Thiếu hụt vitamin D và kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa

Vitamin D là một trong các dưỡng chất

thiết yếu để duy trì sức khỏe con người, là

một thành viên của gia đình hormon, nó có

một vai trò kinh điển trong điều hòa chuyển

hóa calci và thêm vai trò mới trong ảnh

hưởng đến tăng sinh và biệt hóa tế bào. Với

việc tìm thấy các thụ thể vitamin D trong hầu

hết tất cả các mô và phát hiện gần đây của

hàng nghìn thụ thể vitamin D gắn với bộ gen

kiểm soát hàng trăm gen. Sự quan tâm đến

vitamin D và tác động của nó đối với nhiều

quá trình sinh học đã được chứng minh bằng

hàng nghìn ấn phẩm mỗi năm trong nhiều

năm qua. Tác dụng của vitamin D bao gồm

giải độc hóa chất, giảm stress oxy hóa, chức

năng bảo vệ thần kinh, tính kháng khuẩn, điều

hòa miễn dịch, tác dụng chống viêm, chống

ung thư và lợi ích tim mạch.Hội chứng

chuyển hóa là một tập hợp của các yếu tố

nguy cơ chuyển hóa tim, có khuynh hướng

nhóm lại với nhau ở các đối tượng bị ảnh

hưởng hơn là dự đoán một cách tình cờ.

pdf 15 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thiếu hụt vitamin D và kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiếu hụt vitamin D và kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa

Thiếu hụt vitamin D và kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
23 
THIẾU HỤT VITAMIN D VÀ KHÁNG INSULIN 
TRONG HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA 
Nguyễn Trọng Nghĩa, 
Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, 
chuyên ngành Nội khoa 
SUMMARY 
Vitamin D deficiency and insulin resistance 
in metabolic syndrome 
Vitamin D is one of the essential nutrients 
to sustain the human health. As a member of 
the steroid hormone family, it has a classic 
role in regulating metabolism of calcium and 
a non-classic role in affecting cell 
proliferation and differentiation. With the 
finding of the vitamin D receptor in nearly 
every tissue and the more recent discovery of 
thousands of vitamin D receptor binding sites 
throughout the genome controlling hundreds 
of genes, the interest in vitamin D and its 
impact on multiple biologic. Therefore, 
vitamin D has many effects include 
xenobiotic detoxification, oxidative stress 
reduction, neuroprotective functions, 
antimicrobial defense, immunoregulation, 
anti-inflammatory, anticancer actions, and 
cardiovascular benefits.The metabolic 
syndrome is a constellation of 
cardiometabolic risk factors that tend to 
cluster together in affected individuals more 
often than predicted by chance.The presence 
of the metabolic syndrome substantially 
increases the risk of developing type 2 
diabetes and cardiovascular disease, and is 
associated with a range of adverse clinical 
outcomes, many of which are closely 
associated with aging.Excess energy stores in 
the adipose tissue and other organs as lipids, 
promoting lipotoxicity and metabolic 
inflammation, activating intracellular protein 
kinases to impair insulin signaling 
components, and resulting in insulin 
resistance. Insulin resistance is the key 
etiologic defect that defines metabolic 
syndrome, a group of interrelated disorders, 
including obesity, hyperglycemia, 
dyslipidemia, and hypertension. This review 
focuses on the association between 
hypovitaminosis D and the development of 
metabolic syndrome through its effects on 
insulin resistance in metabolic syndrome. 
TÓM TẮT 
Vitamin D là một trong các dưỡng chất 
thiết yếu để duy trì sức khỏe con người, là 
một thành viên của gia đình hormon, nó có 
một vai trò kinh điển trong điều hòa chuyển 
hóa calci và thêm vai trò mới trong ảnh 
hưởng đến tăng sinh và biệt hóa tế bào. Với 
việc tìm thấy các thụ thể vitamin D trong hầu 
hết tất cả các mô và phát hiện gần đây của 
hàng nghìn thụ thể vitamin D gắn với bộ gen 
kiểm soát hàng trăm gen. Sự quan tâm đến 
vitamin D và tác động của nó đối với nhiều 
quá trình sinh học đã được chứng minh bằng 
hàng nghìn ấn phẩm mỗi năm trong nhiều 
năm qua. Tác dụng của vitamin D bao gồm 
giải độc hóa chất, giảm stress oxy hóa, chức 
năng bảo vệ thần kinh, tính kháng khuẩn, điều 
hòa miễn dịch, tác dụng chống viêm, chống 
ung thư và lợi ích tim mạch.Hội chứng 
chuyển hóa là một tập hợp của các yếu tố 
nguy cơ chuyển hóa tim, có khuynh hướng 
nhóm lại với nhau ở các đối tượng bị ảnh 
hưởng hơn là dự đoán một cách tình cờ. Sự 
hiện diện của hội chứng chuyển hóa làm tăng 
đáng kể nguy cơ xuất hiện đái tháo đường típ 
2 và bệnh tim mạch, từ đó liên quan chặt chẽ 
đến quá trình lão hóa và một loạt các kết cục 
xấu.Năng lượng được dự trữ quá mức trong 
mô mỡ và các cơ quan khác dưới dạng lipid, 
dễ gây ngộ độc lipid và tình trạng viêm do 
chuyển hóa, từ đó hoạt hóa các protein kinase 
trong tế bào và gây tổn thương các thành phần 
tín hiệu của insulin, và hậu quả là gây đề 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
24 
kháng insulin. Sự đề kháng insulin là nguyên 
nhân chủ yếu gây hội chứng chuyển hóa, một 
nhóm các rối loạn có mối tương quan với 
nhau, bao gồm béo phì, tăng glucose máu, rối 
loạn lipid máu và tăng huyết áp. Tổng quan 
này tập trung vào mối liên quan giữa giảm 
vitamin D và sự phát triển của hội chứng 
chuyển hóa thông qua ảnh hưởng của nó đối 
với kháng insulin trong hội chứng chuyển 
hóa. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Trọng 
Nghĩa 
Ngày nhận bài: 12/11/2019 
Ngày duyệt bài: 31/12/2019 
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ VITAMIN D 
1.1. Sự điều hòa tổng hợp và chuyển hóa 
vitamin D 
Vitamin D là chất mô tả chung cho tất cả các 
steroid mang hoạt tính sinh học của 
cholecalciferol, gồm 2 loại: Vitamin D2 là dẫn 
xuất của ergocalciferol, có hoạt tính với cấu trúc 
9-carbon, chuỗi bên không bão hòa đơn, được 
sản xuất tổng hợp bởi sự quang phân của các 
sterol thực vật. Vitamin D3 là dẫn xuất của 
cholecalciferol, có hoạt tính với cấu trúc 8- 
carbon, chuỗi bên bão hòa, được sản xuất 
chuyển hóa thông qua quá trình quang phân tự 
nhiên của 7-dehydrocholesterol trên bề mặt của 
da tiếp xúc với tia cực tím như ánh nắng mặt 
trời [8]. 
Dưới tác dụng của tia cực tím (bước 
sóng290-315 nm), 7-dehydrocholesterol được 
chuyển đổi thành tiền vitamin D trong da, 
ngay lập tức được biến đổi thành vitamin D3 
bởi quá trình quang phân. Cả vitamin D2 và 
vitamin D3 có nguồn gốc từ sự tổng hợp 
trong da và chế độ ăn uống được vận chuyển 
bởi protein liên kết vitamin D (VDBP: 
Vitamin D binding protein) theo dòng máu 
hoặc được lưu trữ trong tế bào mỡ và sau đó 
giải phóng vào tuần hoàn. Bước tiếp theo của 
quá trình chuyển hóa vitamin D bao gồm hai 
phản ứng hydroxyl hóa enzym liên tiếp dẫn 
đến hoạt hóa vitamin D. Bước đầu tiên của 
hoạt hóa vitamin D là sự hình thành 25-OH-D 
trong gan bởi vitamin D-25-hydroxylase, là 
một loại enzym cytochrom P450, (chủ yếu là 
CYP2R1). Kế tiếp, 1,25-(OH)2-D (calcitriol, 
chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học của 
vitamin D) hình thành do kết quả của quá 
trình hydroxyl hóa 25-OH-D được thực hiện 
bởi 25-OH-D-1α-hydroxylase (CYP27B1). 
Enzym này không chỉ hiện diện trong ống 
thận, mà còn ở nhiều tế bào bao gồm đại thực 
bào, tế bào mỡ và tế bào β tuyến tụy. 1,25- 
(OH)2-D gây ra sự thoái hóa của chính nó 
thông qua sự kích thích của 25-OH-D-24- 
hydroxylase (CYP24A1). CYP24A1 là một 
enzym chịu trách nhiệm cho sự thoái hóa của 
cả calcitriol và tiền chất 25-OH-D thành các 
chất chuyển hóa không có hoạt tính sinh học, 
tức là acid calcitroic bài tiết qua mật. Nồng độ 
thấp của vitamin D và calci kích thích tuyến 
cận giáp giải phóng hormon tuyến cận giáp 
(PTH: Parathyroid hormone) và cảm ứng sự 
tổng hợp CYP27B1, dẫn đến tăng hoạt hóa 
calcitriol. 1,25-(OH)2-D có thể giảm tổng hợp 
của chính nó thông qua vòng phản hồi nghịch 
và giảm cả tổng hợp và tiết PTH. Hormon 
tuyến cận giáp cũng có khả năng ức chế 
CYP24A1và cảm ứng tổng hợp yếu tố tăng 
trưởng nguyên bào sợi 23 (FGF:Fibroblast 
growth factor). FGF-23 điều hòa cân bằng nội 
môi vitamin D thông qua ức chế biểu hiện 
CYP27B1 ở thận và kích thích biểu hiện 
CYP24A1 dẫn đến giảm nồng độ calcitriol 
trong huyết thanh [26]. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
25 
Hình 1. Sự điều hòa tổng hợp và chuyển hóa vitamin D [26]. 
1.2. Cơ chế hoạt động của vitamin D 
Vitamin D có tác dụng phiên mã gen thông 
qua các cơ chế hoạt động qua gen và không 
qua gen [14] 
* Cơ chế hoạt động qua gen. Được trung 
gian thông qua thụ thể vitamin D (VDR: 
Vitamin D receptor), thuộc họ thụ thể hạt 
nhân và hoạt động như một yếu tố phiên mã 
được hoạt hóa bởi phối tử (ligand). Dạng hoạt 
động của vitamin D, 1,25-(OH)2-D, liên kết 
với VDR, từ đó tạo thành phức hợp 2 chuỗi 
không đồng nhất (heterodimer) với thụ thể 
retinoid X (RXR: Retinoid X receptor). Sau 
đó, phức hợp 1,25(OH)2D3-VDR-RXR được 
chuyển vào nhân, nơi nó liên kết với các yếu 
tố đáp ứng vitamin D (VDRE: Vitamin D- 
responsive elements) trong vùng khởi động 
của các gen đáp ứng vitamin D. Sự tương tác 
giữa 1,25-(OH)2-D3-VDR-RXR và VDRE 
dẫn đến việc tuyển dụng các tổ hợp lõi enzym 
đa dạng chịu trách nhiệm cho việc tái cấu trúc 
chromatin, tạo điều kiện cho việc sửa đổi biểu 
sinh của các histone cũng như tuyển dụng 
RNA polymerase II. 
Các thay đổi này điều hòa thuận hoặc 
nghịch sự biểu hiện của gen mục tiêu, bao 
gồm cả những việc chịu trách nhiệm cho sự 
tăng sinh và biệt hóa của các tế bào, hoạt 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
26 
động điều hòa miễn dịch và tân sinh mạch. 
* Cơ chế hoạt động không qua gen. Được 
biểu hiện bằng sự kích hoạt của các phân tử tín 
hiệu (ví dụ, phosphatidylinositol-3 kinase, 
phospholipase C (PLC), Ca2+-calmodulin kinase 
II (CaMPKII), protein kinase A (PKA), 
mitogen-activated protein kinases (MAPKs), 
src, protein kinase C (PKC). Mục tiêu của các 
kinase này là các yếu tố phiên mã (ví dụ: SP1, 
SP3 và RXR) lần lượt tương tác với VDRE trên 
vùng khởi xướng các gen đáp ứng vitamin D. 
Vitamin D cũng tham gia vào việc sản xuất tín 
hiệu truyền tin thứ hai (ví dụ, AMP vòng, Ca2+, 
các acid béo và 3-phosphoinositide). Phạm vi 
của các phân tử tín hiệu được hoạt hóa có liên 
quan với loại tế bào và trạng thái trưởng thành 
của nó. 
1.3. Tình trạng vitamin D 
Chỉ số về tình trạng vitamin D là nồng độ 
chất chuyển hóa lưu hành của nó, cụ thể là 25-
OH-D, có thời gian bán hủy là 10 đến 19 
ngày. Nồng độ 25-OH-D phản ánh mức độ 
vitamin D từ sự tổng hợp trong da và chế độ 
ăn uống. 
Một số hiệp hội trên thế gới đã phát triển 
các hướng dẫn về tình trạng vitamin D nhằm 
xác định tình trạng thiếu hụt, thiếu và đủ 
vitamin D. 
Bảng 1. Định nghĩa thiếu hụt vitamin D dựa trên điểm cắt 25-OH-D[6], [9], [15], [25]. 
Ghi chú: đường đứt nét được hiển thị cho phạm vi 25-OH-D trong đó nhóm đồng thuận không 
đưa ra tuyên bố trực tiếp về tình trạng thiếu vitamin D, đầy đủ hoặc nguy cơ gây hại. 
1.4. Nguyên nhân của thiếu hụt vitamin 
D 
Nguyên nhân nguyên phát liên quan đến việc 
cung cấp vitamin D không đủ như: tiếp xúc 
không đủ với ánh sáng mặt trời, tiêu thụ 
không đủ thực phẩm có chứa vitamin D (các 
loài cá béo, sản phẩm từ sữa, nấm được chiếu 
xạ và thực phẩm tăng cường). 
Nguyên nhân thứ phát liên quan đến suy 
yếu hấp thu, chuyển hóa hoặc gắn nhân tế bào 
của vitamin Dnhư: các bệnh về đường tiêu 
hóa (bệnh ruột non, cắt dạ dày, viêm tụy): liên 
quan đến kém hấp thu vitamin, bệnh gan (xơ 
gan mật, viêm gan): làm giảm hoạt động của 
25-hydroxylase, bệnh thận: làm giảm hoạt 
động của 1-hydroxylase (viêm thận, suy thận) 
hoặc gây mất 25-OH-D vào nước tiểu (hội 
chứng thận hư), tiếp xúc với thuốc 
(phenobarbital, diphenylhydantoin): điều này 
gây ra sự dị hóa của cả 25-OH-D và 1,25- 
(OH)2-D, suy tuyến cận giáp: làm suy yếu 
khả năng đáp ứng với calci máu cao bằng 
cách tăng hoạt động của 1-hydroxylase, đột 
biến cyp27b1: dẫn đến mất hoạt tính 1- 
hydroxylase đối với 25-OH-D trong bệnh còi 
xương típ 1 phụ thuộc vitamin D, đột biến 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
27 
VDR: làm giảm sự phiên mã của gen điều hòa 
vitamin D trong bệnh còi xương típ 2 phụ 
thuộc vitamin D, kháng PTH: dẫn đến bệnh 
giả suy giáp, tức là giảm calci máu mà không 
được bù bằng cách tăng lưu giữ Ca tại thận 
hoặc huy động từ xương, mặc dù tiết PTH 
bình thường, kháng vitamin D: khiếm khuyết 
ở cả hấp thu tại ruột và tái hấp thu tại ống 
thận của phosphat, quá mẫn cảm với PTH, và 
giảm quá trình 1-hydroxyl hóa 25-OH-D[8]. 
2. VAI TRÒ CỦA VITAMIN D VÀ 
KHÁNG INSULIN TRONG HỘI 
CHỨNG CHUYỂN HÓA 
2.1. Nguyên nhân của hội chứng chuyển 
hóa 
Nguyên nhân cơ bản của hội chứng 
chuyển hóa là thừa cân, béo phì, thiếu hoạt 
động thể lực và khuynh hướng di truyền. Mấu 
chốt của hội chứng là sự tích tụ của mô mỡ 
dẫn đến tình trạng kháng insulin. Các cytokin 
tiền viêm như yếu tố hoại tử u, leptin, 
adiponectin, chất ức chế hoạt hóa 
plasminogen và resistin, được giải phóng từ 
mô mỡ phì đại, làm thay đổi và tác động xấu 
đến hoạt động của insulin. Kháng insulin có 
thể mắc phải hoặc do yếu tố di truyền. Suy 
giảm đường dẫn tín hiệu, khiếm khuyết thụ 
thể insulin và tiết insulin bị khiếm khuyết đều 
có thể góp phần vào kháng insulin. Theo thời 
gian, đỉnh điểm của nguyên nhân này gây ra 
sự phát triển của hội chứng chuyển hóa [3]. 
2.2. Cơ chế tác động của vitamin D lên 
kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa 
2.2.1. Vitamin D duy trì chức năng tế bào 
β tụy 
Kết quả của các nghiên cứu tiền lâm sàng đã 
chỉ ra rằng vitamin D là một yếu tố điều hòa 
tiềm năng đối với tiết insulin, nồng độ Ca2+ và 
sự sống của các tế bào β tụy. Một số nghiên cứu 
đã chứng minh rằng thiếu hụt vitamin D góp 
phần làm suy giảm tiết insulin qua trung gian 
glucose trong các tế bào β tụy. Các nghiên cứu 
cho thấy sự tiết insulin qua trung gian glucose 
được phục hồi thông qua việc bổ sung vitamin 
D. Kết quả của một số nghiên cứu lâm sàng 
cũng đã chỉ ra rằng bổ sung vitamin D có liên 
quan đến việc cải thiện tiết insulin [26]. 
Thụ thể vitamin D và CYP27B1 được biểu 
hiện trong các tế bào β tụy. Do đó, hoạt động 
của vitamin D trong các tế bào β tụy được tác 
động trực tiếp thông qua sự liên kết của 
vitamin D với VDR. Chuột thiếu VDR có 
chức năng biểu hiện suy giảm tiết insulin sau 
khi nạp glucose và liên quan đến việc giảm 
tổng hợp insulin bởi các tế bào β tụy dẫn đến 
giảm lượng insulin được lưu trữ. Calcitriol có 
thể kích thích trực tiếp tiết insulin vì VDRE 
được xác định trong vùng khởi động gen 
insulin trong tế bào β tụy. VDRE không chỉ 
tạo ra sự phiên mã của gen insulin mà còn 
nhiều gen khác liên quan đến tổ chức tế bào, 
liên kết nội bào và sự tăng trưởng của tế bào 
β[30]. 
Calci là một thành tố thiết yếu để trải qua 
thích hợp với nhiều quá trình nội bào qua 
trung gian insulin trong các mô đích, tức là 
mô cơ và mô mỡ. Nồng độ Ca2+ nội bào tối 
ưu không thể thiếu cho hoạt động insulin 
thích hợp. Sự truyền tải tín hiệu insulin bị suy 
giảm, liên quan đến giảm hoạt động của chất 
vận chuyển glucose do sự thay đổi của Ca2+ 
nội bào trong các mô đích, có thể dẫn đến 
kháng insulin ngoại biên. 1,25-(OH)2-D có 
ảnh hưởng đến sự nhạy cảm insulin thông qua 
việc điều hòa nồng độ Ca2+ ngoại bào và dòng 
chảy của nó qua màng tế bào, ngoài ra, thiếu 
hụt vitamin D góp phần làm tăng nồng độ 
Ca2+, từ đó có thể làm giảm hoạt động 
GLUT4 dẫn đến kháng insulin [26]. 
Vitamin D tham gia điều hòa dòng Ca2+ 
trong tế bào β tụy. 1,25-(OH)2-D làm giảm 
biểu hiện của các kênh Ca2+ típ L dẫn đến 
thay đổi tín hiệu Ca2+. Cơ chế hoạt động 
nhanh không qua gen của vitamin D đã được 
chứng minh có liên quan đến việc tăng nồng 
độ Ca2+ trong tế bào chất kích thích cơ chế 
xuất bào của tiết insulin trong các tế bào tế 
bào β tụy. Hiệu ứng này thông qua trung gian 
hoạt hóa hai con đường tín hiệu. Đầu tiên là 
quá trình hoạt hóa PKA để phosphoryl hóa 
các protein khác nhau tham gia với vai trò của 
các kênh Ca2+ phụ thuộc điện thế típ L liên 
quan đến gia tăng tiết insulin. Các đường tín 
hiệu thứ hai này bao gồm hoạt hóa tổng hợp 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
28 
inositol trisphosphate (IP3) và phospholipase 
C (PLC), góp phần giải phóng Ca2+ từ lưới 
nội chất và diacyloglycerol (DAG) để lần lượt 
kích hoạt PKC. Các PKC được kích hoạt có  ... ch. Vitamin D làm giảm viêm mô mỡ 
tác động lên sự xâm nhập bạch cầu và sự 
trưởng thành của tế bào mỡ. Vitamin D có thể 
ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống miễn 
dịch bẩm sinh và thích nghi. Tác dụng của nó 
đối với các tế bào đuôi gai bao gồm tăng sản 
xuất IL-10 kháng viêm và giảm giải phóng 
các cytokin gây viêm như TNF-α , IL-12 
và interferon-gamma (IFN-γ). Hơn nữa, các tế 
bào đuôi gai có được các đặc tính dung nạp 
và vai trò điều hòa miễn dịch do tiếp xúc với 
vitamin D. Trong bạch cầu đơn nhân, vitamin 
D làm giảm sự biểu hiện và sản xuất các 
cytokin tiền viêm như IL-1β , TNF-α , IL- 
6 và IL-8. Trong các tế bào lympho, vitamin 
D tham gia chuyển từ đáp ứng viêm nhiều 
hơn của T-helper 1 (Th1)/Th17 sang Th2/Treg 
ít viêm hơn. Vì mô mỡ chứa một lượng lớn tế 
bào miễn dịch, nó đóng vai trò chính trong 
việc duy trì cân bằng nội môi miễn dịch. Hoạt 
động của tế bào lympho T được điều biến 
trong béo phì. Các tế bào T điều hòa (Treg) là 
phân nhóm của tế bào lympho T giảm đáng kể 
trong mô mỡ nội tạng của chuột béo phì. Gần 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
34 
đây, hai cơ chế quan trọng liên quan đến 
kháng insulin đã được làm rõ, phụ thuộc và 
không phụ thuộc vào béo phì. Kháng insulin 
liên quan đến béo phì được cho là do viêm 
bởi đại thực bào. Không phụ thuộc béo phì, 
tình trạng kháng insulin liên quan đến tuổi, 
được điều hòa thông qua các tế bào T điều tiết 
cư trú ở mô mỡ (aTregs). Vitamin D làm giảm 
viêm do khả năng tăng cường hoạt động ức 
chế của Tregs [31]. 
Vitamin D là một chất điều chỉnh nghịch 
tiềm năng của việc giải phóng các cytokin gây 
viêm, làm giảm IL-6 , TNF-α và protein phản 
ứng C, và nó có tác dụng đáng kể đối với hệ 
thống miễn dịch và mô mỡ. Calcitriol cũng 
ngăn chặn mạnh mẽ việc hoạt hóa các con 
đường tín hiệu MAPK và NF-κB, ngăn chặn 
sự phiên mã các gen của các yếu tố gây 
viêm. Do đó, dạng hoạt tính sinh học của 
vitamin D làm giảm đáng kể tình trạng viêm 
trong mô mỡ [26]. 
3. Các nghiên cứu về vitamin D với 
kháng insulin và hội chứng chuyển hóa 
3.1. Các nghiên cứu quan sát về mối liên 
quan giữa nồng độ vitamin D và các thông 
số chuyển hóa liên quan đến kháng insulin 
Nghiên cứu của Lu và cộng sự [20] về 
nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương và 
hội chứng chuyển hóa ở người trung niên và 
cao tuổi Trung Quốc (1443 nam giới và 1819 
nữ giới độ tuổi 50-70). Thiếu hụt vitamin D 
phổ biến ở người trung niên và cao tuổi Trung 
Quốc, và nồng độ 25-OH-D thấp có liên quan 
đáng kể đến việc tăng nguy cơ mắc hội chứng 
chuyển hóa và kháng insulin. 
Gagnon và cộng sự [13] đánh giá mối liên 
quan trong tương lai giữa 25-OH-D và hội 
chứng chuyển hóa và quan sát thấy nguy cơ 
tăng 141% và 174% ở đối tượng có 25-OH- 
D<18 ng/mL và 18 đến 23 ng/mL; 25-OH-D 
huyết thanh có liên quan nghịch với chu vi 
vòng bụng, triglycerid, glucose lúc đói và 
HOMA-IR. Thiếu hụt và không đủ vitamin D 
có liên quan đến sự gia tăng nguy cơ hội 
chứng chuyển hóa, chu vi vòng bụng, 
triglycerid, glucose lúc đói, và kháng insulin 
cao hơn sau 5 năm. Deleskog và cộng sự [10] 
đã cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng 
thiếu hụt vitamin D thúc đẩy nhanh tiến triển 
từ tiền đái đường đến đái tháo đường típ 2 ở 
980 nữ giới và 1398 nam giới, độ tuổi 35 - 56 
không biết mắc đái tháo đường típ 2, theo dõi 
8-10 năm. Điều đáng chú ý là giảm tỷ lệ mắc 
21% (nữ) và 27% (nam) cho mỗi lần tăng 
nồng độ 25-OH-D là 10 nmol/L (4 ng/mL). 
Tepper và cộng sự [27] đã nghiên cứu ở 
358 nam giới trưởng thành nhằm xác định 
ngưỡng cho sự thiếu hụt vitamin D liên quan 
đến các dấu hiệu chuyển hóa tim. Tình trạng 
thiếu hụt (25-OH-D < 12 ng/ml) là 10,6%; 
29,9% là không đủ (12<25-OH-D<20 ng/ml) 
và 59,5% có đủ (25-OH-D>20 ng/ml). BMI, 
chu vi vòng bụng, insulin đói, HOMA-IR, 
TG, hs-CRP, HA tâm trương và tâm thu có 
mối liên quan nghịch với 25-OH-D huyết 
thanh. Đề xuất ngưỡng 25-OH-D là 11-14 
ng/ml có liên quan đến các chỉ số chuyển hóa 
tim ở nam giới khỏe mạnh. 
Nghiên cứu của Junling Fu và cộng sự 
[12] 559 đối tượng 14-28 tuổi người Trung 
Quốc có nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa 
cao. Nồng độ 25-OH-D thấp hơn đáng kể ở 
các đối tượng tham gia có béo phì, triglycerid 
cao, đái tháo đường típ 2 hoặc hội chứng 
chuyển hóa. Các đối tượng có nồng độ 25- 
OH-D thấp nhất có khả năng mắc hội chứng 
chuyển hóa cao hơn 2,5 lần. 
Al-Dabhani và cộng sự [2] đã nghiên cứu 
tỷ lệ thiếu hụt vitamin D và mối liên quan với 
hội chứng chuyển hóa trong dân số Qatar với 
1205 người tham gia. Vitamin D huyết thanh 
thấp hơn 8% ở các đối tượng mắc hội chứng 
chuyển hóa so với các đối tượng không mắc 
hội chứng chuyển hóa. 
Nghiên cứu kiểm soát trường cắt ngang 
của Rodrigo carnero và cộng sự [7] ở 299 đối 
tượng trên 18 tuổi. Thiếu hụt 25-OH-D xảy ra 
nhiều hơn ở những người có chu vi vòng 
bụng lớn hơn 102 cm (nam) và 88 cm (nữ), có 
triglycerid lớn hơn 150 mg/dL và có glucose 
máu lúc đói lớn hơn 100mg/dL. Tình trạng 
vtamin D thấp có mối tương quan nghịch có ý 
nghĩa với hội chứng chuyển hóa và các biến 
số khác. Một mối liên quan nghịch cũng được 
phát hiện với nguy cơ phát triển đái tháo 
đường típ 2. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
35 
3.2. Các thử nghiệm lâm sàng can thiệp 
tập trung vào hiệu quả của việc bổ sung 
vitamin D đối với các thông số chuyển hóa 
liên quan đến kháng insulin 
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát 
của El Hajj và cộng sự[11] nhằm đánh giá 
hiệu quả của điều trị vitamin D đối với cân 
bằng nội môi và chuyển hóa glucose ở 115 
người cao tuổi Lebanon trong 6 tháng, nhóm 
can thiệp sử dụng 30000 IU cholecalciferol 
mỗi tuần. Bổ sung vitamin D làm giảm đáng 
kể HOMA-IR, cholesterol toàn phần và LDL- 
cholesterol và nồng độ glucose máu đói trong 
nhóm can thiệp so với giả dược. 
Mitri và cộng sự [22] đã nghiên cứu tác 
dụng của việc bổ sung vitamin D và calci đối 
với chức năng tế bào β tụy, nhạy insulin và 
glucose máu ở 92 người trưởng thành có nguy 
cơ mắc đái tháo đường típ 2 trong 16 tuần. 
Kết quả cho thấy bổ sung ngắn hạn với 
cholecalciferol đã cải thiện chức năng tế bào 
β và có hiệu ứng tức thời trong việc làm giảm 
sự gia tăng HbA1c. 
Nghiên cứu của Lê Quang Toàn ở 104 thai 
phụ mắc đái tháo đường thai kỳ(ĐTĐTK) cho 
thấy nồng độ 25-OH-D huyết tương có tương 
quan tuyến tính nghịch với kháng insulin ở 
thai phụ mắc ĐTĐTK vào tuần thai 24 – 28; 
Tỷ lệ thiếu 25-OH-D (< 75 nmol/L) có liên 
quan với tăng kháng insulin ở thai phụ mắc 
ĐTĐTK vào tuần thai 24 – 28. Sau bổ sung 
vitamin D từ tuần thai 24 – 28 đến tuần thai 
36 – 38, nhóm 1500 IU/ngày có giảm sự gia 
tăng kháng insulin 71,2% theo HOMA2 tính 
bằng insulin và 77,4% theo HOMA2 tính 
bằng C-peptid so với nhóm bổ sung 500 
IU/ngày [19]. 
Thử nghiệm lâm sàng của Upreti và cộng 
sự [28] về hiệu quả của việc bổ sung vitamin 
D bằng đường uống đối với việc kiểm soát 
glucose máu ở 60 người mắc đái tháo đường 
típ 2 có thiếu vitamin D trong 6 tháng, uống 
60000 IU vitamin D mỗi tuần trong 6 tuần 
đầu tiên, sau đó 4 tuần 1 lần cho đến khi kết 
thúc điều trị; nhóm giả dược uống cellulose 
tinh thể. Bổ sung vitamin D bằng đường uống 
có liên quan đến việc cải thiện kiểm soát 
glucose máu và các thông số chuyển hóa khác 
ở người bệnh đái tháo đường týp 2. 
Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu 
can thiệp của Hu và cộng sự [16] về hiệu quả 
của việc bổ sung vitamin D trong kiểm soát 
glucose máu ở người bệnh đái tháo đường típ 
2. Tổng cộng 19 nghiên cứu thử nghiệm ngẫu 
nhiên có đối chứng liên quan đến 747 đối 
tượng can thiệp và 627 đối chứng giả dược. 
Kết quả phân tích tổng hợp cho thấy so với 
nhóm chứng, nhóm bổ sung vitamin D ngắn 
hạn giúp giảm HbA1c, kháng insulin và 
insulin. 
4. KẾT LUẬN 
Các phát hiện gần đây cho thấy nền tảng 
phân tử của sự hình thành kháng insulin có 
liên quan đến thiếu hụt vitamin D. Cả hoạt 
động phân tử qua gen và không qua gen của 
vitamin D đều liên quan đến duy trì sự nhạy 
cảm insulin. Các tác dụng thuận lợi này 
không chỉ liên quan trực tiếp đến tín hiệu 
insulin, mà còn gián tiếp thông qua giảm 
stress oxy hóa, viêm chuyển hóa và điều hòa 
biểu sinh của biểu hiện gen cũng như hệ 
thống renin–angiotensin–aldosterone. Kết quả 
của các nghiên cứu cơ bản và lâm sàng cho 
thấy thiếu hụt vitamin D là một yếu tố quan 
trọng có thể đẩy nhanh quá trình hình thành 
kháng insulin trong hội chứng chuyển hóa. 
Hiểu sâu hơn về sự tham gia của phân tử 
vitamin D trong các quá trình liên quan đến 
tín hiệu insulin có thể dẫn đến các chiến lược 
điều trị mới ngăn ngừa sự phát triển của các 
rối loạn chuyển hóa liên quan đến kháng 
insulin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abbas M. A. (2017), "Physiological 
functions of Vitamin D in adipose tissue", 
The Journal of Steroid Biochemistry and 
Molecular Biology. 165, pp. 369-381. 
2. Al-Dabhani K. et al. (2017), "Prevalence 
of vitamin D deficiency and association 
with metabolic syndrome in a Qatari 
population", Nutrition & diabetes. 7 (4), 
pp. e263. 
3. Angela C. et al. (2018), "Determining 
Factors of Arterial Stiffness in Subjects 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
36 
with Metabolic Syndrome", Metabolic 
syndrome and related disorders. 16 (9), 
pp. 490-496. 
4. Berridge M. J. (2017), "Vitamin D 
deficiency and diabetes", Biochemical 
Journal. 474 (8), pp. 1321-1332. 
5. Bouillon R. et al. (2014), "Vitamin D and 
energy homeostasis—of mice and men", 
Nature Reviews Endocrinology. 10 (2), 
pp. 79. 
6. Bresson J. et al. (2016), "Scientific 
opinion on dietary reference values for 
vitamin D EFSA panel on dietetic 
products, nutrition, and allergies (NDA)", 
EFSA J. 179, pp. 86-87. 
7. Carnero R. et al. (2019), "SUN-138 
Association Between The Deficit Of 25 
(oh) Vitamin D, Metabolic Syndrome And 
New Onset Of Type 2 Diabetes", Journal 
of the Endocrine Society. 3 
(Supplement_1), pp. SUN-138. 
8. Combs Gerald F, McClung James P (2017), 
The Vitamins: Fundamental Aspects in 
Nutrition and Health, Fifth Edition, 
Elsevier Inc, 7, pp. 161-206. 
9. Del Valle H. B. et al. (2011), Dietary 
reference intakes for calcium and vitamin 
D, National Academies Press. 
10. Deleskog A. et al. (2012), "Low serum 
25-hydroxyvitamin D level predicts 
progression to type 2 diabetes in 
individuals with prediabetes but not with 
normal glucose tolerance", Diabetologia. 
55 (6), pp. 1668-1678. 
11. El Hajj C. et al. (2018), "Effect of vitamin 
D treatment on glucose homeostasis and 
metabolism in lebanese older adults: A 
randomized controlled trial", The journal 
of nutrition, health & aging. 22 (9), pp. 
1128-1132. 
12. Fu J. et al. (2018), "Vitamin D levels are 
associated with metabolic syndrome in 
adolescents and young adults: The 
BCAMS study", Clinical Nutrition. 
13. Gagnon C. et al. (2012), "Low serum 25- 
hydroxyvitamin D is associated with 
increased risk of the development of the 
metabolic syndrome at five years: results 
from a national, population-based 
prospective study (The Australian 
Diabetes, Obesity and Lifestyle Study: 
AusDiab)", The Journal of Clinical 
Endocrinology & Metabolism. 97 (6), pp. 
1953-1961. 
14. Gil A. et al. (2018), "Vitamin D: Classic 
and Novel Actions", Annals of Nutrition 
and Metabolism. 72(2),pp.87-95. 
15. Holick M. F. et al. (2011),"Evaluation, 
treatment, and prevention of vitamin D 
deficiency: an Endocrine Society clinical 
practice guideline", The Journal of 
Clinical Endocrinology & Metabolism. 96 
(7), pp. 1911-1930. 
16. Hu Z. et al. (2019), "Efficacy of vitamin D 
supplementation on glycemic control in 
type 2 diabetes patients: A meta-analysis of 
interventional studies", Medicine. 98 (14) 
17. Koszowska A. U. et al. (2014), "Obesity, 
adipose tissue function and the role of 
vitamin D", Central-European journal of 
immunology. 39 (2), pp. 260. 
18. Leung P. (2016), "The potential protective 
action of vitamin D in hepatic insulin 
resistance and pancreatic islet dysfunction 
in type 2 diabetes mellitus", Nutrients. 8 
(3), pp. 147. 
19. Lê Quang Toàn (2016). Nghiên cứu mối 
liên quan giữa nồng độ 25- 
hydroxyvitamin D huyết tương với kháng 
insulin và hiệu quả bổ sung vitamin D đối 
với kháng insulin trong đái tháo đường 
thai kỳ, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường 
Đại học Y Hà Nội. 
20. Lu L. et al. (2009), "Plasma 25- 
hydroxyvitamin D concentration and 
metabolic syndrome among middle-aged 
and elderly Chinese individuals", 
Diabetes care. 32 (7), pp. 1278-1283. 
21. Manna P. et al. (2018), "1, 25 (OH) 2- 
vitamin D 3 upregulates glucose uptake 
mediated by SIRT1/IRS1/GLUT4 
signaling cascade in C2C12 myotubes", 
Molecular and cellular biochemistry. 444 
(1-2), pp. 103-108. 
22. Mitri J. et al. (2011), "Effects of vitamin D 
and calcium supplementation on 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
37 
pancreatic β cell function, insulin 
sensitivity, and glycemia in adults at high 
risk of diabetes: the Calcium and Vitamin 
D for Diabetes Mellitus (CaDDM) 
randomized controlled trial", The 
American journal of clinical nutrition. 94 
(2), pp. 486-494. 
23. Narvaez C. et al. (2013), "Induction of 
STEAP 4 correlates with 1, 
25□dihydroxyvitamin D3 stimulation of 
adipogenesis in mesenchymal progenitor 
cells derived from human adipose tissue", 
Journal of cellular physiology. 228 (10), 
pp. 2024-2036. 
24. Scaini G. et al. (2016), "Mitochondrial 
dysfunction in bipolar disorder: evidence, 
pathophysiology and translational 
implications", Neuroscience & 
Biobehavioral Reviews. 68, pp. 694-713. 
25. Scientific Advisory Committee on 
Nutrition (SACN) and Health. 2016. 
Vitamin D] 
26. Szymczak-Pajor I. et al. (2019), "Analysis 
of Association between Vitamin D 
Deficiency and Insulin Resistance", 
Nutrients. 11 (4), pp. 794. 
27. Tepper S. et al. (2014), "Identifying the 
threshold for vitamin D insufficiency in 
relation to cardiometabolic markers", 
Nutrition, Metabolism and 
Cardiovascular Diseases. 24 (5), pp. 489- 
494. 
28. Upreti V. et al. (2018), "Effect of oral 
vitamin D supplementation on glycemic 
control in patients with type 2 diabetes 
mellitus with coexisting hypovitaminosis 
D: A parellel group placebo controlled 
randomized controlled pilot study", 
Diabetes & Metabolic Syndrome: Clinical 
Research & Reviews. 12 (4), pp. 509-512. 
29. Walker G. E. et al. (2014), "Pediatric 
obesity and vitamin D deficiency: a 
proteomic approach identifies multimeric 
adiponectin as a key link between these 
conditions", PloS one. 9 (1), pp. e83685. 
30. Wolden-Kirk H. et al. (2013), 
"Unraveling the effects of 1, 25 (OH) 
2D3 on global gene expression in 
pancreatic islets", The Journal of Steroid 
Biochemistry and Molecular Biology. 
136, pp. 68-79. 
31. Zeng H. et al. (2015), "Metabolic control 
of regulatory T cell development and 
function", Trends in immunology. 36 (1), 
pp. 3-12. 

File đính kèm:

  • pdfthieu_hut_vitamin_d_va_khang_insulin_trong_hoi_chung_chuyen.pdf