá thực

trạng và đưa ra một số định hướng thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam.

pdf 4 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam

Thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam
31Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Khái quát về tài chính toàn diện
Tài chính toàn diện còn gọi là tài chính bao 
trùm là một trạng thái theo đó tất cả mọi chủ 
thể trong xã hội, trong đó chú trọng đến nhóm 
người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu 
thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp 
siêu nhỏ đều được tiếp cận và sử dụng các sản 
phẩm và dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, 
phù hợp nhu cầu với chi phí hợp lý do các tổ 
chức tài chính cung cấp một cách có trách nhiệm 
và bền vững.
Tháng 10/2013, Ngân hàng Thế giới (WB) 
chính thức đưa ra mục tiêu đến năm 2020 mỗi 
người trưởng thành phải có một tài khoản giao 
dịch và xem đó như một mốc quan trọng hướng 
tới tài chính toàn diện đầy đủ - một thế giới mà 
người dân ở bất cứ nơi đâu đều có quyền tiếp 
cận và có thể sử dụng các dịch vụ tài chính mà 
họ cần để nắm bắt cơ hội cải thiện cuộc sống 
và giảm thiểu tổn thương. Liên Hợp quốc nhấn 
mạnh tài chính toàn diện là một giải pháp quan 
trọng để đạt 7 trong 17 mục tiêu phát triển bền 
vững đến năm 2030. Hiện tại, 2/3 cơ quan quản 
lý tài chính và ngân hàng trung ương trên thế 
giới được trao thêm nhiệm vụ thúc đẩy tài chính 
toàn diện bên cạnh nhiệm vụ giữ ổn định giá cả 
và thị trường tài chính.
Tài chính toàn diện nhấn mạnh đến các khía 
cạnh đó là “tiếp cận” và “sử dụng” dịch vụ tài 
chính một cách thuận tiện và với “chi phí hợp 
lý”. Nội dụng này chứa đựng các thành tố chủ 
chốt gồm: (i) Đối tượng được cung ứng dịch 
vụ: chú trọng những người đến nay vẫn bị loại 
trừ tài chính: những người thu nhập thấp, người 
yếu thế, cư dân vùng sâu vùng xa, doanh nghiệp 
nhỏ và siêu nhỏ không đủ điều kiện tiếp cận với 
nguồn tài chính chính thức; (ii) Loại hình dịch 
vụ: gồm 5 loại dịch vụ tài chính được xem là 
cơ bản: thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín 
dụng và bảo hiểm; (iii) Cách thức cung ứng 
dịch vụ: thuận tiện, phù hợp với nhu cầu với chi 
phí hợp lý, trong khả năng chi trả của người sử 
dụng dịch vụ; (iv) Người cung ứng dịch vụ: Các 
tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính chính thức 
được cấp phép và chịu sự quản lý giám sát của 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động an 
toàn, hiệu quả và có trách nhiệm.
2. Tài chính toàn diện ở Việt Nam
Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có 
mức độ tiếp cận đến các dịch vụ tài chính ở 
mức thấp. Theo cơ sở dữ liệu Global Findex do 
THÚC ĐẨY TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM 
TS. Trần Thị Lan*
Ngày nhận bài: 4/9/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/9/2019
Ngày nhận phản biện: 19/9/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/9/2019
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, phát triển và ổn định kinh tế. Vì vậy, 
phát triển tài chính toàn diện được các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính phủ nhiều quốc gia đặc 
biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Bài viết khái quát một số vấn đề về tài chính toàn diện, đánh giá thực 
trạng và đưa ra một số định hướng thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam.
• Từ khóa: tài chính toàn diện, thúc đẩy tài chính toàn diện, tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính.
Financial inclusion has played important roles 
in poverty reduction, economic development 
and stabilization. Therefore, the international 
development agencies as well as the governments 
of many countries, including Vietnam have paid 
attention to the financial inclusion. The article 
discusses the theory of financial inclusion issues, 
estimating the practice as well as giving some 
orientation in improving the financial inclusion in 
Vietnam.
• Keywords: financial inclusion, financial inclusion 
promotion, approaching and using financial 
services.
* Học viện Tài chính
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
32 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Ngân hàng Thế giới công bố năm 2017, tỷ lệ 
người trưởng thành tại Việt Nam có tài khoản 
chỉ là 30,8%, cao hơn Lào (29,1%), Campuchia 
(21,7%) và Myanmar (26,0%) nhưng thấp hơn 
so với Indonesia (49%) và thấp hơn nhiều so với 
Trung Quốc (80,2%), Malaysia (85,3%), Thái 
Lan (81,6%). Việc tiếp cận và sử dụng các dịch 
vụ tài chính ở Việt Nam có thể xem xét cụ thể 
hơn ở những góc độ dưới đây.
* Mạng lưới và kênh phân phối sản phẩm, 
dịch vụ tài chính:
- Đến cuối năm 2018, hệ thống TCTD Việt 
Nam bao gồm 04 ngân hàng thương mại nhà 
nước (AgriBank, CB, GP Bank, OceanBank), 
01 ngân hàng chính sách xã hội, 31 NHTMCP, 
27 TCTD phi ngân hàng (16 công ty tài chính, 
11 công ty cho thuê tài chính), 01 ngân hàng hợp 
tác xã, 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 01 
ngân hàng liên doanh, 49 chi nhánh ngân hàng 
nước ngoài tại Việt Nam, 45 văn phòng đại diện 
của TCTD nước ngoài tại Việt Nam, 1.182 quỹ 
tín dụng nhân dân, 04 tổ chức tài chính vi mô.
- Mạng lưới ATM: Đến cuối tháng 9/2018, 
toàn quốc có khoảng 18.173 máy ATM. Máy 
ATM được lắp đặt trên 1.000 km2 là 53,01, số 
ATM trên 100.000 dân số trưởng thành là 24,3. 
Mật độ ATM rất dày đặc tại các khu vực thành 
phố lớn, nơi tập trung đông dân cư và trụ sở, chi 
nhánh của các NHTM, tuy nhiên gần như vắng 
bóng tại khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. 
Riêng số máy ATM đặt tại Hà Nội và Thành phố 
Hồ Chí Minh cộng lại đã chiếm tới 40% tổng số 
của cả nước.
 - Mạng lưới POS: Tính đến cuối tháng 9/2018, 
toàn quốc có 294 nghìn máy POS/EFTPOS/
EDC. Số POS trên 100.000 dân số trưởng thành 
của Việt Nam là 37,2, số POS/1000 km2 là 
811,6. Số lượng thiết bị POS trên thị trường mới 
chỉ tập trung chủ yếu ở các ngân hàng lớn, tăng 
chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng số lượng 
thẻ phát hành.
Bên cạnh đó, mô hình ngân hàng liên kết 
được hình thành: Từ cuối măm 2014, NHNN 
Việt Nam đã cho phép một số ngân hàng kết 
hợp với các đơn vị công nghệ thông tin viễn 
thông triển khai thí điểm một số loại hình dịch 
vụ thanh toán chuyển tiền hướng tới vùng sâu, 
vùng xa, giúp nâng cao khả năng tiếp cận tài 
chính cho người dân, bao gồm: mô hình liên kết 
giữa MB với Tập đoàn Viễn thông Quân đội; 
Vietcombank với Công ty M_Service (ví điện tử 
MOMO),... Ngoài ra, Ngân hàng Bưu điện Liên 
Việt (LPB) cũng là một loại hình liên kết đặc 
biệt nhờ kế thừa mạng lưới tiết kiệm bưu điện 
sau khi sáp nhập Công ty Dịch vụ tiết kiệm bưu 
điện vào năm 2011. LPB được phép khai thác 
các bưu cục để cung cấp dịch vụ ngân hàng theo 
mô hình hợp đồng ủy thác nhằm cung cấp các 
dịch vụ ngân hàng đầy đủ cho khách hàng khi 
đến bưu điện và điều này đặc biệt có ý nghĩa đối 
với các khách hàng tại khu vực nông thôn, vùng 
sâu, vùng xa. 
* Các dịch vụ tài chính cơ bản 
(1) Dịch vụ thanh toán:
- Đến cuối năm 2018, có 97 tổ chức cung ứng 
dịch vụ thanh toán tại Việt Nam. Trong đó, có 48 
tổ chức cung ứng dịch vụ ATM; 34 tổ chức cung 
ứng dịch vụ POS; 78 tổ chức cung ứng dịch vụ 
Internet Banking và 41 tổ chức cung ứng dịch 
vụ Mobile Banking. Đã có 40 NHTM tham gia 
phối hợp với các tổ chức trung gian thanh toán 
triển khai dịch vụ Ví điện tử.
- Thanh toán qua thẻ: Đến cuối quý III/2018, 
số lượng thẻ phát hành lũy kế đã đạt 147,3 triệu 
thẻ với hơn 50 ngân hàng phát hành. Trong đó, 
thẻ ghi nợ chiếm 90,66%, thẻ tín dụng chiếm 
3,53%, thẻ trả trước là 5,81%. Cũng tính đến 
thời điểm này, số lượng giao dịch thanh toán qua 
thẻ nội địa đạt gần 167 triệu giao dịch, tăng 21% 
so với năm 2017, giá trị giao dịch đạt 442 nghìn 
tỷ đồng.
- Tỷ lệ tiền mặt trong nền kinh tế cuối năm 
2018 đạt 11,5%, giảm từ mức 18% năm 2005.
- Trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ qua internet 
và điện thoại di động: 76 tổ chức cung ứng dịch 
vụ thanh toán triển khai dịch vụ thanh toán qua 
internet và 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh 
toán triển khai dịch vụ thanh toán qua điện thoại 
di động. Tính đến cuối tháng 9/2018, số lượng 
giao dịch tài chính trên internet là 178 triệu giao 
dịch, đạt giá trị 11 triệu tỷ đồng, tăng tương ứng 
33% và 18% so với cùng kỳ năm 2017. Cùng 
thời điểm trên, số lượng giao dịch tài chính qua 
kênh điện thoại di động là 122 triệu giao dịch 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019
33Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
với giá trị giao dịch gần 1,1 triệu tỷ đồng, tăng 
gần 30% về số lượng và 126% về giá trị so với 
năm 2017. Một số ngân hàng đã nghiên cứu, hợp 
tác và đưa các công nghệ mới, hiện đại vào hoạt 
động thanh toán trên thiết bị di động, với việc 
áp dụng sinh trắc học (vân tay, khuôn mặt, giọng 
nói...), sử dụng mã phản hồi nhanh (QR Code), 
công nghệ mã hóa thông tin thẻ, thanh toán phi 
tiếp xúc, công nghệ mPOS...
- Các TCTD tăng cường kết nối với các cơ 
quan thuế, hải quan, kho bạc, điện lực, viễn 
thông, bảo hiểm xã hội, bệnh viện, trường học,... 
cung cấp nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán 
phù hợp nhằm phát triển thanh toán không dùng 
tiền mặt đối với các dịch vụ công. 
(2) Dịch vụ tiết kiệm
Theo số liệu thống kê của Findex 2017, tỷ lệ 
người trưởng thành có khoản tiết kiệm tại các tổ 
chức tài chính của Việt Nam là 14,5%, thấp hơn 
rất nhiều nước trong khu vực như (Thái Lan: 
38,8%, Malaysia: 37,8%, Indonesia: 21,5%, 
Trung Quốc: 34,8% và Nhật Bản: 64,5%).
 (3) Dịch vụ tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 2018 
là trên 7 triệu tỷ đồng, tương đương 130% 
GDP; tỷ lệ người trưởng thành có khoản vay 
tại các tổ chức tài chính của Việt Nam (theo 
Findex 2017) đạt ở mức 21,7%, chỉ thấp hơn 
Campuchia (26,7%), Malaysia (23,4%), Trung 
Quốc (22,7%) và cao hơn hầu hết các nước trong 
khu vực (Indonesia (18,4%), Thái Lan (20,4%), 
Philippines (10,4%). Tỷ lệ người trưởng thành 
có khoản vay tại các tổ chức tài chính hoặc có 
dư nợ thẻ tín dụng của Việt Nam cao hơn tỷ lệ 
người trưởng thành có khoản tiết kiệm tại các 
tổ chức tài chính cho thấy việc tiếp cận dịch vụ 
tín dụng đạt được kết quả tốt hơn so với tiếp cận 
dịch vụ tiết kiệm.
(4) Dịch vụ bảo hiểm và hưu trí
Tính đến cuối năm 2018, thị trường bảo hiểm 
có trên 60 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. 
Tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm 
(DNBH) năm 2018 đạt 361.705 tỷ đồng, tăng 
19,4% so với năm 2017; trong đó, tài sản của 
DNBH nhân thọ chủ yếu là đầu tư vào trái phiếu 
Chính phủ (chiếm 74% tổng tài sản). Tài sản 
của DNBH phi nhân thọ chủ yếu là tiền gửi các 
TCTD, tiền mặt và các khoản tương đương tiền, 
tài sản tái bảo hiểm (chiếm khoảng 81% tổng tài 
sản). Đối với cá nhân sử dụng dịch vụ bảo hiểm 
xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp: 
Tính đến cuối năm 2018, số người tham gia bảo 
hiểm xã hội là 14,56 triệu người, bảo hiểm thất 
nghiệp là 12,24 triệu người, bảo hiểm y tế là 
82,36 triệu người. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế 
toàn quốc đạt 87,7% dân số. Số người hưởng 
lương hưu là hơn 3 triệu người, trên 80% số 
người hưu trí nhận lương hưu bằng tiền mặt. 
(5) Dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ 
và vừa 
Trong tổng số hơn 600 nghìn doanh nghiệp 
đang hoạt động ở Việt Nam, có đến 98% là 
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Kết quả khảo sát 
của WB năm 2015 cho thấy các doanh nghiệp 
Việt Nam có điều kiện tiếp cận tài chính khá tốt 
với tỷ lệ doanh nghiệp có khoản vay tại ngân 
hàng là 40,8%, cao hơn so với trung bình của 
139 nước tham gia cuộc khảo sát (33,6%) và 
cũng cao hơn so với Indonesia, Philippines, 
Malaysia. Tuy nhiên, tỷ lệ khoản vay yêu cầu tài 
sản thế chấp thì đối với các doanh nghiệp Việt 
Nam (91%) cao so với trung bình của 139 nước 
tham gia khảo sát (79,3%), Malaysia (64,7%), 
Philippines (51%), Indonesia (80,45%). Yêu 
cầu về giá trị tài sản đảm bảo để được vay thì đối 
với các doanh nghiệp Việt Nam (216%) là thấp 
hơn so với Indonesia (241,1%) nhưng cao hơn 
so với trung bình của 139 nước tham gia khảo 
sát (205,4%), và cao hơn Malaysia (182,6%), 
Philippines (156,7%). 
3. Một số rào cản
- Mạng lưới phân phối sản phẩm, dịch vụ 
hiện nay chủ yếu vẫn dựa trên cách thức tổ chức 
truyền thống, thông qua sự hiện diện của chi 
nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch truyền 
thống. Rào cản về chi phí lớn khiến cho mạng 
lưới hoạt động của các TCTD phát triển chủ yếu 
ở các thành phố lớn, trong khi nhiều vùng nông 
thôn, vùng sâu vùng xa còn rất thiếu các điểm 
tiếp cận dịch vụ. 
- Các sản phẩm, dịch vụ tài chính thiếu đa 
dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của cá nhân 
và doanh nghiệp, nhất là ở khu vực nông nghiệp, 
nông thôn. Các sản phẩm chủ yếu tập trung vào 
34 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
tín dụng, trong khi dịch vụ tiết kiệm và dịch vụ 
thanh toán còn thiếu và chưa đáp ứng nhu cầu 
của người dân nông thôn.
 - Dịch vụ thanh toán phát triển khá nhanh 
những năm gần đây. Tuy nhiên, chủ yếu tập trung 
ở nhóm cư dân thành thị bởi cơ sở hạ tầng phục 
vụ cho giao dịch thanh toán được tập trung lắp 
đặt chủ yếu ở thành thị, những nơi dân cư đông 
đúc như các điểm giao dịch, các ATM, POS.
 - Thủ tục giao dịch ngân hàng đôi lúc vẫn là 
rào cản đối với khả năng tiếp cận dịch vụ ngân 
hàng của một bộ phận khách hàng, đặc biệt là 
những khách hàng trình độ hiểu biết thấp. Chất 
lượng của một số dịch vụ còn chưa đáp ứng 
được yếu cầu. Phí dịch vụ vẫn là một yếu tố cần 
được minh bạch hơn.
- Mạng lưới bao phủ của một số tổ chức tài 
chính đặc thù (ngân hàng chính sách xã hội, quĩ 
tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô) còn 
rất hạn chế, qui mô hoạt động quá nhỏ bé; năng 
lực quản trị còn hạn chế, chưa phát huy hết được 
hiệu quả của các mô hình TCTD này trong cung 
cấp dịch vụ cho khách hàng.
- Hạ tầng thanh toán: Cơ sở hạ tầng thanh 
toán như hệ thống POS/ATM, phát triển và phân 
bố chưa đều, chưa phát triển ở địa bàn nông thôn. 
Vấn đề đang đặt ra là an toàn, an ninh mạng và 
bảo mật thông tin trong điều kiện phát triển dịch 
vụ tài chính điện tử, ngân hàng số,
- Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu 
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tỷ suất 
lợi nhuận còn thấp nên khó tiếp cận tín dụng 
ngân hàng. 
- Trình độ văn hóa, hiểu biết về tài chính và 
tiếp cận công nghệ thông tin của người dân, nhất 
là cư dân nông thôn còn thấp. Bên cạnh đó, thói 
quen tiêu dùng tiền mặt còn khá phổ biến kể cả ở 
thành thị và nông thôn. Tại thị trường nông thôn 
hiện nay, phần lớn người dân chủ yếu gắn bó với 
các loại hình chợ truyền thống. Các khoản chi 
tiêu, thanh toán của người dân chủ yếu là giá trị 
nhỏ, sử dụng tiền mặt là chính.
- Khuôn khổ luật pháp và thể chế bảo vệ người 
tiêu dùng, nhất là người tiêu dùng tài chính còn 
thiếu và phân tán. Điều này là một nguyên nhân 
dẫn đến người tiêu dùng chưa thật sự tin tưởng 
vào các giao dịch tài chính, làm hạn chế sự tiếp 
cận và sử dụng của người dân đối với các dịch 
vụ tài chính chính thức.
4. Định hướng thúc đẩy tài chính toàn diện 
ở Việt Nam
Một là, mở rộng hệ thống kênh cung cấp dịch 
vụ theo hướng đa dạng, đặc biệt là chú trọng 
các kênh mới, có tính hiệu quả cao như internet 
banking, mobile banking.
Hai là, phát triển phong phú các sản phẩm 
dịch vụ tài chính, phù hợp với nhu cầu của người 
tiêu dùng.
Ba là, nâng cao hiểu biết cũng như kỹ năng 
tài chính của người dân, thông qua đó họ mới có 
thể hiểu và sử dụng các dịch vụ được cung cấp.
Bốn là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với 
việc cung cấp các dịch vụ tài chính, xây dựng 
khuôn khổ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng tài 
chính. Nâng cao năng lực giám sát của NHNN, 
Bộ Tài chính đối với các tổ chức cung ứng 
dịch vụ.
Năm là, hoàn thiện hạ tầng tài chính và hạ 
tầng thông tin viễn thông, chú trọng đến vấn đề 
an ninh công nghệ thông tin.
Thực tế cho thấy tài chính toàn diện đã nằm 
trong nhiều chủ trương chính sách lớn của Việt 
Nam. Chính phủ cũng đã đưa ra các cam kết 
mạnh mẽ nhằm theo đuổi các mục tiêu dài hạn 
để thúc đẩy phát triển bền vững. Sự phối hợp và 
tham gia của các Bộ, ngành, khu vực tư nhân và 
các tổ chức xã hội là vô cùng quan trọng nhằm 
thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
The World Bank (2014). Global Financial Development 
report 2014: Financial Inclusion. The World Bank, 
Washington DC, USA.
World Bank Financial Inclusion Database, 2015.
Các báo cáo thống kê từ NHNN Việt Nam, Ủy ban Giám 
sát tài chính Quốc gia và Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 
2018.
http:/www.sbv.gov.vn.
overview.
Trang điện tử của Diễn đàn APEC về tài chính toàn diện 
ở Việt Nam - https://www.apec2017.vn/ap17-c/gallery/asia-
pacific-forum-financial-inclusion.
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019

File đính kèm:

  • pdfthuc_day_tai_chinh_toan_dien_o_viet_nam.pdf