Thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động rà phá bom mìn

Tóm tắt:

Hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động rà phá bom mìn (RPBM) đã được Tổ chức hành động

nhân đạo vì bom mìn (GICHD - Geneva International Centre for Humanitarian Demining) xây dựng với tên gọi

IMSMA (The Information Management Software for Mine Action), đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới.

Tuy nhiên do vấn đề bản quyền phần mềm, muốn tùy biến theo điều kiện riêng phải phụ thuộc hoàn toàn vào

đơn vị cung cấp, khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng hệ thống này. Để khắc phục, nhóm

nghiên cứu đã xây dựng hệ thống công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng hoạt động RPBM, làm cơ sở

cho việc xây dựng bản đồ ô nhiễm bom mìn tại Việt Nam trong thời gian tới.

pdf 6 trang phuongnguyen 9180
Bạn đang xem tài liệu "Thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động rà phá bom mìn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động rà phá bom mìn

Thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động rà phá bom mìn
3416(5) 5.2017
Đặt vấn đề
Nhằm khắc phục hậu quả của chiến tranh, nhiều quốc 
gia trên thế giới đã nghiên cứu chế tạo các hệ thống thiết 
bị, phần mềm hỗ trợ để xác định vị trí, phục vụ công tác 
dò tìm, xử lý các loại bom mìn còn sót lại [1]. Là một 
trong những nước chịu hậu quả nghiêm trọng của chiến 
tranh, với hàng triệu hecta mặt đất, mặt nước trên toàn 
quốc đang bị ô nhiễm bom mìn, nhưng ở Việt Nam mới 
chỉ có thiết bị hỗ trợ hoạt động dò tìm, mà chưa tự xây 
dựng được hệ thống tích hợp để quản lý, giám sát hoạt 
động này. Với mục tiêu xây dựng một hệ thống đồng bộ, 
chúng tôi đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống công 
nghệ thông tin (IT) để quản lý dữ liệu định vị (GPS - 
Global Positioning System) và mức độ từ trường đo được 
từ máy dò bom mìn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt 
động RPBM, làm cơ sở cho việc lập bản đồ từ trường các 
khu vực nghi ngờ tồn tại bom mìn, tiến tới xây dựng bản 
đồ ô nhiễm bom mìn tại Việt Nam. Trong khuôn khổ bài 
báo này, nhóm nghiên cứu sẽ trình bày giải pháp tổng 
thể của bài toán quản lý, không trình bày tất cả các thành 
phần trong hệ thống mà chỉ trình bày sâu hơn về hệ thống 
nhúng làm cơ sở đầu vào cho toàn bộ hệ thống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Tổng quan về mô hình bài toán quản lý hoạt động RPBM
Thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin 
ứng dụng trong hoạt động rà phá bom mìn
Lê Đình Sơn*, Đồng Thanh Tùng
Học viện Kỹ thuật quân sự
Ngày nhận bài 6/2/2017; ngày chuyển phản biện 16/2/2017; ngày nhận phản biện 28/3/2017; ngày chấp nhận đăng 31/3/2017
Tóm tắt:
Hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động rà phá bom mìn (RPBM) đã được Tổ chức hành động 
nhân đạo vì bom mìn (GICHD - Geneva International Centre for Humanitarian Demining) xây dựng với tên gọi 
IMSMA (The Information Management Software for Mine Action), đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. 
Tuy nhiên do vấn đề bản quyền phần mềm, muốn tùy biến theo điều kiện riêng phải phụ thuộc hoàn toàn vào 
đơn vị cung cấp, khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng hệ thống này. Để khắc phục, nhóm 
nghiên cứu đã xây dựng hệ thống công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng hoạt động RPBM, làm cơ sở 
cho việc xây dựng bản đồ ô nhiễm bom mìn tại Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khoá: Bản đồ từ trường, máy dò bom, quản lý chất lượng RPBM, thiết bị giám sát định vị, thiết bị nhúng.
Chỉ số phân loại: 2.2
*Tác giả liên hệ: Email: sonld2004@gmail.com
Designing and developing the IT system
for mine action operations
Dinh Son Le*, Thanh Tung Dong
Military Technical Academy
Received 6 February 2017; accepted 31 March 2017
Abstract:
Applications of embedded systems in science and 
technology have been becoming the most attractive 
field in the Vietnamese scientific community. In this 
paper, the authors present the study and implemention 
of an embedded computer for mine action operations 
(MAO). The evaluation and test of the system have 
been conducted on the mine clearance vehicle Vallon 
EL 1303D2 in the mine testing center. The results 
have shown the ability of embedded technology in the 
mine action operations, and this is a basis to design a 
pollution mine map in Vietnam.
Keywords: Embedded computer, magnetic map, 
MAO quality management, mine clearance vehicle, 
navigation devices.
Classification number: 2.2
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
3516(5) 5.2017
Theo kết quả thống kê sơ bộ, Việt Nam có tới 
9.284/10.511 xã trên cả nước bị ô nhiễm bom mìn, với 
diện tích khoảng 6,6 triệu ha, chiếm 20% tổng diện tích, 
phân bố rải rác ở cả 63 tỉnh/thành phố. Trong đó, có 
khoảng 925.600 ha còn nhiều bom mìn, vật nổ, chiếm 
13,9%. Tổng diện tích các loại đất canh tác đang bị bỏ 
hoang do bom mìn là 435.900 ha, chiếm gần 7% [2]. 
Trong bài toán quản lý hoạt động RPBM, việc xác 
định vị trí nghi ngờ có tồn tại bom mìn là quan trọng 
nhất. Tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thường dùng các 
thiết bị do các hãng nước ngoài cung cấp. Tuy nhiên, do 
chi phí bản quyền của hệ thống phần mềm chuyên dụng 
kèm theo các thiết bị RPBM là rất lớn và phải hiệu chỉnh 
một số tham số khi sử dụng với nền địa chất ở Việt Nam, 
đồng thời việc yêu cầu cung cấp thông tin khi khai thác 
hệ thống phần mềm này rất phức tạp. Vì vậy, việc tự xây 
dựng hệ thống tích hợp cả phần cứng và phần mềm ứng 
dụng trong hoạt động RPBM tại Việt Nam là rất có ý 
nghĩa.
Thiết kế hệ thống IT ứng dụng trong hoạt động 
RPBM
Trên cơ sở khảo sát yêu cầu của các đơn vị tham gia 
hoạt động RPBM, cũng như tìm hiểu về nhu cầu xử lý 
thông tin, chúng tôi xác định được các đối tượng chính 
tham gia hệ thống bao gồm:
- Người dân, các tổ chức bị ảnh hưởng bởi bom mìn 
còn sót lại sau chiến tranh rất cần có thông tin về những 
địa điểm an toàn, không an toàn khi sinh sống, học tập và 
công tác. Mặc dù đã có nhiều dự án được triển khai thực 
hiện, nhưng mới chỉ mang tính đơn lẻ, chưa có khả năng 
tra cứu, đánh giá mức độ ô nhiễm bom đạn thực tế trên 
toàn lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống 
IT hỗ trợ công tác này là rất cần thiết.
- Người quản lý hoạt động RPBM cần có hệ thống 
hỗ trợ nâng cao chất lượng công việc, góp phần quản lý, 
đánh giá chất lượng hoạt động RPBM, giúp giảm thiểu 
sai sót, mất mát không đáng có.
- Người trực tiếp tham gia hoạt động RPBM vừa cần 
nắm vững chuyên môn, vừa cần sự hỗ trợ của các trang 
thiết bị để công việc được thuận lợi, an toàn, chính xác 
hơn.
Trên cơ sở xây dựng hệ thống cho 3 đối tượng chính 
nêu trên, chúng tôi đề xuất mô hình quản lý quốc gia về 
bom mìn tại Việt Nam trong hình 1.
Hình 1. Mô hình tổng thể hệ thống quản lý hành động 
bom mìn tại Việt Nam.
Cổng thông tin điện tử hành động quốc gia về bom 
mìn: Hướng tới cả hệ thống Intranet quân sự và Internet, 
đáp ứng các nhu cầu khai thác khác nhau về tin tức liên 
quan tới khắc phục hậu quả bom mìn tại Việt Nam, dữ 
liệu các vùng bị ô nhiễm bom mìn, giám sát hoạt động 
RPBM trên nền bản đồ số, cơ sở dữ liệu quốc gia về hành 
động bom mìn
Các đơn vị tác nghiệp: Mỗi đơn vị có một tài khoản 
trên cổng thông tin, phục vụ việc quản lý và điều hành 
nội bộ, cũng như cung cấp các thông tin cần thiết của dự 
án RPBM do đơn vị thực hiện. Đơn vị tác nghiệp (các 
tổ đội thi công RPBM) được trang bị hệ thống máy dò 
tích hợp bộ thiết bị nhúng, giúp thu thập dữ liệu dò và 
hỗ trợ công tác điều hành cho người chỉ huy khu vực dò 
tìm. Kết quả dò tìm được báo cáo dưới dạng dữ liệu từ 
trường, GPS khu vực RPBM và gửi về cơ sở dữ liệu trên 
cổng thông tin.
Các đối tượng liên quan: Bao gồm các cơ quan nhà 
nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân có nhu cầu khai 
thác thông tin liên quan qua cổng thông tin.
Với mô hình tổng thể như trên, ngoài cổng thông tin 
điện tử cung cấp thông tin về hành động RPBM, hệ thống 
còn hỗ trợ điều hành, thu thập dữ liệu từ trường, rà phá 
cho các tổ đội trực tiếp thực hiện (hình 2).
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
3616(5) 5.2017
Hình 2. Mô hình ứng dụng hệ thống quản lý hành động 
bom mìn tại Việt Nam.
Máy chủ Web: Cài đặt cổng thông tin điện tử theo mô 
hình Web-base với bản đồ số trên nền ngôn ngữ lập trình 
ASP.Net, ArcEngine, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà 
quản lý và những người khai thác hệ thống. 
Máy chủ cơ sở dữ liệu: Cài đặt hệ quản trị cơ sở dữ 
liệu PostgreSQL/PostGIS, cho phép quản lý cơ sở dữ liệu 
thuộc tính và không gian.
Máy chỉ huy dò mìn: Cài đặt phần mềm điều hành 
khu vực RPBM trên nền hệ điều hành Windows, ngôn 
ngữ lập trình .NET, ArcEngine, hệ quản trị cơ sở dữ liệu 
PostgreSQL/PostGIS. Hệ thống này hỗ trợ người chỉ huy 
điều hành công tác RPBM tại hiện trường, là công cụ kết 
nối giữa người quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác 
RPBM.
Bộ máy dò và thiết bị nhúng: Hỗ trợ cán bộ hiện 
trường trong các công tác: Tổng hợp số liệu, hiển thị, 
cảnh báo, đồng thời cung cấp dữ liệu căn bản cho việc 
quản lý, xây dựng bản đồ ô nhiễm bom mìn.
Trong khuôn khổ của bài báo, chúng tôi xin trình bày 
cụ thể việc thiết kế, chế tạo thiết bị nhúng tích hợp vào 
máy dò bom mìn, làm cơ sở cho việc quản lý sau này.
Nội dung nghiên cứu
Giới thiệu máy dò tìm bom mìn
Trang thiết bị chuyên dụng phục vụ công tác dò tìm 
bom mìn khá đa dạng, có thể phân loại theo nhiều tiêu 
chí khác nhau [3, 4]: Thiết bị cầm tay/thiết bị trên xe 
chuyên dụng; thiết bị một đầu dò/thiết bị đa đầu dò; thiết 
bị dò tìm trên cạn/thiết bị dò tìm dưới nước; hoặc phân 
loại theo công nghệ sử dụng để dò tìm bom mìn Tại 
Việt Nam, chủ yếu được sử dụng là các hệ máy dò bom 
mìn của hãng Vallon (chiếm 51,57%) (hình 3), hệ máy dò 
của hãng Foerster (chiếm 25,44%). Nhóm nghiên cứu tập 
trung vào khai thác máy dò Vallon EL 1303-D2. Nguyên 
lý hoạt động của máy dò thể hiện trên hình 4.
Hình 3. Máy dò bom, mìn 
EL 1303-D2.
Hình 4. Nguyên lý đo sự 
thay đổi từ trường khi gặp 
vật thể kim loại.
Bom mìn còn sót lại trong lòng đất thường có từ tính 
khá mạnh vì vỏ làm bằng thép hợp kim [5]. Do tác động 
của trường từ trái đất, chúng sẽ bị từ hóa (nhiễm từ). 
Máy dò EL 1303-D2 hoạt động dựa trên nguyên lý đo 
từ trường như trong hình 4, khi gặp đối tượng nhiễm từ, 
máy dò thông báo dưới dạng âm thanh và biểu thị giá trị 
từ trường qua đồng hồ đo. Đây mới chỉ là các tín hiệu 
hiển thị dạng đơn giản, còn việc xác định vị trí nghi ngờ 
có bom mìn hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm của 
người thực hiện. 
Thiết kế, chế tạo thiết bị nhúng
Phân tích chức năng: Trên cơ sở phân tích nguyên lý 
dò tìm bom mìn và các thông số kỹ thuật của từng chủng 
loại thiết bị, nhóm nghiên cứu đã tập trung xây dựng bộ 
thiết bị nhúng tích hợp vào máy dò tìm bom mìn Vallon 
EL 1303-D2. Mô hình thiết kế hệ thống được thể hiện ở 
hình 5. Bộ thiết bị này bao gồm 2 khối: Sơ cấp và thứ cấp, 
với yêu cầu về chức năng như sau:
- Khối sơ cấp: Nhỏ gọn, dễ dàng tích hợp vào máy dò 
bom, không gây nhiễu từ trường; nguồn điện được lấy 
từ bên ngoài hoặc sử dụng chung với máy dò bom; trích 
rút dữ liệu đo trực tiếp từ bên trong máy dò bom mìn EL 
1303-D2 (không thông qua cổng đầu ra có sẵn của máy). 
Khối sơ cấp có cấu tạo gồm: 1 môđun định vị GPS; thang 
đo dữ liệu đồng bộ với các chế độ của máy dò bom; 1 bộ 
xử lý đánh dấu vị trí nghi ngờ có bom, mìn; 1 bộ xử lý dữ 
liệu (từ trường và định vị GPS) theo thời gian thực, giúp 
tổng hợp dữ liệu, ghi vào thẻ nhớ và truyền đến khối thứ 
cấp thông qua cổng Bluetooth.
- Khối thứ cấp: Nhận dữ liệu từ khối sơ cấp thông qua 
Bluetooth; xử lý, tổng hợp dữ liệu từ trường, có nhiệm 
vụ tổng hợp nhiều gói dữ liệu nhận được từ khối sơ cấp 
thành 1 gói tin tổng hợp, trong đó vị trí của gói tin tổng 
hợp là giá trị trung bình vị trí của các gói, giá trị từ trường 
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
3716(5) 5.2017
của gói tin tổng hợp cũng là giá trị từ trường trung bình 
của các gói. Thông qua việc tổng hợp, khối thứ cấp sẽ tự 
động xác định vị trí nghi ngờ có bom mìn, đưa ra cảnh 
báo cho người sử dụng khi cường độ từ trường đổi chiều 
(từ âm sang dương hoặc từ dương sang âm) hoặc mức độ 
từ trường vượt ngưỡng, từ đó biểu diễn mức độ từ trường 
thu được theo thời gian thực và hiển thị vị trí dò tìm bom 
mìn trên nền bản đồ số, bản đồ lưới khu vực RPBM.
Hình 5. Mô hình thiết kế bộ thiết bị nhúng tích hợp máy 
dò bom Vallon EL 1303-D2.
Thiết kế khối sơ cấp: Khối sơ cấp (có thể sử dụng 
chung nguồn pin với máy EL1303-D2 hoặc sử dụng 
nguồn được trang bị độc lập) được kết nối với máy dò 
Vallon EL 1303-D2 để đọc, tổng hợp, hiệu chỉnh giá trị 
từ trường, thang đo; luôn hoạt động ở mức tiêu thụ năng 
lượng thấp để đảm bảo nguồn pin lâu dài. Cấu tạo của 
khối sơ cấp gồm các thành phần (hình 6): Bộ vi xử lý 
trung tâm; đầu đọc và thẻ nhớ; môđun kết nối Bluetooth; 
môđun GPS; nguồn cấp: 5V/DC; bộ định thời - bộ lập 
lịch cho các hoạt động của hệ thống theo thời gian [6]. 
Hình 6. Mô hình khối sơ cấp.
Trong đó, bộ xử lý trung tâm thực hiện kết nối, điều 
khiển các khối chức năng còn lại; môđun GPS có chức 
năng đọc, hiệu chỉnh tọa độ WGS84 theo thời gian thực 
UTC từ vệ tinh, được lắp đặt đúng với vị trí đầu dò của 
máy dò; môđun xử lý lưu trữ dữ liệu (giá trị từ trường, 
thang đo, tọa độ WGS84, thời gian thực) trên thẻ nhớ 
SD-Card theo chế độ quay vòng, khi lưu hết dung lượng 
trống, sẽ tự động ghi đè lên vùng dữ liệu cũ nhất, bảo 
đảm không bị thiếu dữ liệu, giúp hạn chế tháo lắp thiết bị 
dò. Dữ liệu mới được ghi và truyền ra bên ngoài (khối thứ 
cấp) qua cổng Bluetooth.
Với yêu cầu, chức năng của các môđun như trên, phần 
cứng khối sơ cấp được thiết kế chi tiết như hình 7.
Hình 7. Thiết kế khối sơ cấp.
Thiết kế khối thứ cấp: Với yêu cầu chức năng nhận, 
lưu trữ, hiển thị thông tin từ khối sơ cấp, khối thứ cấp sử 
dụng phần cứng là một điện thoại thông minh hệ điều 
hành Android, có hỗ trợ Bluetooth đã được hiệu chỉnh 
để không gây nhiễu từ trường. Các chức năng của khối 
thứ cấp được cung cấp qua phần mềm tích hợp do nhóm 
nghiên cứu thiết kế (hình 8). 
Gửi dữ liệu qua Bluetooth 
Tích hợp 
Máy dò bom mìn EL 1303-D2 
Khối sơ cấp 
Khối thứ cấp 
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
3816(5) 5.2017
Hình 8. Một số hình ảnh phần mềm trên khối thứ cấp.
Phần mềm trên khối thứ cấp được thiết kế tối ưu để 
tiết kiệm năng lượng, bao gồm các môđun chức năng sau: 
- Quản trị tham số hệ thống: Hiển thị trạng thái pin, 
trạng thái kết nối của 2 khối (Bluetooth tắt, mở).
- Quản trị việc lưu trữ, truyền dữ liệu (dữ liệu truyền 
đi phải được mã hóa), bật, tắt việc kết nối đến các máy 
liên quan; thay đổi mật khẩu.
- Quản lý thông tin dự án: Thêm mới dự án, cập nhật 
dữ liệu dự án mới, sửa dự án, xóa dự án, hiển thị danh 
sách các dự án, xuất dữ liệu dự án; hiển thị thông tin chi 
tiết dự án.
- Điều hành dự án: Lựa chọn dự án, hiển thị thông tin 
dự án, đọc dữ liệu về vị trí, từ trường, điểm đánh dấu qua 
Bluetooth lưu vào file dữ liệu từ trường, tự động lưu dữ 
liệu từ trường vào cơ sở dữ liệu, hiển thị bản đồ biến đổi 
cường độ từ trường theo thời gian thực [7, 8].
Thử nghiệm 
Các tham số đánh giá: Hệ thống được đánh giá dựa 
trên việc kiểm tra các tham số sau: Khả năng tích hợp 
cần đảm bảo gọn nhẹ, không ảnh hưởng tới tính năng của 
máy dò bom mìn; thời gian sử dụng đảm bảo liên tục, 
nguồn pin dung lượng lớn và có thể sạc, ngoài ra khối sơ 
cấp nằm trong máy dò nên có thể sử dụng nguồn pin của 
máy dò, do vậy công suất của khối này cũng phải phù 
hợp; độ chính xác, tin cậy phải cao, tín hiệu do khối sơ 
cấp ghi lại từ máy dò bom mìn phải có độ chính xác cao, 
không bỏ sót, dữ liệu truyền qua khối thứ cấp phải được 
mã hóa; phải biểu diễn dữ liệu thu được theo thời gian 
thực, hiệu quả cao khi đưa vào sử dụng trong thực tế.
Tích hợp và sử dụng máy dò có thiết bị nhúng: Dựa 
trên không gian bên trong máy dò EL 1303-D2, khối 
sơ cấp được chế tạo thành bản mạch với kích thước 
10,2x8,01 cm, mặt trước và sau như hình 9 và hình 10.
Hình 9. Hai mặt khối sơ cấp.
Hình 9: 2 mặt khối sơ cấp
Hình 10. thiết bị dò mìn trước và sau khi được tích hợp 
khối sơ cấp.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm kỹ thuật 
tại bãi thử nghiệm bom mìn của Trạm kiểm định - Cục 
Kỹ thuật - Bộ Tư lệnh Công binh, Bộ Quốc phòng (hình 
11). 
Hình 11. thử nghiệm tại Trạm kiểm định, Cục Kỹ thuật, 
Bộ Tư lệnh Công binh.
Đánh giá
Với các phương pháp truyền thống (không sử dụng hệ 
thống tự động), các kết quả dò tìm bom mìn không được 
mô tả chính xác, dẫn tới nhiều sai sót trong việc xác định 
vị trí an toàn bom mìn, không đủ cơ sở để xây dựng bản 
đồ số về ô nhiễm bom mìn. Qua quá trình thử nghiệm, 
mức độ hiệu quả của hệ thống ứng dụng công nghệ thông 
tin trong hoạt động RPBM của nhóm nghiên cứu được 
đánh giá như sau:
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
3916(5) 5.2017
Về khả năng tích hợp: Thiết bị nhúng được tích hợp 
thành công với máy dò bom Vallon EL 1303-D2, không 
làm ảnh hưởng đến hoạt động của máy dò, không bị nhiễu 
từ và thu được tín hiệu từ trường từ máy dò.
Về độ chính xác, tin cậy: Khối thứ cấp kết nối với khối 
sơ cấp thông qua đường truyền Bluetooth cho tín hiệu ổn 
định ở cự ly nhỏ hơn 7 m. Việc kết nối giữa khối sơ cấp 
và thứ cấp bảo đảm thời gian, không bị mất mát thông tin 
trong quá trình truyền nhận.
Về thời gian đáp ứng: Tín hiệu thu được từ máy dò có 
giá trị trong khoảng -6,7 đến 6,7 V, giá trị cường độ từ 
trường thu được trong khoảng từ 2 đến 20.000 nT. Tốc 
độ lấy mẫu trong quá trình thử nghiệm của thiết bị nhúng 
là 1 mẫu/s.
Về khả năng áp dụng thực tế: Khối sơ cấp đã lưu đầy 
đủ thông tin theo yêu cầu, đáp ứng công tác quản lý và 
giám sát hoạt động RPBM với định dạng dữ liệu thu được 
đảm bảo các yêu cầu về lưu trữ và bảo mật (hình 12). Cụ 
thể là: 
- Giá trị đo từ trường có mã lệnh là $MDGTD (ID 
máy, giờ, phút, giây, ngày, tháng, năm), mức tín hiệu đo 
từ trường (A tốt, V xấu), giá trị từ trường, tổng số vị trí 
GPS thu được, vị trí công tắc MODE, vị trí SENS (hiệu 
chỉnh thang đo), giá trị kiểm tra toàn vẹn của gói dữ liệu 
(CheckSum).
- Giá trị GPS có mã lệnh là $MDGPS (ID máy, 
giờ, phút, giây, ngày, tháng, năm), mức tín hiệu đo từ 
trường (A tốt, V xấu), vĩ độ (tọa độ WGS84), Bắc/Nam, 
kinh độ (tọa độ WGS84), Đông/Tây, tốc độ di chuyển 
(km/h), góc chuyển động (độ), góc so với phương Bắc 
(độ), giá trị kiểm tra toàn vẹn của gói dữ liệu truyền nhận 
(CheckSum). Các dữ liệu này được đồng bộ tới khối thứ 
cấp ngay trong quá trình dò, làm cơ sở để xác định vị trí 
ô nhiễm bom mìn, do đó thiết bị có tính ứng dụng cao. 
Hình 12. Dữ liệu lưu trữ trên khối sơ cấp.
Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu mô hình bài toán quản lý hoạt 
động RPBM, cấu tạo, nguyên lý hoạt động của máy dò 
bom mìn Vallon EL 1303-D2, nhóm nghiên cứu đã xây 
dựng bộ thiết bị với đầy đủ đặc điểm, tính năng của thiết 
bị nhúng và đã giải quyết được bài toán quản lý cơ bản 
trong hoạt động RPBM. Việc phát triển một hệ thống 
thông tin hỗ trợ quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động 
RPBM (bản đồ ô nhiễm bom mìn, cổng thông tin điện tử 
quốc gia về bom mìn) trên cơ sở thông tin nhận được từ 
thiết bị nêu trên là hướng triển khai tiếp theo của nghiên 
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Introduction to Programming Embedded Systems, Department of 
Computer and Information Science, University of Pennsylvania, CSE480/CIS700.
[2] Trung tâm Công nghệ xử lý bom mìn (2009), Dự án điều tra, khảo sát và 
đánh giá tác động của sự ô nhiễm bom mìn sót lại sau chiến tranh ở Việt Nam, 
Binh chủng Công binh, Bộ Quốc phòng.
[3] 
[4] 
[5] Sổ tay Sỹ quan công binh (1980), Nhà xuất bản Quân đội.
[6] SIMCOM Ltd. (2007), SIM548C Hardware Design V1.01.
[7] USGS (2005), Geographic Information System. U. S. Geological Survey, 
National Center, Reston, VA 20192, USA 
[8] Department of the Army (1959), Grenades and Pyrotechnics, Washington 
25, D.C.
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ

File đính kèm:

  • pdfthiet_ke_va_trien_khai_he_thong_cong_nghe_thong_tin_ung_dung.pdf