Thử nghiệm lâm sàng pha II truyền tế bào diệt tự nhiên nửa thuận hợp trong điều trị các bệnh ác tính tủy xương tái phát hoặc dai dẳng sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu giai đoạn II để xác định hiệu quả của việc truyền tế bào diệt tự nhiên
(NK) nửa thuận hợp HLA sau diệt tế bào lympho bằng cyclophosphamide cho bệnh nhân bạch cầu cấp dòng
tủy (AML) tái phát hoặc Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS) sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài. Tám
bệnh nhân (2 với MDS, 6 với AML) đã được điều trị bằng cyclophosphamide 50 mg/kg vào ngày (−3) và
ngày (−2) trước khi truyền các tế bào NK được phân lập từ người cho nửa thuận hợp HLA. Một bệnh nhân
được truyền bổ sung fludarabine 25 mg/m2/d × 4 liều. Sáu liều 1 triệu đơn vị interleukin-2 (IL-2) được dùng
vào những ngày xen kẽ bắt đầu từ ngày (−1). Số lượng tế bào NK truyền trung bình là 10,6 x 106/kg (khoảng
4,3 - 22,4) và số lượng trung bình của tế bào CD3 là 2,1 × 103/kg (khoảng 1,9 - 40). Tế bào NK truyền được
dung nạp tốt với thời gian trung bình để phục hồi bạch cầu trung tính trong 19 ngày và không xảy ra hiện
tượng mảnh ghép chống vật chủ sau khi truyền. Một bệnh nhân với AML và một bệnh nhân với MDS đã có
đáp ứng hoàn toàn với liệu pháp nhưng tái phát ở thời điểm 1,7 và 1,8 tháng. Một bệnh nhân với MDS đã hết
các rối loạn về tạo máu nhưng vẫn tồn tại những bất thường về karyotype. Bệnh nhân này vẫn ổn định sau
65 tháng điều trị tế bào NK. Thời gian sống trung bình là 12,9 tháng (0,8 - 65,3 tháng). Phân tích mọc mảnh
ghép trên quần thể CD3−/CD56+ từ máu ngoại vi không thấy các tế bào NK nửa thuận hợp trong tuần hoàn
sau khi truyền. Kiểu hình NK được phân tích trên bảy bệnh nhân trong và sau khi truyền IL-2. Chúng tôi thấy
có xu hướng biểu hiện đối với dòng KIR2DL2/ 2DL3/ 2DS2 (5% so với 28%, P = 0,03) tại thời điểm 14 ngày
ở bệnh nhân sống lâu hơn 6 tháng từ lúc truyền tế bào NK (N = 4) khi so sánh với những bệnh nhân sống
dưới 6 tháng sau điều trị tế bào NK (N = 3). Tóm lại, những kết quả này nói lên tính an toàn của việc truyền
tế bào NK nửa thuận hợp sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm lâm sàng pha II truyền tế bào diệt tự nhiên nửa thuận hợp trong điều trị các bệnh ác tính tủy xương tái phát hoặc dai dẳng sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài
TCNCYH 114 (5) - 2018 131 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG PHA II TRUYỀN TẾ BÀO DIỆT TỰ NHIÊN NỬA THUẬN HỢP TRONG ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH ÁC TÍNH TỦY XƯƠNG TÁI PHÁT HOẶC DAI DẲNG SAU GHÉP TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU ĐỒNG LOÀI Brian C. Shaffer, MD1, Jean-Benoit Le Ludec, PhD3, Christopher Forlenza, MD2, Ann A. Jakubowski, MD, PhD1, Miguel-Angel Perales, MD1, James W. Young, MD1,3, Katharine C. Hsu, MD, PhD1,3 1Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, Đơn vị Truyền máu & Ghép tủy, Đại học Y Weill Cornell, New York, NY 2Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, Khoa Nhi, Đơn vị Huyết học/Ung bướu, New York, NY 3Học viện Sloan Kettering, New York, NY Người dịch: BS. Lương Hoàng Long* Hiệu đính: TS.BS. Nguyễn Thanh Bình Trường Đại học Y Hà Nội * Người dịch đã cố gắng truyền tải thông tin một cách sát nghĩa và dễ hiểu nhất đến với bạn đọc. Tuy nhiên cũng có thể xảy ra sai sót do chưa thống nhất về một số thuật ngữ và khái niệm mới. Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất kỳ sai sót y khoa nào khi tham khảo, trích dẫn bài dịch này. Mọi thông tin chính xác và đầy đủ nhất xin xem bài báo nguyên gốc theo link dưới đây: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/ PMC4801764/ (Biol Blood Marrow Transplant. 2016 Apr; 22(4): 705-709). TÓM TẮT Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu giai đoạn II để xác định hiệu quả của việc truyền tế bào diệt tự nhiên (NK) nửa thuận hợp HLA sau diệt tế bào lympho bằng cyclophosphamide cho bệnh nhân bạch cầu cấp dòng tủy (AML) tái phát hoặc Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS) sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài. Tám bệnh nhân (2 với MDS, 6 với AML) đã được điều trị bằng cyclophosphamide 50 mg/kg vào ngày (−3) và ngày (−2) trước khi truyền các tế bào NK được phân lập từ người cho nửa thuận hợp HLA. Một bệnh nhân được truyền bổ sung fludarabine 25 mg/m2/d × 4 liều. Sáu liều 1 triệu đơn vị interleukin-2 (IL-2) được dùng vào những ngày xen kẽ bắt đầu từ ngày (−1). Số lượng tế bào NK truyền trung bình là 10,6 x 106/kg (khoảng 4,3 - 22,4) và số lượng trung bình của tế bào CD3 là 2,1 × 103/kg (khoảng 1,9 - 40). Tế bào NK truyền được dung nạp tốt với thời gian trung bình để phục hồi bạch cầu trung tính trong 19 ngày và không xảy ra hiện tượng mảnh ghép chống vật chủ sau khi truyền. Một bệnh nhân với AML và một bệnh nhân với MDS đã có đáp ứng hoàn toàn với liệu pháp nhưng tái phát ở thời điểm 1,7 và 1,8 tháng. Một bệnh nhân với MDS đã hết các rối loạn về tạo máu nhưng vẫn tồn tại những bất thường về karyotype. Bệnh nhân này vẫn ổn định sau 65 tháng điều trị tế bào NK. Thời gian sống trung bình là 12,9 tháng (0,8 - 65,3 tháng). Phân tích mọc mảnh ghép trên quần thể CD3−/CD56+ từ máu ngoại vi không thấy các tế bào NK nửa thuận hợp trong tuần hoàn sau khi truyền. Kiểu hình NK được phân tích trên bảy bệnh nhân trong và sau khi truyền IL-2. Chúng tôi thấy có xu hướng biểu hiện đối với dòng KIR2DL2/ 2DL3/ 2DS2 (5% so với 28%, P = 0,03) tại thời điểm 14 ngày ở bệnh nhân sống lâu hơn 6 tháng từ lúc truyền tế bào NK (N = 4) khi so sánh với những bệnh nhân sống dưới 6 tháng sau điều trị tế bào NK (N = 3). Tóm lại, những kết quả này nói lên tính an toàn của việc truyền tế bào NK nửa thuận hợp sau ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài. 132 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC I. TỔNG QUAN Ghép tế bào tạo máu đồng loài (HCT) có thể làm thuyên giảm các bệnh lý ác tính phát sinh từ tế bào tiền thân dòng tủy như Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS), bệnh bạch cầu cấp dòng tủy (AML) hoặc bệnh bạch cầu mạn tính dòng tủy (CML). Điều này có thể do hiệu ứng Mảnh ghép chống Bệnh bạch cầu (Graft versus leukemia – GVL), được khởi động và điều hòa bởi các tế bào phản ứng của người cho, bao gồm tế bào T và tế bào diệt tự nhiên (NK) [1; 2]. Tuy nhiên, tái phát vẫn xảy ra ở 40% bệnh nhân sau HCT. Những bệnh nhân này còn lại rất ít các lựa chọn điều trị [3; 4]. Hóa trị có thể áp dụng nhưng hiệu quả điều trị không cao và dung nạp kém do những bệnh nhân sau ghép thường có chức năng miễn dịch và thể lực suy giảm. Biện pháp thứ hai để xử trí tái phát là truyền các tế bào lympho của người cho chưa tinh sạch (Unmanipulated Donor Lymphocytes - DLI) để tăng tiềm năng cho GVL. DLI có hiệu quả làm giảm CML trong khoảng 70 - 90% số trường hợp; tuy nhiên, đối với MDS đáp ứng ít hơn so với AML [4 - 6]. Ngoài ra DLI cũng có thể gây ra hội chứng mảnh ghép chống vật chủ nghiêm trọng (GVHD), do đó cần thận trọng khi sử dụng. Các liệu pháp hiện có để điều trị bệnh ác tính tủy tái phát, đặc biệt là MDS và AML, có hiệu quả thấp và có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng. Vì vậy, rất ít các bệnh nhân tái phát sau HCT có thể sống sót lâu dài. Các tế bào diệt tự nhiên (NK) đóng một vai trò quan trọng trong việc điều hòa hiệu ứng GVL chống lại các tế bào ác tính dòng tủy, đặc biệt là AML [7 - 12]. Một loạt các thụ thể kích hoạt và ức chế trên bề mặt tế bào T điều khiển hoạt động của NK chống lại các tế bào đích, bao gồm NKG2A, NKG2D, Các thụ thể độc tế bào, và các thụ thể giống Ig (KIR) [12; 13]. Các thụ thể này được quan tâm nhiều hơn sau khi có một số báo cáo cho thấy kiểu gene KIR của người cho có liên quan đến tính đáp ứng của NK và khả năng kiểm soát bệnh bạch cầu cấp trên mô hình chuột và trên các bệnh nhân điều trị HCT [10; 14 - 16]. Các tế bào NK biểu hiện ngẫu nhiên các thụ thể KIR ức chế có khả năng tương tác với các epitope đặc hiệu trong HLA lớp I trên các tế bào đích. KIR2DL2/3 nhận biết HLA-C đặc trưng bởi Lys80 (kiểu HLA-C1); KIR2DL1 nhận biết HLA -C đặc trưng bởi Asn80 (kiểu HLA-C2) và KIR3DL1 nhận dạng HLA-B và HLA-A allo- types đặc trưng bởi típ Bw4 [17; 18]. Ngoài ra, thụ thể KIR2DS1 đang kích hoạt sẽ nhận biết được HLA-C2 [19]. Các tế bào ác tính do thiếu HLA có khả năng gắn vào các thụ thể ức chế KIR sẽ tạo ra một tín hiệu kích hoạt đối với các tế bào NK dẫn đến hiệu quả đáp ứng lớn hơn. Hiệu ứng này được cộng hưởng khi thụ thể ức chế KIR biểu hiện từ tế bào của người cho, dẫn đến hiện tượng kích hoạt các tế bào NK nhận diện các tế bào thiếu HLA [14]. Do vậy hoạt động của tế bào NK sẽ được tăng cường từ việc lựa chọn người cho không phù hợp HLA có chủ đích. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thử nghiệm xem các tế bào NK tinh khiết từ người cho nửa thuận hợp HLA có thể tạo hiệu ứng GVL mà không gây hội chứng mảnh ghép chống vật chủ (GVHD) ở những bệnh nhân bị bệnh ác tính tủy tái phát sau HCT hay không. Việc truyền các tế bào NK tinh khiết sẽ tạo ra hiệu quả gây độc cho dòng ác tính mà không Địa chỉ liên hệ: Lương Hoàng Long, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 8/4/2018 Ngày được chấp thuận: 28/7/2018 TCNCYH 114 (5) - 2018 133 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC dẫn đến GVHD, một biến chứng thường gặp của DLI. Ngoài ra, việc sử dụng NK tinh khiết cho phép chọn những người cho không phù hợp HLA, với hiệu quả chống lại tế bào ác tính lớn hơn. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tính khả thi và an toàn của việc truyền các tế bào NK nửa thuận hợp HLA cho bệnh nhân bị bệnh ác tính tủy xương đã tái phát sau HCT từ người trong gia đình hoặc người cho không cùng huyết thống. Biện pháp truyền như vậy được dung nạp tốt hơn nhờ tận dụng tình trạng cạn kiệt dòng tủy ở bệnh nhân sau HCT. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Tiêu chuẩn lựa chọn, đánh giá đáp ứng và kế hoạch điều trị Bệnh nhân ở bất kỳ độ tuổi nào tái phát hoặc dai dẳng CML, MDS hoặc CML không rõ ràng sau HCT và những người được xác định là không đủ điều kiện cho HCT lần thứ hai đều có thể tham gia nghiên cứu này. Nghiên cứu được phê duyệt bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh của các cơ quan quản lý. Tất cả bệnh nhân đều tự nguyện chấp thuận tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu đã được đăng ký tại Clinical- Trial.gov với số đăng ký NCT00526292. Bệnh nhân cần phải có > 5% thâm nhiễm tủy xương được xác định bằng hình thái, karyotype hoặc lai huỳnh quang tại chỗ (FISH). Bệnh nhân có bệnh lý ngoài tủy không được tham gia nghiên cứu. Những bệnh nhân được điều trị tái phát bằng các phương pháp khác không bị loại khỏi nghiên cứu, miễn là bệnh nhân đáp ứng được tiêu chí tủy xương trước khi truyền NK. Bệnh nhân có GVHD không bị loại trừ miễn là họ không dùng thuốc ức chế miễn dịch hệ thống trong hai tuần trước khi bắt đầu điều trị. Độc tính được phân loại theo các tiêu chuẩn chung của Viện Ung thư Quốc gia về các biến cố bất lợi, v3.0. Các đáp ứng lâm sàng được đánh giá theo các tiêu chí đã được đề ra [20; 21]. Đáp ứng được đánh giá bằng sinh thiết tủy vào các ngày +30, +100, +200 và +365. Ghép thành công được định nghĩa là ngày đầu tiên số lượng bạch cầu trung tính trong máu > 500 kéo dài trên 3 ngày liên tiếp. Liệu pháp ức chế tế bào, IL-2 và chăm sóc hỗ trợ Hóa trị liệu ức chế tế bào bao gồm cyclo- phosphamide 50 mg/ kg/ ngày tiêm tĩnh mạch vào các ngày −3 và −2. Một bệnh nhân được dùng cyclophosphamide vào các ngày −6 và −5 đồng thời với fludarabine 25 mg/ m2 da/ ngày vào các ngày từ −6 đến −2. Để thúc đẩy sự nhân lên in vivo của tế bào NK, các bệnh nhân được dùng IL-2 với liều 1 triệu đơn vị/ m2 da mỗi 48 giờ với tổng cộng sáu liều bắt đầu từ ngày −1. Tế bào NK được truyền vào ngày thứ 0. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc kháng sinh dự phòng cho các loài Pneu- mocystis jiroveci, Herpesviridae và Candida trong khi điều trị theo phác đồ của trung tâm. Lựa chọn người cho, tách bạch cầu và phân lập từ tính - miễn dịch dòng tế bào NK từ người cho Những người cho đủ điều kiện là các thành viên gia đình có HLA nửa thuận hợp đáp ứng tiêu chuẩn cho tế bào dựa trên nguyên tắc FACT / NMDP và chấp thuận tham gia hiến tặng. Tất cả người cho được định danh KIR như mô tả bên dưới. Sau đó thu hoạch bạch cầu máu ngoại vi trong 10-lít máu chạy qua máy (apheresis) 1 ngày trước ngày truyền. Các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi (PBMC) phân lập được sẽ được làm giàu tế 134 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC bào NK qua 2 bước trên thiết bị phân lập dòng tế bào CliniMACS (Miltenyi Biotech, Gladbach, Đức) như sau: PBMC lần đầu tiên sẽ loại bỏ CD3+ (hóa chất CD3, Miltenyi) Biotec, Au- burn, CA). Sản phẩm tế bào âm tính đối với CD3 được thu thập, rửa sạch một lần và trải qua phân lập chủ động các tế bào CD56+ (hóa chất CD56, Miltenyi Biotec, Auburn, CA). Khả năng sống của tế bào được đánh giá và số lượng tuyệt đối của các loại tế bào được tính dựa trên các marker CD45+, CD3+ và CD56+. Cytokine không được sử dụng trong quá trình xử lý tế bào NK in vitro. Sản phẩm tế bào NK được coi là có thể chấp nhận được nếu tổng số lượng tế bào CD3+ không vượt quá 2 × 105/ kg trọng lượng cơ thể, làm giàu ≥ 90% tế bào CD3−/CD56+, khả năng sống là ≥ 70%, nội độc tố là ≤ 5 EU/ mL và mycoplasma, nhuộm gram và vi khuẩn/ nấm là âm tính. Các mẫu vô trùng từ sản phẩm cuối cùng được thu thập và nuôi cấy trong 14 ngày. Phân tích miễn dịch và điều kiện nuôi cấy tế bào Các tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMC) được phân lập bằng ly tâm Ficoll theo gradient tỷ trọng. Các tế bào được nuôi cấy trong môi trường RPMI-1640 bổ sung huyết thanh phôi bò 10% bất hoạt, 100 U/mL penicillin, 100µg/ mL streptomycin, 1% natri pyruvate và 1% 2- mercaptoethanol, bổ sung IL-2 người (Proleukin, Prometheus Laboratories Inc., San Diego, CA) ở nồng độ 200U/ ml và ủ ở 37°C với 5% CO2 trong 12 đến 16 giờ trước khi đánh giá chức năng. CD107 và khả năng sản xuất IFN-γ nội bào được sử dụng làm chỉ số đánh giá sự kích hoạt tế bào hiệu ứng [22 - 24]. PBMCs (5 × 105/giếng) hoặc tế bào NK (1 × 105/ giếng) được ủ với dòng tế bào erythroleuke- mia của người K562 (ATCC; Manassas, VA) đóng vai trò là các tế bào đích theo tỷ lệ tương ứng là 1:5 và 1:1 trong vòng 4 giờ trong plate 96 giếng với 200 µL môi trường (được mô tả như trên) cho mỗi giếng. Kháng thể anti- CD107a gắn APCH7 (dòng H4A3, BD Biosci- ences; Franklin Lakes, NJ) được thêm vào từng giếng trước khi ủ. Các tế bào được nhuộm với CD3-BV650 (dòng SK7, BD Biosci- ences), anti-CD56-ECD (dòng N901, Beck- man Coulter; Brea, CA); anti-KIR2DL1/ 2DS1- PEcy5.5 (dòng EB6B, Beckman Coulter), anti- KIR2DL2 2DL3/ 2DS2-FITC (dòng CH-L, BD Biosciences), anti-KIR3DL1/ S1-APC (dòng Z27, Beckman Coulter), anti-KIR3DL1 – Alexa Fluor 700 (dòng DX9, Biolegend; San Diego, CA); anti- NKG2A-PEcy7 (dòng Z199, Beck- man Coulter); anti-LIR-1-PE (dòng HP-F1, Beckman Coulter). Dùng cho đánh giá IFN-γ, brefeldin-A (2 µg/ ml, Sigma-Aldrich; St. Louis, MO) và GolgiStop (1 µg/ml, BD Biosciences) được thêm vào hỗn hợp sau 1 giờ ủ và FIX&PERM (Invitrogen; Carlsbad, CA) được sử dụng để nhuộm màu. Các tế bào được phân tích bằng cách sử dụng máy đếm tế bào dòng chảy FACS LSRFortessa với phần mềm FACS Diva (BD Biosciences). Kết quả được phân tích bằng phần mềm FlowJo (FlowJo; Ashland, OR) và GraphPad Prism (Phần mềm GraphPad; La Jolla, CA). III. KẾT QUẢ Quần thể nghiên cứu Trong quần thể nghiên cứu, độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 19,0 tuổi (1,9 - 55,9 tuổi). Bảy bệnh nhân đã trải qua ghép tế bào gốc tạo máu từ một anh chị em ruột phù hợp HLA và một bệnh nhân từ một người hiến tặng không cùng huyết thống. Thời gian trung bình tái phát bệnh sau ghép là 3,5 tháng (1 – TCNCYH 114 (5) - 2018 135 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 94 tháng). Thời gian trung bình từ khi ghép đến khi truyền tế bào NK là 6,8 tháng (3,9 – 152 tháng). Năm trong số tám bệnh nhân có hóa trị liệu trước khi truyền tế bào NK. Một bệnh nhân với AML ngoại tủy đã trải qua phẫu thuật nhưng vẫn còn bệnh vẫn tại thời điểm nghiên cứu. Một bệnh nhân được điều trị bằng azacytidine sau đó truyền các tế bào lympho của người cho mà không đáp ứng điều trị trước khi tham gia nghiên cứu. Hai bệnh nhân có GVHD ở da tại thời điểm tham gia nghiên cứu nhưng không cần điều trị ức chế miễn dịch toàn thân. Các bệnh nhân còn lại có suy sụp do ức chế miễn dịch toàn thân trước khi tham gia nghiên cứu mà không có bằng chứng về GVHD. Làm giàu tế bào NK Bạch cầu máu ngoại vi đã được thu thập thành công từ tất cả những người cho. Số lượng trung bình của tổng số tế bào có nhân (TNC) thu được là 130 × 108. Hàm lượng tế bào CD3−CD56+ dao động từ 4,7–10% TNC. Sau khi làm giàu, số lượng tế bào CD3+ còn lại chỉ chiếm < 0,1% sản phẩm tế bào trong tất cả các trường hợp. Liều trung bình của tế bào CD3+/ kg người nhận là 2,0 × 103/kg (0,9 – 40 × 103) và CD3−CD56+ tế bào/ kg người nhận là 11 × 106 (4,3 – 22,4 × 106). Tỷ lệ sống của CD3−CD56+ dao động từ 82 - 100%. Đáp ứng, phục hồi bạch cầu trung tính và độc tính Sự sống sót của bệnh nhân được điều trị được biểu diễn trong hình 1A. Ba bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn. Bệnh nhân số 5 và 8 đáp ứng hoàn toàn sau điều trị, tuy nhiên tái phát sau 1,7 và 1,8 tháng sau điều trị. Cả hai bệnh nhân sống sót sau 20,2 tháng ... ào với đáp ứng điều trị tổng thể. Biểu hiện của KIR ức chế không tăng lên ở bệnh nhân thiếu các phối tử tương ứng. Chúng tôi thấy một xu hướng nhỏ có biểu hiện mạnh hơn các KIR2DL2/ 2DL3/ 2DS2 (5% so với 28%, P = 0,03) và LIR1 (8% so với 29%, P = 0,09) ở ngày thứ 14 ở những bệnh nhân có thời gian sống nhiều hơn 6 tháng sau truyền tế bào NK (N = 4) so với những người chết trong vòng 6 tháng sau khi truyền (N = 3). Chức năng hoạt hóa của NK tại thời điểm ban đầu hay số lượng tế bào CD56+ trong máu ngoại vi đều không liên quan đến đáp ứng điều trị. B A Hình 2. Máu ngoại vi được lấy từ bệnh nhân sau truyền tế bào NK nửa thuận hợp. Đánh giá mọc mảnh ghép thể hiện sự hồi phục tế bào tự thân hoặc tế bào gốc tạo máu từ người cho ban đầu trên tất cả các đối tượng TCNCYH 114 (5) - 2018 137 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC (A) Biểu hiện KIR trên các tế bào này là như nhau trong và sau khi truyền IL-2. (B) Tỉ lệ tế bào NK CD3-/CD56+ cũng như trình trạng hoạt động của chúng ổn định sau khi truyền tế bào NK nửa thuận hợp. Tình trạng hoạt hóa của NK được đánh giá qua biểu hiện CD107a và sự giải phóng INF- γ sau 24h ủ cùng với tế bào K562. IV. BÀN LUẬN Trong nghiên này, chúng tôi đánh giá hiệu quả điều trị trên tám bệnh nhân được điều trị bằng cyclophosphamide và tiếp theo là truyền các tế bào NK nửa thuận hợp đối với AML hoặc MDS tái phát sau ghép tế bào gốc tạo máu (HCT). Ở đây chúng tôi chứng minh có đáp ứng tạm thời ở 2 bệnh nhân và phục hồi hình thái của chứng loạn sản ở một người thứ ba. Những kết quả này phù hợp với các báo cáo khác trên những người được điều trị bằng truyền tế bào NK sau khi ghép tế bào gốc tạo máu [25; 26]. Một sự khác biệt quan trọng trong nghiên cứu của chúng tôi là sử dụng tế bào NK nửa thuận hợp HLA sau liệu pháp HCT phù hợp HLA. Mặc dù trải qua quá trình hóa trị suy giảm tế bào dòng tủy, chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào xảy ra GVHD sau khi truyền tế bào NK nửa thuận hợp. Những kết quả này thể hiện tính an toàn của sản phẩm tế bào NK trên các bệnh nhân có nguy cơ cao. Việc làm giàu hai bước thu được một sản phẩm tế bào NK rất tinh khiết với khả năng sống tốt như mô tả ở trên. Chúng tôi có thể đạt được liều tế bào NK cao hơn ở bệnh nhi so với bệnh nhân người lớn. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cho thấy số lượng các tế bào NK truyền lớn hơn sẽ cải thiện tốt hơn hiệu quả điều trị. Các báo cáo sơ bộ về các liệu pháp tế bào NK ở trẻ em cho thấy tỷ lệ đáp ứng tổng thể tốt hơn, có thể là do số lượng tế bào NK truyền cao hơn ở trẻ em; tuy nhiên, xu hướng này không xuất hiện trong các nghiên cứu nhỏ hơn của chúng tôi [27]. Một số nhóm nghiên cứu đang phát triển việc nuôi cấy ex vivo NK bằng cách sử dụng các môi trường nuôi cấy có và không có các tế bào nuôi (feeder cells) [28; 29]. Quan trọng hơn, những bằng chứng gần đây chỉ ra rằng một số phương pháp nuôi cấy ex vivo có thể làm tăng nguy cơ GVHD cấp tính sau khi truyền tế bào NK [32]. Các nghiên cứu tiếp theo đặc biệt là các nghiên cứu so sánh trong tương lai có thể hướng đến đánh giá các sản phẩm tế bào NK tươi so với các tế bào NK được nuôi cấy. Một hạn chế lớn đối với việc truyền tế bào NK là việc khó phát hiện tế bào NK của người cho sau khi truyền, được cho là do sự tồn tại không bền vững in vivo của các tế bào này [33]. Trong nghiên cứu này chúng tôi không phát hiện được các tế bào NK nửa thuận hợp của người cho trong bất kỳ ca bệnh nào. Sự thiếu bền vững của các tế bào NK được truyền có thể do số lượng tế bào truyền chưa đủ, ức chế từ các quần thể tế bào khác như tế bào ức chế T hoặc điều hòa, cạnh tranh cytokine với các quần thể tế bào lympho khác. Chúng tôi không đánh giá cytokine hay chức năng tế bào T điều hòa trong nghiên cứu này tuy nhiên liệu pháp IL-2 có thể làm tăng số lượng của chúng và dẫn đến việc ức chế hoạt động của tế bào NK. Bachanova và các đồng nghiệp gần đây đã báo cáo rằng liệu pháp hướng đến tế bào T-điều hòa với protein tái tổ hợp IL-2/độc tố bạch hầu có thể làm tăng tính bền vững của tế bào NK sau khi truyền [34]. Tuy khả thi, cách tiếp cận này đòi hỏi thận 138 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trọng ở bệnh nhân sau HCT do nguy cơ tạo ra GVHD. Việc sử dụng các cytokine kích hoạt có thể gây GVHD trong bối cảnh các sản phẩm tế bào NK không đồng nhất [32]. Vì vậy, cần thận trọng, đặc biệt với việc sử dụng các sản phẩm tế bào không hòa hợp HLA đã được kích hoạt. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ có thể chứng minh sự an toàn nhưng chưa chứng minh được tính hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này, các tế bào NK có thể được sử dụng như một biện pháp dự phòng chống lại tái phát, một cách tiếp cận gần đây đã mang lại kết quả đầy hứa hẹn cho 16 bệnh nhân nhận tế bào NK sau khi ghép tế bào tạo máu có loại trừ dòng T [26]. Chúng tôi đã kiểm tra kiểu hình và chức năng của các tế bào NK máu sau khi truyền tế bào NK nửa thuận hợp. Nghiên cứu lại cho thấy rằng các tế bào NK nghiên cứu ở đây là người nhận hoặc người cho HCT đồng loài ban đầu, do đó, kết quả này phù hợp với tình trạng kích hoạt do điều trị IL-2 nhưng không phản ánh được chức năng của sản phẩm tế bào truyền. Chúng tôi không thấy bất kỳ xu hướng thay đổi nào trong kiểu hình NK, kể cả đối với KIR, ở những bệnh nhân có hoặc không có đáp ứng với điều trị. Chức năng của tế bào tác động tương đối ổn định theo thời gian và không liên quan đến đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân. Điều thú vị là việc thiếu một phối tử KIR (HLA-C1, C2, hoặc Bw4) ở người nhận không liên quan đến sự phát triển của dòng tế bào KIR+ NK. Cỡ mẫu của chúng tôi còn nhỏ để có thể rút ra kết luận liên quan đến vai trò của việc thiếu phối tử trong việc truyền tế bào NK nửa thuận hợp. Curti và các đồng nghiệp đã điều trị cho 13 bệnh nhân AML với các tế bào NK nửa thuận hợp sau truyền cyclophosphamide và fludara- bine, sử dụng HLA của người nhận và biểu hiện gen KIR để lựa chọn người cho có KIR nhưng người nhận không có phối tử gắn với KIR đó. Một bệnh nhân đã có đáp ứng tạm thời và 3/6 bệnh nhân được điều trị có đáp ứng hoàn toàn và ổn định dài hạn. Những phát hiện này đòi hỏi các nghiên cứu quy mô lớn hơn để chứng minh rằng việc định danh KIR của người cho có thể được sử dụng để tăng hiệu quả của các sản phẩm tế bào NK được truyền hay không. Tóm lại, những kết quả này khẳng định tính an toàn của việc ứng dụng các tế bào NK nửa thuận hợp truyền cho các bệnh lý ác tính dòng tủy tái phát hoặc dai dẳng sau HCT. Các nỗ lực để cải thiện hiệu quả của liệu pháp này cần hướng đến việc chọn lọc người cho để tối đa hóa khả năng phản ứng của tế bào NK, tối ưu thời điểm truyền tế bào NK và các thao tác ex vivo khác để cải thiện số lượng và tình trạng hoạt hóa của NK. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Stern M, de Wreede LC, Brand R, van Biezen A et al (2014). Sensitivity of hemato- logical malignancies to graft-versus-host ef- fects: an EBMT megafile analysis. Leukemia, 28(11), 2235 – 2240. 2. Kolb HJ (2008). Graft-versus-leukemia effects of transplantation and donor lympho- cytes. Blood, 112(12), 4371 – 4383. 3. Barrett AJ, Battiwalla M (2010). Re- lapse after allogeneic stem cell transplanta- tion. Expert review of hematology, 3(4), 429– 441. 4. Porter DL, Alyea EP, Antin JH, De- Lima M et al (2010) NCI First International Workshop on the Biology, Prevention and Treatment of Relapse after Allogeneic Hema- topoietic Stem Cell Transplantation: Report TCNCYH 114 (5) - 2018 139 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC from the Committee on Treatment of Relapse after Allogeneic Hematopoietic Stem Cell Transplantation. Biology of blood and marrow transplantation: journal of the American Soci- ety for Blood and Marrow Transplantation, 16 (11), 1467 – 503. 5. Schmid C, Labopin M, Nagler A, Born- hauser M et al (2007). Donor lymphocyte infu- sion in the treatment of first hematological re- lapse after allogeneic stem-cell transplantation in adults with acute myeloid leukemia: a retro- spective risk factors analysis and comparison with other strategies by the EBMT Acute Leu- kemia Working Party. Journal of clinical oncol- ogy: official journal of the American Society of Clinical Oncology, 25(31), 4938 - 4945. 6. Campregher PV, Gooley T, Scott BL, Moravec C et al (2007). Results of donor lym- phocyte infusions for relapsed myelodysplastic syndrome after hematopoietic cell transplanta- tion. Bone marrow transplantation, 40(10), 965 – 971. 7. Hsu KC, Keever-Taylor CA, Wilton A, Pinto C, Heller G, Arkun K, et al. (2005) Im- proved outcome in HLA-identical sibling hema- topoietic stem-cell transplantation for acute myelogenous leukemia predicted by KIR and HLA genotypes. Blood, 105(12), 878 – 884. 8. Venstrom JM, Pittari G, Gooley TA, Chewning JH et al (2012). HLA-C-dependent prevention of leukemia relapse by donor acti- vating KIR2DS1. The New England journal of medicine, 367(9), 805 – 816. 9. Miller JS, Cooley S, Parham P, Farag SS et al (2007). Missing KIR ligands are asso- ciated with less relapse and increased graft- versus-host disease (GVHD) following unre- lated donor allogeneic HCT. Blood, 109(11), 5058 – 5061. 10. Ruggeri L, Capanni M, Casucci M, Volpi I et al (1999). Role of natural killer cell alloreactivity in HLA-mismatched hematopoi- etic stem cell transplantation. Blood, 94(1), 333 – 339. 11. Ruggeri L, Capanni M, Urbani E, Per- ruccio K et al (2002). Effectiveness of donor natural killer cell alloreactivity in mismatched hematopoietic transplants. Science (New York, NY). 295(5562), 2097 – 2100. 12. Dupont B, Hsu KC (2004). Inhibitory killer Ig-like receptor genes and human leuko- cyte antigen class I ligands in haematopoietic stem cell transplantation. Current opinion in immunology, 16(5), 634 – 43. 13. Kruse PH, Matta J, Ugolini S, Vivier E (2014). Natural cytotoxicity receptors and their ligands. Immunology and cell biology, 92 (3), 221 – 9. 14. Ruggeri L, Mancusi A, Capanni M, Urbani E et al (2007). Donor natural killer cell allorecognition of missing self in haploidentical hematopoietic transplantation for acute mye- loid leukemia: challenging its predictive value. Blood, 110(1), 433 – 440. 15. Bix M, Liao NS, Zijlstra M, Loring J, Jaenisch R, Raulet D (1991). Rejection of class I MHC-deficient haemopoietic cells by irradiated MHC-matched mice. Nature, 349 (6307), 329 – 331. 16. Karre K, Ljunggren HG, Piontek G, Kiessling R (1986). Selective rejection of H-2- deficient lymphoma variants suggests alterna- tive immune defence strategy. Nature, 319 (6055), 675 – 678. 17. Hsu KC, Chida S, Geraghty DE, Du- pont B (2002). The killer cell immunoglobulin- like receptor (KIR) genomic region: gene- order, haplotypes and allelic polymorphism. Immunological reviews, 190, 40 – 52. 18. Raulet DH, Vance RE, McMahon CW. Regulation of the natural killer (2001). cell receptor repertoire. Annual review of im- munology, 19, 291 – 330. 140 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 19. Chewning JH, Gudme CN, Hsu KC, Selvakumar A, Dupont B (2007). KIR2DS1- positive NK cells mediate alloresponse against the C2 HLA-KIR ligand group in vitro. Journal of immunology (Baltimore, Md: 1950), 179(2), 854 – 868. 20. Cheson BD, Bennett JM, Kopecky KJ, Buchner T et al (2003). Revised recom- mendations of the International Working Group for Diagnosis, Standardization of Re- sponse Criteria, Treatment Outcomes, and Reporting Standards for Therapeutic Trials in Acute Myeloid Leukemia. Journal of clinical oncology: official journal of the American Soci- ety of Clinical Oncology, 21(24), 4642 – 4649. 21. Cheson BD, Bennett JM, Kantarjian H, Pinto A et al (2000). Report of an interna- tional working group to standardize response criteria for myelodysplastic syndromes. Blood, 96(12), 3671 – 3674. [PubMed: 11090046] 22. Bryceson YT, March ME, Barber DF, Ljunggren HG, Long EO (2005). Cytolytic granule polarization and degranulation con- trolled by different receptors in resting NK cells. The Journal of experimental medicine. 202(7), 1001 – 12. [PubMed: 16203869] 23. Rubio V, Stuge TB, Singh N, Betts MR et al (2003). Ex vivo identification, isola- tion and analysis of tumor-cytolytic T cells. Nature medicine, 9(11), 1377 - 1382. 24. Wolint P, Betts MR, Koup RA, Oxen- ius A (2004). Immediate cytotoxicity but not degranulation distinguishes effector and mem- ory subsets of CD8+ T cells. The Journal of experimental medicine, 199(7), 925 – 936. [PubMed: 15051762]. 25. Passweg JR, Tichelli A, Meyer- Monard S et al (2004). Purified donor NK- lymphocyte infusion to consolidate engraft- ment after haploidentical stem cell transplanta- tion. Leukemia, 18(11), 1835 – 1838. [PubMed: 15457184]. 26. Stern M, Passweg JR, Meyer-Monard S, Esser R et al (2013). Pre-emptive immuno- therapy with purified natural killer cells after haploidentical SCT: a prospective phase II study in two centers. Bone marrow transplan- tation, 48(3), 433 – 438. [PubMed: 22941380] 27. Koehl U, Sorensen J, Esser R, Zimmermann S et al (2004). IL-2 activated NK cell immunotherapy of three children after haploidentical stem cell transplantation. Blood cells, molecules & diseases. 33(3), 261 – 266. 28. Fujisaki H, Kakuda H, Shimasaki N, Imai C et al (2009). Expansion of highly cyto- toxic human natural killer cells for cancer cell therapy. Cancer research, 69(9), 4010 – 4017. 29. Denman CJ, Senyukov VV, Soman- chi SS, Phatarpekar PV et al (2012). Mem- brane-bound IL-21 promotes sustained ex vivo proliferation of human natural killer cells. PloS one, 7(1), e30264. 30. Lim SA, Kim TJ, Lee JE, Sonn CH et al (2013). Ex vivo expansion of highly cyto- toxic human NK cells by cocultivation with irra- diated tumor cells for adoptive immunother- apy. Cancer research, 73(8), 2598 – 2607. 31. Berg M, Lundqvist A, McCoy P Jr, Samsel L et al (2009). Clinical-grade ex vivo- expanded human natural killer cells up- regulate activating receptors and death recep- tor ligands and have enhanced cytolytic activ- ity against tumor cells. Cytotherapy, 11(3), 341 – 355. 32. Shah NN, Baird K, Delbrook CP, Flei- sher TA et al (2015). Acute GVHD in patients receiving IL-15/4-1BBL activated NK cells fol- lowing T-cell-depleted stem cell transplanta- tion. Blood, 125(5), 784 - 92. 33. Bachanova V, Burns LJ, McKenna DH, Curtsinger J et al (2010). Allogeneic TCNCYH 114 (5) - 2018 141 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC natural killer cells for refractory lymphoma. Cancer immunology, immunotherapy: CII. 2010; 59(11), 1739 – 1744. 34. Bachanova V, Cooley S, Defor TE, Verneris MR et al (2014). Clearance of acute myeloid leukemia by haploidentical natural killer cells is improved using IL-2 diphtheria toxin fusion protein, 19, 3855 – 3863.
File đính kèm:
thu_nghiem_lam_sang_pha_ii_truyen_te_bao_diet_tu_nhien_nua_t.pdf

