Thông báo lâm sàng: gây mê cho người sống hiến thuỳ phổi đầu tiên tại Việt Nam
TÓM TẮT
Ngày 21 - 2 - 2017, ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam được thực hiện
thành công tại Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y. Phổi hiến lấy từ thuỳ dưới phổi trái của
bác và thuỳ dưới phổi phải của bố ghép cho bệnh nhi 7 tuổi được chẩn đoán giãn phế quản
bẩm sinh lan tỏa, biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn, suy dinh dưỡng độ III, có chỉ định ghép
phổi. Hai bệnh nhân hiến phổi được gây mê nội khí quản hai nòng, thông khí một phổi trong
quá trình phẫu thuật. Hoá giải giãn cơ bằng sugammadex khi kết thúc phẫu thuật, rút ống nội
khí quản tại phòng mổ. Kiểm soát đau sau mổ đường ngoài màng cứng ngực và 2 bệnh nhân
đều hồi phục tốt sau mổ.
Bạn đang xem tài liệu "Thông báo lâm sàng: gây mê cho người sống hiến thuỳ phổi đầu tiên tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thông báo lâm sàng: gây mê cho người sống hiến thuỳ phổi đầu tiên tại Việt Nam
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 114 THÔNG BÁO LÂM SÀNG: GÂY MÊ CHO NGƯỜI SỐNG HIẾN THUỲ PHỔI ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM Đỗ Quyết*; Nguyễn Trường Giang*; Trần Viết Tiến*; Hoàng Văn Chương* Trần Đắc Tiệp*; Võ Văn Hiển*; Tạ Bá Thắng*; Đào Thị Khánh*; Nguyễn Trung Kiên* TÓM TẮT Ngày 21 - 2 - 2017, ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam được thực hiện thành công tại Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y. Phổi hiến lấy từ thuỳ dưới phổi trái của bác và thuỳ dưới phổi phải của bố ghép cho bệnh nhi 7 tuổi được chẩn đoán giãn phế quản bẩm sinh lan tỏa, biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn, suy dinh dưỡng độ III, có chỉ định ghép phổi. Hai bệnh nhân hiến phổi được gây mê nội khí quản hai nòng, thông khí một phổi trong quá trình phẫu thuật. Hoá giải giãn cơ bằng sugammadex khi kết thúc phẫu thuật, rút ống nội khí quản tại phòng mổ. Kiểm soát đau sau mổ đường ngoài màng cứng ngực và 2 bệnh nhân đều hồi phục tốt sau mổ. * Từ khoá: Gây mê cắt thuỳ phổi từ người cho sống; Thông khí một phổi; Sugammadex; Giảm đau ngoài màng cứng ngực. Case Report: Anesthesia for the First Living Donor Lobar Lung in Vietnam Summary The first bilateral living donor lobar lung transplantation was performed successfully in 103 Military Hospital, Vietnam Military Medical University on February 21, 2017. Living donor lobar lung came from his uncle’s left lower lobar and his father’s right lower lobar in order to implant to 7 years old patient who was diagnosed diffuse congenital bronchiectasis with respiratory failure, chronic cor-pulmonal, severe malnutrition. Donors were performed general anesthesia with double lumen tracheal tube and one lung ventilation during surgery. Neuromuscular was reversed by sugammadex then extubated at the end of surgeries in operating room. Postoperative pain was managed by thoracic epidural anesthesia and both of them got well recover after surgery. * Keywords: Anesthesia for living-donor lobar lung; One lung ventilation; Sugammadex; Thoracic epidural analgesia. ĐẶT VẤN ĐỀ Ca ghép phổi đầu tiên thực hiện tại Đại học Mississipi năm 1963 cho bệnh nhân (BN) nam 58 tuổi bị ung thư phế quản gốc trái đã đánh dấu bước tiến vượt bậc của nền y học thế giới dù BN chỉ sống được 18 ngày sau ghép. Ghép thuỳ phổi từ hai người cho sống đầu tiên được thực hiện thành công tại Nhật Bản năm 1998 ở BN nữ 24 tuổi * Học viện Quân y ** Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Trung Kiên (drkien103103@gmail.com) Ngày nhận bài: 16/05/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/06/2018 Ngày bài báo được đăng: 25/06/2018 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 115 từ nguồn cho từ thùy dưới phổi trái của mẹ và thùy dưới phổi phải của chị gái. BN xuất viện sau ghép 61 ngày và trở lại cuộc sống bình thường, thể trạng tốt, dung tích sống đạt 1,77 lít [10]. Thành công này mở ra một hướng mới giúp tăng số lượng BN được ghép phổi từ người cho sống. Hiện nay, ghép phổi đã được chấp nhận rộng rãi, là phương pháp điều trị cho một số bệnh lý phổi giai đoạn cuối. Một trong những điều người hiến thuỳ phổi quan tâm là đau sau mổ và quá trình bình phục như thế nào. Những tiến bộ trong phẫu thuật lồng ngực cũng như gây mê hồi sức (GMHS) đã có đóng góp tích cực điều trị phát triển ghép phổi [5]. Thành công từ ca ghép hai thùy phổi đầu tiên từ người cho sống ngày 21 - 2 - 2017 đánh dấu sự phát triển của Y học Việt Nam. GMHS không những phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phẫu thuật lấy thuỳ phổi hiến mà còn giúp người hiến thuỳ phổi nhanh bình phục về thể chất và tinh thần sau phẫu thuật. Mục tiêu bài báo: Phân tích về phương diện GMHS trong quá trình lấy phổi đảm bảo chất lượng thùy phổi hiến, cũng như tăng cường hồi phục sau mổ của người hiến thuỳ phổi. GIỚI THIỆU VỀ QUY TRÌNH HIẾN PHỔI TỪ NGƯỜI SỐNG KHỎE MẠNH VÀ KẾT QUẢ 1. Chuẩn bị BN trước hiến phổi. BN là người cho sống khỏe mạnh, được khám chuyên khoa tim mạch, hô hấp, hoàn thành các xét nghiệm thường quy, xét nghiệm miễn dịch và đo chức năng hô hấp chuẩn bị trước hiến theo quy định, có kết luận đủ tiêu chuẩn hiến thuỳ phổi. Quá trình chuẩn bị trước mổ, BN được giải thích về phẫu thuật lấy thuỳ phổi có nội soi hỗ trợ, chống đau và bình phục sau mổ. Catheter ngoài màng cứng ngực kiểm soát đau sau mổ được đặt từ chiều hôm trước mổ tại Khoa Điều trị Tích cực. * Tiến hành đặt catheter ngoài màng cứng ngực: - BN được giải thích về kỹ thuật đặt catheter ngoài màng cứng ngực. - Lắp monitoring theo dõi mạch, ECG, Sp02, huyết áp không xâm lấn mỗi 2 phút, đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại vi truyền dịch tinh thể. - Tiến hành kỹ thuật: + BN nằm trên giường, tư thế nghiêng trái, đầu cúi sát vào ngực, hai chân co, đùi gập sát vào bụng. Sát trùng da vùng lưng bằng betadin 10% ba lần. + Tê tại chỗ vùng chọc kim T6 - T7 bằng lidocain 2%. + Chọc kim Touhy qua da, tổ chức dưới da, dây chằng vàng, xác định kim Touhy đã vào khoang ngoài màng cứng bằng nghiệm pháp “mất sức cản”. + Luồn catheter vào khoang ngoài màng cứng và cố định ở vạch 5 cm. + Thử test 3 ml lidocain 1,5% + adrenalin 1/200.000 để khẳng định đầu catheter không nằm trong mạch máu hoặc trong khoang dưới nhện. Cố định catheter bằng opsite. Chuyển BN về tư thế nằm ngửa. 2. Gây mê. * Chuẩn bị trước khi khởi mê: BN ở tư thế nằm ngửa trên bàn mổ, cho thở oxy 100% 4 l/phút. Theo dõi điện tim, huyết áp không xâm nhập, SpO2, EtCO2 qua monitor Nihon Kohden, theo dõi độ mê BIS qua điện cực trán, đo độ giãn cơ T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 116 TOF-watch tay cùng bên với thùy phổi hiến, đo thân nhiệt ngoại vi. Làm ấm bằng máy thổi hơi ấm, bao chân phòng chống huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới. Đặt tĩnh mạch ngoại vi tay đối diện thùy phổi hiến bằng kim 18G truyền dung dịch natri clorua 0,9%. * Khởi mê: - Khởi mê bằng propofol nồng độ đích tại não (Ce) 4,0 mcg/ml, fentanyl 4 mcg/kg, rocuronium 1 mg/kg. Khi đạt hiệu quả giãn cơ tối đa (TOF bằng 0), đặt ống nội khí quản (NKQ) 2 nòng Robert shaw nhánh (T) cỡ 37F. Tay phải dùng ngón trỏ và ngón cái mở miệng BN, tay trái đưa đèn NKQ nhẹ nhàng vào khoang miệng, tiến về phía trước gạt lưỡi sang bên trái. Nâng lưỡi đèn theo hướng chếch 45º, điều chỉnh lưỡi đèn để quan sát rõ lỗ thanh môn. - Tay phải cầm ống NKQ 2 nòng nhẹ nhàng đưa ống qua lỗ thanh môn vào khí quản từ vị trí 3 giờ. Khi đầu ống đi qua hai dây thanh âm thì xoay ống NKQ ngược chiều kim đồng hồ một góc 90o về vị trí 12 giờ. - Rút nòng kim loại, đẩy ống NKQ vào sâu trong phế quản đến khi thấy lực cản nhẹ thì dừng lại. - Bơm hai bóng chèn, nối 2 nòng ống NKQ với máy thở qua chạc ba chữ Y, quan sát thán đồ và áp lực đường thở, nghe phổi kiểm tra thông khí. - Kiểm tra vị trí của ống NKQ 2 nòng bằng ống nội soi phế quản sợi mềm. Cố định ống NKQ bằng băng dính, lắp đầu nối ống NKQ với dây thở. Thông khí hai phổi qua máy thở Datex Omeha Advance chế độ kiểm soát thể tích với Vt = 10 ml/kg; tần số thở 12 chu kỳ/phút; tỷ lệ I:E = 1:2. - Đặt catheter động mạch quay ở tay đối diện với bên lấy thùy phổi, theo dõi huyết áp động mạch xâm nhập. Đặt thêm đường truyền tĩnh mạch ngoại vi. - Chuyển tư thế BN nghiêng phải 900 (đối với BN hiến thùy phổi trái) và nghiêng trái 900 (đối với BN hiến thùy dưới phổi phải). Kiểm tra lại vị trí của ống NKQ bằng ống nội soi mềm trước khi rạch da phẫu thuật. * Duy trì mê: - Duy trì mê bằng propofol qua máy truyền kiểm soát nồng độ đích tại não (Ce) điều chỉnh 3 - 5 mcg/ml để duy trì độ mê BIS từ 50 - 70; truyền liên tục tĩnh mạch qua bơm tiêm điện fentanyl 2 mcg/kg/giờ; rocuronium nhắc lại 0,5 mg/kg khi TOF ≥ 2 twitch. - Tiêm liều đầu khoang ngoài màng cứng 5 ml ropivacain 0,2%, sau đó truyền liên tục 4 ml/giờ qua catheter ngoài màng cứng đã được đặt hôm trước mổ. - Duy trì thở máy mode A/C khi thông khí hai phổi. - Giai đoạn thông khí một phổi: kẹp nhánh trái của ống NKQ để ngừng thông khí phổi trái (đối với BN lấy thùy dưới phổi trái) hoặc nhánh chung để ngừng thông khí phổi phải (đối với BN lấy thùy dưới phổi phải), làm xẹp phổi khi đưa trocar vào khoang màng phổi. Tăng tần số thở lên 16 lần/phút, giảm Vt xuống 7 ml/kg, điều chỉnh thông khí dựa vào giá trị EtCO2 và kết quả xét nghiệm khí máu động mạch: EtCO2 trong phạm vi 35 - 40 mmHg, PaCO2 từ 40 - 45 mmHg. - Lấy thùy phổi ghép: + Tiêm tĩnh mạch solumedron 500 mg; heparin 6.000 UI trước khi kẹp cắt động mạch phổi, kiểm tra ACT đạt giá trị trên 200 giây. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 117 + Phẫu thuật viên tiến hành giải phóng và khống chế động mạch, tĩnh mạch phổi, khí quản và tiến hành cắt thùy phổi. Thuỳ phổi được lấy ra đặt trên bàn rửa phổi (backtable), vận chuyển sang phòng mổ ghép để rửa phổi theo quy trình trước khi ghép vào người nhận. + Tiếp tục cầm máu các vết khâu, đặt dẫn lưu dịch màng phổi. + Trung hòa heparin bằng protamin 6.000 UI (tỷ lệ 1:1). Kiểm tra giá trị ACT sau khi trung hòa 110 giây. - Giai đoạn thông khí hai phổi trở lại: hút sạch dịch tiết, dịch máu trong phế quản trước khi bóp bóng thông khí làm nở phổi trở lại. Bóp bóng từ từ để làm nở phổi, kiểm tra có rò khí ở mỏm phế quản không. Sau khi khẳng định không có rò khí, đặt dẫn lưu khoang màng phổi, chuyển sang thông khí qua máy chế độ A/C, đóng vết mổ, băng vô khuẩn, chuyển BN về tư thế nằm ngửa. Ngừng thuốc mê và thuốc giảm đau đường tĩnh mạch. * Kết thúc phẫu thuật, chuyển BN về Khoa Hồi sức Tích cực: - Chụp C-arm lồng ngực thấy phổi hai bên nở tốt, các dẫn lưu đúng vị trí. - Hoá giải giãn cơ bằng sugammadex 4 mg/kg tiêm tĩnh mạch. Sau khi ngừng thuốc mê và trung hòa giãn cơ bằng sugammadex, BN tỉnh táo, tự thở thỏa đáng qua ống NKQ Vt > 5 ml/kg, kiểm tra sức cơ bằng cách yêu cầu BN nắm tay chặt, đáp ứng tốt: TOF > 90%. Hút sạch dịch tiết trong ống NKQ và miệng BN trước khi rút ống NKQ. - 2 BN hiến thuỳ phổi đều được rút ống NKQ sau gây mê thuận lợi. Sau rút ống NKQ, BN tỉnh táo, đáp ứng tốt theo mệnh lệnh, tự thở thỏa đáng tần số thở 16 - 18 lần/phút, thở O2 100% 4 l/phút qua mũi, SpO2 99 - 100%. - Trong quá trình phẫu thuật, huyết động và thông khí được duy trì ổn định; các thông số mạch, ECG, huyết áp, SpO2 duy trì trong giới hạn bình thường, không có diễn biến bất thường nào trong quá trình gây mê phẫu thuật. - Chuyển BN về Khoa Hồi sức Tích cực tiếp tục theo dõi, duy trì giảm đau sau mổ bằng truyền liên tục ngoài màng cứng ngực ropivacain 0,2% + fentanyl 2 mcg/ml tốc độ 3 - 5 ml/giờ, kết hợp perfalgan truyền tĩnh mạch sáng 1 g, chiều 1 g. Mức độ đau được đánh giá theo thang điểm VAS trong phạm vi 0 - 2 trong 72 giờ sau phẫu thuật. Rút catheter ngoài màng cứng sau mổ 72 giờ. BÀN LUẬN Phẫu thuật lấy thuỳ phổi ở người hiến thực chất là phẫu thuật cắt thuỳ phổi ở người khoẻ mạnh. Để có kết quả tốt, ngoài yếu tố động viên giải thích kỹ cho người hiến từ trước mổ, cần đặt biệt lưu tâm về thông khí một phổi, hoá giải giãn cơ, cũng như kiểm soát đau sau mổ. Đây là các nội dung vừa đảm bảo an toàn trong gây mê phẫu thuật lấy thuỳ phổi, vừa giúp tăng cường hồi phục nhanh sau mổ hiến thuỳ phổi. 1. Kiểm soát huyết động và hô hấp trong thông khí một phổi. Phẫu thuật cắt thùy phổi là một trong những phẫu thuật có nguy cơ cao do can thiệp liên quan trực tiếp đến hai chức năng sống quan trọng là hô hấp và tuần hoàn. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 118 Trong phẫu thuật cắt thuỳ phổi, BN ở tư thế nằm nghiêng sang bên để tạo thuận lợi cho phẫu thuật. Phổi ở dưới (phổi phụ thuộc) được tưới máu nhiều hơn do trọng lực và phổi ở trên (phổi không phụ thuộc) có độ đàn hồi hơn và dễ thông khí hơn gây ra shunt phổi. Cơ chế co mạch phổi do thiếu oxy vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ, có thể là đáp ứng trực tiếp với hạ oxy máu tĩnh mạch trộn và phế nang, hoặc giải phóng ra các chất có hoạt tính co mạch trong khi thiếu oxy gây ra co mạch máu phổi. Thay đổi thông khí khi thông khí một phổi ở tư thế nằm nghiêng góp phần gây ra các vấn đề về đảm bảo oxy. Giãn nở phổi bị hạn chế do trọng lực của trung thất, cơ hoành hạn chế di chuyển, một bên thành ngực không di động. Điều này dẫn tới xẹp phổi bên phổi phụ thuộc, giảm bề mặt phổi được thông khí. Kết quả là co mạch phổi do thiếu oxy, tăng sức cản mạch máu ở phổi phụ thuộc và dòng máu tới phổi không phụ thuộc nhiều hơn. Hơn nữa, tăng áp lực thông khí và thể tích của phổi phụ thuộc cản trở tưới máu, dẫn tới tăng tưới máu phổi không phụ thuộc và tăng shunt tĩnh mạch. Cuối cùng, thông khí kém sẽ dẫn tới tổn thương phổi. Thông khí giảm, tưới máu tăng ở phổi phụ thuộc, lưu lượng dòng máu phổi chiếm 80%. Ngược lại, phổi không phụ thuộc thông khí tăng, tưới máu giảm, chiếm 20% lưu lượng máu phổi [8]. Trong 2 BN phẫu thuật lấy thuỳ phổi hiến trên, chúng tôi sử dụng chế độ thông khí kiểm soát thể tích, thể tích khí lưu thông tương đối thấp (7 ml/kg khi thông khí một phổi) để hạn chế tổn thương áp lực. Đồng thời xét nghiệm khí máu động mạch 15 phút/lần tại phòng mổ để xác định PaCO2, pH nhằm điều chỉnh kịp thời ngay trong mổ. Cả 2 BN đều tự dung nạp tốt trong quá trình thông khí một phổi, SpO2 luôn duy trì ở mức 100%, EtCO2 dao động trong khoảng 30 - 40 mmHg, các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường trong suốt cuộc mổ. 2. Hoá giải giãn cơ bằng sugammadex khi kết thúc cuộc mổ. Sử dụng thuốc giãn cơ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật. Hoá giải giãn cơ không tốt có nguy cơ tái giãn cơ sau mổ, BN thông khí tự chủ chưa thoả đáng, dễ xẹp phổi và gây ra các biến chứng hô hấp sau mổ phổi. Rocuronium là thuốc giãn cơ không khử cực nhóm aminosteroid có tác dụng phong bế thần kinh cơ tốt, hiệu quả tác dụng nhanh, được đưa vào thực hành lâm sàng từ những năm 90 của thế kỷ XX [4]. Có thể sử dụng neostigmin hoá giải giãn cơ nhờ ức chế acetylcholinesterase làm tăng nồng độ acetylcholin tại bản vận động. Nghiên cứu quan sát tiến cứu trên 3.000 BN hóa giải với neostigmin tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (Mỹ) cho thấy liều cao của neostigmin làm kéo dài thời gian ra khỏi phòng hồi tỉnh và kéo dài thời gian nằm viện sau mổ. Ngoài ra, việc sử dụng neostigmin mà không theo dõi độ giãn cơ là một yếu tố nguy cơ độc lập của phù phổi và phải đặt lại ống NKQ [9]. Hiện nay, sugammadex là thuốc hoá giải giãn cơ hiệu quả của rocuronium. Đây là một cyclodextrin gama biến đổi có tác dụng gắn kết chọn lọc với phân tử thuốc giãn cơ (rocuronium, veccuronium) trong huyết tương để tạo thành một phức hợp rất chặt chẽ ở tỷ lệ 1:1 [3, 6]. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 119 Một nghiên cứu đa trung tâm đánh giá hiệu quả và sự an toàn của sugammadex trên BN có bệnh lý hô hấp (n = 77) cho thấy với liều sugammadex 2 mg/kg hóa giải nhanh, hoàn toàn và hiệu quả trên cả BN có bệnh lý hô hấp [1]. Đối với cả 2 BN trên, chúng tôi tiến hành hóa giải giãn cơ rocuronium bằng sugammadex 2 mg/kg cho hiệu quả tốt. Sau khi tiêm 4 phút, giá trị TOF của cả 2 BN đều đạt 100%. BN được rút ống NKQ nòng đôi ngay sau phẫu thuật trong tình trạng thở tốt, Sp02 luôn duy trì ở mức 99 - 100% mà không cần đổi sang ống NKQ nòng đơn. 3. Giảm đau sau phẫu thuật qua catheter ngoài màng cứng ngực. Phẫu thuật lồng ngực được coi là phẫu thuật gây đau nhiều nhất ảnh hưởng tới thông khí và quá trình hồi phục của BN sau mổ. Gây tê ngoài màng cứng được coi như “tiêu chuẩn vàng” để giảm đau sau phẫu thuật lớn ở ngực, bụng chi dưới, phẫu thuật chỉnh hình và mạch máu so với sử dụng opioid toàn thân. Giảm đau đường ngoài màng cứng còn làm giảm tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật ở BN nguy cơ cao và cải thiện kết quả phẫu thuật. Giảm đau đường ngoài màng cứng bằng thuốc tê từ trước, trong và sau phẫu thuật có khả năng làm giảm đáp ứng sinh lý với phẫu thuật và làm giảm tỷ lệ biến chứng so với giảm đau bằng opioid đường toàn thân nhờ ngăn chặn phản xạ ức chế cơ hoành [2]. Giảm đau đường ngoài màng cứng bằng thuốc tê ngăn chặn phản xạ ức chế cơ hoành nhờ chặn đường dẫn truyền hướng tâm, do đó làm tăng hiệu quả thông khí phổi sau mổ, giảm dung tích cặn chức năng (FRC), giảm tỷ lệ thuyên tắc phổi và các biến chứng tim mạch, hồi phục nhanh nhu động ruột, đồng thời cải thiện chức năng cơ tim [7, 11]. Giảm đau ngoài màng cứng bằng thuốc tê phối hợp opioid với liều lượng thích hợp giúp tăng hiệu quả và kéo dài thời gian giảm đau, không liên quan đến hạ huyết áp, nôn hay buồn nôn. Trong hai ca hiến thuỳ phổi trên, tối ưu hoá giảm đau trong và sau mổ bằng dung dịch ropivacain 0,2% phối hợp fentanyl 2 mcg/ml dung dịch. Sử dụng dung dịch thuốc tê tiêm khoang ngoài màng cứng ngực để giảm đau phối hợp từ trong mổ nhằm ngăn chặn phản xạ ức chế cơ hoành. Hơn nữa, BN còn được dùng phối hợp perfalgan 2 g/ngày để tăng hiệu quả của giảm đau đa mô thức. Nhờ hiệu quả giảm đau tốt, điểm VAS luôn ở mức 1 - 3, cả 2 BN đều tham gia tập thở lý liệu pháp tốt nên phục hồi nhanh sau mổ. KẾT LUẬN Gây mê hồi sức cho BN hiến thuỳ phổi từ người cho sống thành công góp phần vào thành công cho ca ghép phổi đầu tiên tại Việt Nam. Ngoài các vấn đề về hoà hợp miễn dịch, chuẩn bị trước mổ, quá trình GMHS cần đặc biệt lưu ý tới thông khí một phổi, sử dụng thuốc hoá giải giãn cơ và kiểm soát tốt đau sau mổ đường ngoài màng cứng ngực nhằm tăng cường hồi phục sau mổ cho người sống hiến thuỳ phổi. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Amao R et al. Use of sugammadex in patients with a history of pulmonary disease. J Clin Anesth. 2012, 24 (4), pp.289-297. 2. Ballantyne J.C et al. The comparative effects of postoperative analgesic therapies on pulmonary outcome: Cumulative meta- analysis of randomized, controlled trials. Anesth Analg. 1998, 86 (3), pp.598-612. 3. Bruintjes M et al. Deep neuromuscular block to optimize surgical space conditions during laparoscopic surgery: A systematic review and meta-analysis. British Journal of Anaesthesia. 2017, 118 (6), pp.834-842. 4. Castro D.S. Jr et al. Sugammadex reduces postoperative pain after laparoscopic bariatric surgery: A randomized trial. Surg Laparosc Endosc Percutan Tech. 2014, 24 (5), pp.420-423. 5. Date H. Update on living donor lobar lung transplantation. Curr Opin Organ Transplant. 2011, 16 (5), pp.453-457. 6. Madsen M.V et al. Deep neuromuscular blockade and low insufflation pressure during laparoscopic hysterectomy. Dan Med J. 2017, 64 (5). 7. Pansard J.L et al. Effects of thoracic extradural block on diaphragmatic electrical activity and contractility after upper abdominal surgery. Anesthesiology. 1993, 78 (1), pp.63-71. 8. Rippin B.D, S Kritzinger. One lung ventilation anaesthesia tutorial of the week 145. World Federation of Societies of Anaesthesiologists. 2009, pp.1-6. One lung ventilation.pdf(ATOTW 145). 9. Sasaki N et al. Effects of neostigmine reversal of nondepolarizing neuromuscular blocking agents on postoperative respiratory outcomes: A prospective study. Anesthesiology. 2014, 121 (5), pp.959-968. 10. Shimizu N et al. First successful bilateral living-donor lobar lung transplantation in Japan. Nihon Geka Gakkai Zasshi. 1999, 100 (12), pp.806-814. 11. Tuman K.J et al. Effects of epidural anesthesia and analgesia on coagulation and outcome after major vascular surgery. Anesthesia and Analgesia. 1991, 73 (6), pp.696-704.
File đính kèm:
- thong_bao_lam_sang_gay_me_cho_nguoi_song_hien_thuy_phoi_dau.pdf