Thủ tục tố tụng hình sự nhật bản-Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam thông qua sự ra đời của Bộ luật tố tụng

hình sự (BLTTHS) năm 2015 hiện nay có nhiều nét tương đồng với sự hình thành

và phát triển của mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản. Do đó, việc nghiên cứu một

số nội dung trong mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản góp phần đưa ra những giải

pháp, kiến nghị hoàn thiện hơn nữa các quy định của BLTTHS năm 2015, đảm bảo

sự phát triển của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam.

pdf 5 trang phuongnguyen 3400
Bạn đang xem tài liệu "Thủ tục tố tụng hình sự nhật bản-Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thủ tục tố tụng hình sự nhật bản-Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Thủ tục tố tụng hình sự nhật bản-Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam
58
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHẬT BẢN - MỘT SỐ KINH NGHIỆM...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
Nhật Bản là một trong những đất nước có nền tư pháp phát triển, tiếp thu nhiều ưu điểm của hệ 
thống Luật Civil Law. Luật tố tụng hình 
sự Nhật Bản sau chiến tranh đã hình thành 
một quy trình tố tụng mang tính tranh 
tụng nhiều hơn là xét hỏi theo quy định 
của Hiến pháp. Hệ thống tố tụng hình sự 
Việt Nam cũng đang dần hoàn thiện theo 
hướng tăng cường yếu tố tranh tụng giống 
sự phát triển của mô hình tố tụng hình sự 
Nhật Bản trong thời gian vừa qua. Do đó, 
việc nghiên cứu mô hình tố tụng hình sự 
Nhật Bản để rút ra các bài học kinh nghiệm 
đối với Việt Nam là phù hợp với việc thi 
hành BLTTHS năm 2015 hiện nay.
1. Thủ tục tố tụng hình sự Nhật Bản
1.1. Thủ tục tố tụng đối với vụ án 
thông thường
Theo quy định của Luật tố tụng hình 
sự Nhật Bản, khi hành vi phạm tội được 
phát hiện, các cơ quan, tổ chức liên quan sẽ 
chuyển vụ việc tới Cảnh sát tư pháp (Điều 
tra viên) để điều tra. Điều tra là công việc 
chủ yếu do cảnh sát và các Công tố viên 
tiến hành. Thông thường, cảnh sát tiến 
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHẬT BẢN - 
MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 
HOÀNG VĂN MẠNH*
* Thạc sĩ, Khoa Cảnh sát Hình sự, Trường Cao đẳng 
Cảnh sát nhân dân 1
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam thông qua sự ra đời của Bộ luật tố tụng 
hình sự (BLTTHS) năm 2015 hiện nay có nhiều nét tương đồng với sự hình thành 
và phát triển của mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản. Do đó, việc nghiên cứu một 
số nội dung trong mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản góp phần đưa ra những giải 
pháp, kiến nghị hoàn thiện hơn nữa các quy định của BLTTHS năm 2015, đảm bảo 
sự phát triển của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ khóa: Tố tụng hình sự, Nhật Bản, Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngày nhận bài: 30/3/2020; Ngày biên tập xong: 07/4/2020; Ngày duyệt đăng: 
15/4/2020.
Vietnamese criminal proceedings, via the introduction of the 2015 
Criminal Procedure Code, has had similarities with the formation and 
development of the Japanese criminal procedure model. Therefore, studying 
Japanese criminal procedure model will contribute to perfecting the 2015 CPC 
that ensure the development of Vietnamese criminal procedure model.
Keywords: Criminal proceedings, Japanese, the Criminal Procedure Code.
59Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
HOÀNG VĂN MẠNH
hành điều tra ở giai đoạn ban đầu (Cảnh 
sát tư pháp có quyền tha đối với những 
hành vi phạm tội nhỏ), tiếp theo sau là 
điều tra bổ sung của Công tố viên. Trong 
giai đoạn điều tra, Cơ quan công tố có thể 
quyết định việc giam giữ đối với người bị 
tình nghi. Trong thời hạn tối đa 23 ngày1, 
Cơ quan công tố phải quyết định việc truy 
tố, không truy tố hoặc truy tố theo thủ tục 
giản lược. Vụ án được truy tố theo thủ tục 
giản lược là các vụ án có mức hình phạt cao 
nhất là phạt tiền đến 1.000.000 yên và bị cáo 
đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. 
Khi ban hành lệnh giản lược, Tòa án phải 
đưa ra các tình tiết cấu thành hành vi phạm 
tội, luật hoặc quy định áp dụng, số tiền 
phạt và các mục khác mà có thể được cho 
là cần thiết2. Theo quy định của luật tố tụng 
Nhật Bản, Công tố viên có quyền quyết 
định không truy tố khi xét thấy không cần 
thiết do tính cách của phạm nhân, tuổi tác 
và hoàn cảnh, mức độ của tội phạm và 
thực trạng, tình trạng sau khi phạm tội. 
Quyết định tùy nghi truy tố của Công tố 
viên chịu sự kiểm soát từ hệ thống Cơ quan 
công tố và sự giám sát của xã hội. Trường 
hợp Công tố viên và Viện công tố Nhật Bản 
1 Theo quy định của BLTTHS Nhật Bản, Văn phòng 
công tố có thể bắt giữ người bị tình nghi trong 
vòng 48 tiếng mà không cần lệnh của Tòa án (Điều 
203). Cùng với thời gian điều tra ban đầu, không 
bao giờ một người bị tình nghi phạm tội bị giam 
giữ quá 72 giờ mà không có lệnh bắt giữ của Tòa 
án. Lệnh giam giữ của Tòa án cũng chỉ cho phép 
người bị tình nghi phạm tội bị giam giữ trong thời 
hạn tối đa là 10 ngày và sau đó có thể được gia hạn 
song cũng không quá 10 ngày, trừ những tội phạm 
nghiêm trọng chống lại chủ quyền quốc gia có thể 
gia hạn thêm 5 ngày (Điều 208) 
2 BLTTHS cũng yêu cầu lệnh giản lược phải có một 
bản tuyên bố rằng bị cáo có thể xin xét xử bình 
thường trong vòng 14 ngày kể từ ngày công bố 
lệnh nếu bị cáo không hài lòng với sự sắp xếp này 
(Điều 461 tới Điều 470) 
quyết định không truy tố thì quyết định đó 
được đưa ra Hội đồng giám sát để quyết 
định với thành viên của Hội đồng là bất kì 
người dân nào trong xã hội. Khi Hội đồng 
giám sát quyết định thuộc trường hợp phải 
truy tố thì Luật sư sẽ đứng ra thay mặt 
Viện công tố thực hiện thẩm quyền truy tố 
đối với bị can. Sau khi Công tố viên quyết 
định truy tố, vụ án được chuyển đến Tòa 
án địa phương hoặc Tòa án giản lược để 
xét xử công khai. Tại Nhật Bản, mọi trường 
hợp đều phải xét xử công khai, không có 
trường hợp nào được xét xử kín.
Hệ thống xét xử tại Nhật Bản giúp họ 
xét xử trong khi các nhân chứng, bị hại, 
đương sự không cần trực tiếp có mặt tại 
phòng xử án và Thẩm phán chủ tọa phiên 
tòa có thể giới hạn số người cần nghe nội 
dung lời khai của những người liên quan. 
Sau khi xét xử, Hội đồng xét xử có quyền 
ra phán quyết về hành vi phạm tội của 
bị cáo bao gồm: Tử hình, phạt tù, phạt tù 
được hoãn thi hành (án treo, cải tạo không 
giam giữ), phạt tiền; trường hợp không đủ 
căn cứ thì tuyên không phạm tội. Tại Nhật 
Bản, các vụ án có mức hình phạt tử hình, 
tù chung thân hoặc vụ án liên quan đến 
làm chết người do hành vi phạm tội cố ý 
của tội phạm có hình phạt tù, giam cầm ít 
nhất từ 01 năm trở lên sẽ được xét xử theo 
cơ chế có Hội thẩm tham gia, các trường 
hợp khác được xét xử với thành phần gồm 
các Thẩm phán. Trường hợp vụ án được 
xét xử phúc thẩm thì thành phần Hội đồng 
xét xử là các Thẩm phán.
1.2. Thủ tục xét xử người phạm tội vị 
thành niên
Từ năm 1949, Nhật Bản đã có một hệ 
thống tư pháp riêng cho trẻ em vi phạm 
pháp luật. Luật Người chưa thành niên 
của Nhật Bản hoàn toàn dựa trên nền tảng 
phúc lợi để điều chỉnh. Gần đây, cùng với 
60
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHẬT BẢN - MỘT SỐ KINH NGHIỆM...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
xu hướng gia tăng của tội phạm và một số 
vụ phạm tội do trẻ em thực hiện gây chấn 
động lớn, Nhật Bản đã tăng cường quyền 
lực của nhà nước trong việc xử lý các bị 
can thanh thiếu niên, đặc biệt là với quyết 
định về việc giảm độ tuổi chịu trách nhiệm 
hình sự và kéo dài thời hạn cho phép giữ 
người chưa thành niên trong cơ sở giam 
giữ. Luật sửa đổi cũng quy định thiết lập 
một hệ thống mới có chức năng chuyển các 
vụ án nghiêm trọng từ Toà Gia đình sang 
Toà dành cho người trưởng thành3. 
Nhật Bản quy định người chưa thành 
niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến 
dưới 20 tuổi, trong đó hành vi của người 
dưới 18 tuổi không thể bị trừng phạt. Đối 
với người từ đủ 18 tuổi đến dưới 20 tuổi, 
Nhật Bản quy định một thủ tục tố tụng áp 
dụng riêng. Sau khi phát hiện các vụ án do 
người chưa thành niên thực hiện, Cảnh sát 
tư pháp sẽ chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án 
gia đình thay vì chuyển sang cho Viện công 
tố để quyết định việc truy tố như đối với 
các vụ án thông thường. Tòa án gia đình là 
cơ quan quyết định việc có truy tố đối với 
người chưa thành niên hay không. Trong 
quá trình xem xét của Tòa án gia đình, 
người chưa thành niên được giao cho gia 
đình giám sát, giáo dục. Trường hợp đặc 
biệt, Tòa án gia đình có thể quyết định đưa 
người chưa thành niên vào Nhà phân loại 
vị thành niên. Đây là một cơ sở để giám 
sát, giáo dục dành riêng cho người chưa 
thành niên. Sau khi tiếp nhận hồ sơ và tiến 
hành điều tra thêm, Tòa án gia đình sẽ mở 
phiên thẩm xét đối với người chưa thành 
niên để quyết định việc có truy tố đối với 
người chưa thành niên hay không. Phiên 
3 Trần Hưng Bình (2013), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng 
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học 
viện khoa học xã hội 
xét xử được điều hành bởi Thẩm phán và 
được tiến hành xét xử kín. Tại phiên thẩm 
xét này, Tòa án có thể quyết định việc 
không xử lý hình sự đối với người chưa 
thành niên và áp dụng các biện pháp giám 
sát, giáo dục như biện pháp đưa vào cơ sở 
hỗ trợ trẻ em, nhà nuôi dưỡng để giám sát; 
quản chế hoặc đưa vào trường đào tạo vị 
thành niên. Trường hợp xét thấy cần phải 
truy tố, Tòa án gia đình chuyển hồ sơ cho 
Viện Công tố để tiến hành các bước truy tố 
theo thủ tục thông thường.
1.3. Chế độ ghi âm, ghi hình trong lấy 
lời khai tại Nhật Bản
Chế độ ghi âm, ghi hình trong lấy lời 
khai tại Nhật Bản bắt đầu được thực hiện 
thí điểm từ năm 2006 và được ghi nhận 
chính thức tại Luật sửa đổi một phần Luật 
tố tụng hình sự ngày 24/5/2016. Theo đó, 
chế độ ghi âm, ghi hình sẽ chính thức 
được áp dụng trong toàn quốc kể từ ngày 
02/6/2019. Theo quy định này, trong giai 
đoạn điều tra, phải ghi âm ghi hình toàn 
bộ quá trình Công tố viên, Kiểm tra viên 
hoặc Cảnh sát tư pháp lấy lời khai bị can 
đang bị bắt, tạm giam với các vụ án là 
đối tượng của chế độ Hội thẩm hoặc các 
vụ án do Công tố viên tự mình điều tra. 
Vụ án của chế độ Hội thẩm là vụ án liên 
quan đến nội dung có hình phạt tử hình, 
tù chung thân, giam cầm chung thân hoặc 
các vụ án liên quan đến làm chết người 
do hành vi phạm tội cố ý của tội phạm có 
hình phạt tù, giam cầm ít nhất từ 01 năm 
trở lên. Đối tượng của việc lấy lời khai là 
bị can đang bị bắt, tạm giam hoặc trường 
hợp khác cần phải được ghi âm, ghi hình 
(trường hợp này cần phải ghi rõ lý do). 
Việc ghi âm, ghi hình tại Nhật Bản cũng 
có thể không thực hiện trong trường hợp 
không thể ghi âm, ghi hình do máy móc 
cần thiết cho việc ghi âm, ghi hình bị hỏng 
61Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
HOÀNG VĂN MẠNH
hoặc tình thế bất khả kháng khác; trường 
hợp bị can từ chối việc ghi âm, ghi hình 
(trường hợp này Công tố viên phải chứng 
minh cụ thể nếu ghi âm, ghi hình thì bị can 
không khai báo, do đó để bị can khai thì 
không thể áp dụng việc ghi âm, ghi hình); 
vụ án liên quan đến thành viên của tổ chức 
bạo lực chỉ định; trường hợp khi xét tính 
chất tội phạm, phát ngôn của người có liên 
quan, tính chất của tổ chức mà bị can là 
thành viên hoặc các yếu tố khác mà thấy 
rằng trong trường hợp lời khai của bị can 
và bối cảnh lời khai đó được làm rõ thì bị 
can, gia đình hoặc tài sản của họ sẽ bị làm 
tổn hại hoặc có lo ngại rằng những người 
này sẽ bị đe dọa, bị gây phiền hà nên bị can 
không thể trình bày một cách đầy đủ nếu 
ghi âm, ghi hình. Trong giai đoạn xét xử 
tại phiên tòa, trong trường hợp có yêu cầu 
kiểm tra bằng chứng về biên bản lấy lời 
khai hoặc lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn 
với biên bản ghi lời khai, Tòa án sẽ phải 
kiểm tra việc ghi âm, ghi hình từ khi bắt 
đầu cho đến khi kết thúc cuộc lấy lời khai. 
2. Một số kinh nghiệm đối với 
Việt Nam
Thứ nhất, về mô hình tố tụng hình sự
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng mô 
hình tố tụng thẩm vấn, tăng cường các yếu 
tố tranh tụng bằng việc bổ sung nguyên tắc 
“tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. 
Trong khi đó, Nhật Bản hiện theo mô hình 
tố tụng tranh tụng, vì vậy Tòa án đóng vai 
trò trọng tài giữa bên Công tố và Luật sư. 
Theo hệ thống tranh tụng đó, Thẩm phán 
của Nhật Bản không được tiếp xúc với hồ 
sơ vụ án trước khi diễn ra phiên xét xử để 
đảm bảo tính khách quan đối với việc xét 
xử vụ án. Do ở hai mô hình tố tụng khác 
nhau nên việc áp dụng hoàn toàn các quy 
định của Nhật Bản với Việt Nam là điều 
không thể. Tuy nhiên, mô hình tố tụng của 
Nhật Bản có một số quy định rất thiết thực 
đối với thực tiễn tại Việt Nam. 
Tại Nhật Bản, để phiên tòa xét xử 
diễn ra được nhanh chóng, việc tranh luận 
giữa Công tố viên và Luật sư được trọng 
tâm hơn, Luật tố tụng Nhật Bản quy định 
một phiên làm việc giữa 3 bên trước khi 
mở phiên tòa. Trong phiên làm việc này, 
các bên dự kiến các vấn đề cần tranh tụng, 
công khai hệ thống chứng cứ cho nhau 
xem để quyết định hệ thống chứng cứ nào 
được tranh tụng tại phiên tòa. Việt Nam 
cũng có thể học hỏi Nhật Bản để có một 
buổi làm việc giữa 3 bên trước khi phiên 
tòa được đưa ra xét xử nhằm thống nhất 
các vấn đề cụ thể, thời gian tranh tụng các 
vấn đề, dự kiến số người phát biểu của bên 
Luật sư trong trường hợp có nhiều luật sư 
tham gia bào chữa
Thứ hai, về thủ tục tố tụng đối với người 
chưa thành niên phạm tội
Việc xem xét xử lý hình sự đối với 
người chưa thành niên tại Nhật Bản có 
sự phân định rõ ràng giữa hai giai đoạn: 
giai đoạn xem xét để có truy tố hay không 
và giai đoạn sau khi quyết định truy tố 
(được tiến hành giống như các vụ án thông 
thường). Trong giai đoạn đầu, người dưới 
18 tuổi gần như không bị áp dụng biện 
pháp cưỡng chế, ngăn chặn mà cơ bản 
được gia đình giám sát, giáo dục. Trường 
hợp đặc biệt, họ được đưa vào Nhà phân 
loại vị thành niên để giám sát, giáo dục. 
Tuy nhiên tại Việt Nam, ngay ở giai 
đoạn đầu, người chưa thành niên có thể 
bị áp dụng rất nhiều các biện pháp ngăn 
chặn, cưỡng chế, trong đó ngăn chặn tạm 
giam là biện pháp nghiêm khắc nhất. Như 
vậy, có những trường hợp người chưa 
thành niên được miễn trách nhiệm hình sự 
nhưng trong giai đoạn đầu vẫn bị áp dụng 
62
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHẬT BẢN - MỘT SỐ KINH NGHIỆM...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
biện pháp tạm giam, bị giam, giữ tại các 
cơ sở giam giữ. Trường hợp người chưa 
thành niên bị xử lý hình sự và được miễn 
trách nhiệm hình sự vẫn bị áp dụng biện 
pháp tạm giam giống nhau. Do vậy, chúng 
tôi thấy rằng Việt Nam có thể học tập Nhật 
Bản để xây dựng một Nhà phân loại vị 
thành niên để giám sát, giáo dục riêng đối 
với người chưa thành niên trong giai đoạn 
tố tụng. Tuy nhiên, cần nghiên cứu và thực 
hiện thí điểm nội dung này cho phù hợp 
với hệ thống tố tụng của Việt Nam.
Thứ ba, về vấn đề ghi âm, ghi hình
Tại Nhật Bản, các quy định về ghi âm, 
ghi hình đã được áp dụng thống nhất vào 
giữa năm 2019, trong khi thực tế đã bắt 
đầu thí điểm từ năm 2006. Bài học kinh 
nghiệm của Nhật Bản trong việc áp dụng 
vấn đề ghi âm, ghi hình theo chúng tôi là 
rất có ý nghĩa, bởi việc áp dụng ghi âm ghi 
hình của Nhật Bản đã được thí điểm và 
nghiên cứu trong thời gian rất dài, khoảng 
13 năm. Trước đó, đối tượng áp dụng ghi 
âm, ghi hình cũng rất rộng. 
Tại Việt Nam, vấn đề ghi âm, ghi hình 
đã được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015, 
hiện nay đã bắt đầu được áp dụng thí điểm 
tại một số nơi có đủ điều kiện và thống nhất 
áp dụng trong phạm vi toàn quốc từ ngày 
01/01/2020. Như vậy, việc quy định áp 
dụng ghi âm, ghi hình tại Việt Nam với thời 
gian chuẩn bị khá ngắn, khó thành công 
trong thực tế khi phạm vi, đối tượng áp 
dụng rộng. Quy định tại Thông tư liên tịch 
03/2018/TLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân 
dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về 
trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi 
hình có âm thanh được áp dụng trong 
các trường hợp hỏi cung bị can, lấy lời khai 
người làm chứng, người bị hại, đương sự; 
đối chất; tiếp nhận tố giác; tin báo về tội 
phạm và kiến nghị khởi tố và được thực 
hiện đối với tất cả các loại tội phạm. 
Trong khi đó tại Nhật Bản, việc ghi 
âm, ghi hình chỉ áp dụng đối với các vụ 
án có Hội thẩm tham gia hoặc trường hợp 
Công tố viên tự mình điều tra. Việt Nam 
cần giới hạn phạm vi đối tượng và các vụ 
việc cụ thể cần áp dụng biện pháp ghi âm, 
ghi hình theo tính chất của tội phạm và tội 
danh cụ thể mà không theo phân loại tội 
như hiện nay. Ví dụ, các vụ án quả tang 
thì không nhất thiết phải ghi âm, thu hình, 
còn các vụ án truy xét thì bắt buộc phải 
tiến hành ghi âm, thu hình.
Về thời điểm ghi âm, ghi hình có âm 
thanh, tại Nhật Bản, hệ thống ghi hình được 
thực hiện kể từ thời điểm người phạm tội 
bước vào phòng làm việc cho đến khi kết 
thúc, người phạm tội ra khỏi phòng. Ở 
Việt Nam, việc ghi âm hoặc ghi hình có âm 
thanh bắt đầu từ khi cán bộ hỏi cung hoặc 
lấy lời khai người đại diện theo pháp luật 
của pháp nhân thương mại phạm tội nhấn 
nút bắt đầu. Cán bộ hỏi cung bị can hoặc 
lấy lời khai người đại diện theo pháp luật 
của pháp nhân thương mại phạm tội phải 
đọc thời gian bắt đầu và ghi rõ trong biên 
bản. Việt Nam cần nghiên cứu, áp dụng hệ 
thống máy móc của Nhật Bản để thực hiện 
việc ghi hình toàn bộ quá trình hỏi cung, 
lấy lời khai như quy định của Nhật Bản 
để đảm bảo tốt hơn quyền con người của 
người bị buộc tội. Tuy nhiên, vấn đề điều 
kiện cơ sở vật chất tại Việt Nam hiện nay 
chưa thể áp dụng ngay được. Trước mắt, 
Việt Nam triển khai theo hướng mỗi cơ 
quan có ít nhất 1 đến 2 phòng ghi âm, thu 
hình tách khỏi khu vực làm việc. Nếu thực 
hiện như tại Nhật Bản là ghi âm, ghi hình 
ngay tại phòng làm việc của Công tố viên 
thì Việt Nam hiện nay rất khó thực hiện./.

File đính kèm:

  • pdfthu_tuc_to_tung_hinh_su_nhat_ban_mot_so_kinh_nghiem_doi_voi.pdf