Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề “sinh trưởng của vi sinh vật-Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) theo định hướng giáo dục STEM cho học sinh hệ giáo dục thường xuyên

Abstract: STEM education is one of the teaching directions to develop the competency to apply

interdisciplinary knowledge to solve practical problems. Derived from local practice in Cho Don

district (Bac Kan), Saccharomyces cerevisiea is a microorganism that is used by many people to

produce products such as pie leaven, sticky wine and ethyl wine., we built the topic “Breeding

Saccharomyces Cerevisiea (making Saccharomyces Cerevisiea cake)” to organize teaching for

students of the regular education system. Through learning this STEM lesson, students experience

practical, occupy knowledge actively, participate in technical processes to solve problems and apply

solutions to change practical under the direction of teachers. Thereby students have more motivation,

interest in learning, actively exploring subject knowledge and develop their own competencies.

Keywords: STEM education, Breeding Saccharomyces Cerevisiea, microorganism

pdf 9 trang phuongnguyen 5660
Bạn đang xem tài liệu "Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề “sinh trưởng của vi sinh vật-Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) theo định hướng giáo dục STEM cho học sinh hệ giáo dục thường xuyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề “sinh trưởng của vi sinh vật-Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) theo định hướng giáo dục STEM cho học sinh hệ giáo dục thường xuyên

Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề “sinh trưởng của vi sinh vật-Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) theo định hướng giáo dục STEM cho học sinh hệ giáo dục thường xuyên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
48 
Email: hongtutn@gmail.com 
THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC CHỦ ĐỀ “SINH TRƯỞNG CỦA VI SINH VẬT 
- NHÂN GIỐNG NẤM MEN” (SINH HỌC 10) THEO ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC STEM 
CHO HỌC SINH HỆ GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN 
Phạm Thị Hồng Tú, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 
Ngọc Mạnh Huân, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn 
Ngày nhận bài: 20/01/2019; ngày sửa chữa: 14/02/2019; ngày duyệt đăng: 20/02/2019. 
Abstract: STEM education is one of the teaching directions to develop the competency to apply 
interdisciplinary knowledge to solve practical problems. Derived from local practice in Cho Don 
district (Bac Kan), Saccharomyces cerevisiea is a microorganism that is used by many people to 
produce products such as pie leaven, sticky wine and ethyl wine..., we built the topic “Breeding 
Saccharomyces Cerevisiea (making Saccharomyces Cerevisiea cake)” to organize teaching for 
students of the regular education system. Through learning this STEM lesson, students experience 
practical, occupy knowledge actively, participate in technical processes to solve problems and apply 
solutions to change practical under the direction of teachers. Thereby students have more motivation, 
interest in learning, actively exploring subject knowledge and develop their own competencies. 
Keywords: STEM education, Breeding Saccharomyces Cerevisiea, microorganism. 
1. Mở đầu 
Dạy học theo định hướng Giáo dục STEM là một trong 
những xu hướng giáo dục được coi trọng ở nhiều quốc gia 
trên thế giới và được đặc biệt quan tâm trong đổi mới giáo 
dục phổ thông của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, giáo dục 
STEM được đề cập đến là một trong những hướng dạy học 
phát triển năng lực, trong đó nhấn mạnh năng lực vận dụng 
kiến thức các lĩnh vực như Khoa học (S), Công nghệ (T), 
Kĩ thuật (E) và Toán học (M) để giải quyết các vấn đề thực 
tiễn. Giáo dục STEM được đề cập trong nhiều lĩnh vực 
như giáo dục Toán học, giáo dục Khoa học tự nhiên, giáo 
dục Công nghệ và tin học. “Giáo dục khoa học tự nhiên 
giúp học sinh dần hình thành và phát triển năng lực khoa 
học tự nhiên qua quan sát và thực nghiệm, vận dụng tổng 
hợp kiến thức, kĩ năng để giải quyết các vấn đề trong cuộc 
sống; đồng thời cùng với các môn Toán, Vật lí, Hoá học, 
Sinh học, Công nghệ, Tin học thực hiện giáo dục STEM” 
[1] . Tuy nhiên, việc dạy học môn học theo định hướng 
giáo dục STEM còn gặp rất nhiều khó khăn, trong đó có 
khó khăn về nhận thức của giáo viên (GV) về giáo dục 
STEM cũng như khó khăn về điều kiện thực hiện. Vì vậy, 
việc hỗ trợ các GV trong việc tổ chức dạy học môn học 
theo định hướng Giáo dục STEM cho học sinh nói chung 
và học viên (HV) ở các trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - 
Giáo dục thường xuyên (viết tắt là trung tâm GDNN-
GDTX) nói riêng có ý nghĩa cấp thiết, góp phần đáp ứng 
được yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông trong giai 
đoạn hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Khái quát về giáo dục STEM 
STEM là cách viết lấy chữ cái đầu tiên trong tiếng 
Anh của các từ Science (Khoa học), Technology (Công 
nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Maths (Toán học) [2]. 
Giáo dục STEM là phương pháp tiếp cận, khám phá 
trong giảng dạy và học tập giữa hai hay nhiều hơn các 
môn học STEM, hoặc giữa một chủ đề STEM và một 
hoặc nhiều môn học khác trong nhà trường. Có nhiều 
hình thức tổ chức giáo dục STEM như dạy học các môn 
học thuộc lĩnh vực STEM; tổ chức các hoạt động trải 
nghiệm STEM; hoạt động nghiên cứu khoa học [3]. 
Trong giới hạn bài báo, chúng tôi đề cập đến hình thức 
dạy học các môn học thuộc lĩnh vực STEM, trong đó 
trọng tâm là xây dựng chủ đề, bài học, hoạt động STEM 
bám sát chương trình của môn học. Từ nội dung môn học 
có thể thiết kế theo các chủ đề, bài học STEM và được tổ 
chức dạy học nhiều cách khác như có thể được dạy trong 
một môn học duy nhất, có thể được dạy trong nhiều môn 
học hoặc chủ đề STEM nhiều môn phối hợp nhau [4]. 
2.2. Sự phù hợp của dạy học môn học theo định hướng 
giáo dục STEM tại các trung tâm Giáo dục nghề 
nghiệp - Giáo dục thường xuyên 
Trong công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm 
học 2018-2019 đối với GDNN-GDTX do Bộ GD-ĐT đã 
chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát 
triển năng lực nhằm tạo động cơ và hứng thú học tập cho 
HV, khuyến khích GV sử dụng các phương pháp tích cực, 
đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy 
tính chủ động sáng tạo và tự học của HV” [5]. Dạy học 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
49 
theo định hướng giáo dục STEM là một trong những 
hướng đổi mới, trong đó chú trọng đến phát triển toàn diện, 
hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học, bắt 
đầu từ việc tạo sự hứng thú đến việc tạo điều kiện, tạo cơ 
hội để HV chủ động, sáng tạo trong các khâu: lựa chọn 
vấn đề giải quyết cho đến việc đề xuất phương án và thực 
hiện các phương án giải quyết vấn đề (GQVĐ). Ngoài ra, 
giáo dục STEM còn góp phần định hướng nghề nghiệp 
cho HV: HV GDNN-GDTX là đối tượng vừa học văn hóa 
vừa có thể học nghề. Do đó, khi thực hiện các hoạt động 
trong bài học STEM, HV nhận thức những ưu, nhược 
điểm của bản thân rõ hơn, thấy được xu hướng nghề 
nghiệp tốt hơn, từ đó giúp cho việc đặt mục tiêu và lựa 
chọn nghề nghiệp của bản thân hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, 
dạy học theo định hướng giáo dục STEM còn giúp HV có 
thể vận dụng kiến thức thuộc các lĩnh vực STEM để áp 
dụng vào thực tiễn như: làm men, nấu rượu, trồng chè, làm 
tương từ đó giúp giảm thời gian, công sức sản xuất và 
tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. 
Môn Sinh học là môn học gồm các kiến thức ứng 
dụng thực tiễn, đặc biệt là phần Sinh học vi sinh vật 
(VSV), Sinh học 10. Phần Sinh học VSV gồm các nội 
dung nghiên cứu về đối tượng VSV và ứng dụng của 
VSV trong thực tiễn, là các vấn đề về trao đổi chất và 
chuyển hoá năng lượng ở VSV, sinh trưởng và sinh sản 
của VSV. Những hiểu biết trên là cơ sở để ứng dụng công 
nghệ VSV trong sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu 
của đời sống con người, như sản xuất sinh khối VSV, 
ứng dụng các quá trình lên men VSV, Vì vậy, nội dung 
phần Sinh học VSV thích hợp cho việc tổ chức dạy học 
theo định hướng giáo dục STEM cho HV ở các trung tâm 
GDNN-GDTX. 
2.3. Dạy học chủ đề “Sinh trưởng của vi sinh vật - 
Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) ở Trung tâm 
Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên huyện 
Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn 
2.3.1. Thiết kế kế hoạch dạy học chủ đề “Sinh trưởng của 
vi sinh vật - Nhân giống nấm men” (Sinh học 10) theo 
định hướng giáo dục STEM 
Việc xây dựng chủ đề, bài học STEM dựa trên 6 tiêu 
chí cơ bản [3]: 1) Chủ đề, bài học STEM tập trung vào 
các vấn đề thực tiễn; 2) Cấu trúc bài học STEM theo quy 
trình thiết kế kĩ thuật; 3) Phương pháp dạy học bài học 
STEM đưa HV vào các hoạt động tìm tòi khám phá, định 
hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm; 4) Hình thức 
tổ chức bài học STEM lôi cuốn HV vào hoạt động nhóm 
kiến tạo; 5) Nội dung bài học STEM áp dụng chủ yếu từ 
nội dung Khoa học và Toán học đã và đang học; 6) Tiến 
trình bài học STEM tính đến nhiều đáp án đúng và coi sự 
thất bại như là một phần cần thiết trong học tập. Trên cơ 
sở 6 nguyên tắc xây dựng bài học STEM, chúng tôi thiết 
kế kế hoạch dạy học cho bài học STEM với chủ đề “Sinh 
trưởng của VSV - Nhân giống nấm men”. 
* Quy trình thiết kế kế hoạch dạy học cho bài học 
STEM: Trên cơ sở nghiên cứu quy trình xây dựng bài 
học STEM của các tác giả [2], [4], [6], [7], chúng tôi đưa 
ra quy trình thiết kế kế hoạch dạy học cho bài học STEM 
cho chủ đề “Sinh trưởng của VSV - Nhân giống nấm 
men” gồm các bước như sau (hình 1): 
Hình 1. Quy trình thiết kế kế hoạch dạy học 
cho bài học STEM 
* Vận dụng quy trình thiết kế kế hoạch dạy học cho 
bài học STEM với chủ đề “Sinh trưởng của VSV - 
Nhân giống nấm men”: 
- Bước 1: Xác định chủ đề STEM 
Từ việc phân tích nội dung kiến thức trong chương 
trình môn học, xác định các vấn đề thực tiễn có liên quan 
đến các hiện tượng, quá trình, cơ chế trong chương trình 
(ưu tiên những vấn đề thực tiễn liên quan đến địa 
phương). Căn cứ vào điều kiện thực tế của cơ sở giáo dục 
và căn cứ vào khả năng của các HV để lựa chọn bài học 
và chủ đề của bài học STEM. Phần Sinh học VSV nghiên 
cứu các VSV, trong đó nấm men là đối tượng được người 
dân ở địa phương huyện Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn) ứng 
dụng nhiều để sản xuất nhiều sản phẩm ứng dụng. Vì 
vậy, nếu HV được học, được làm, được sáng tạo trong 
các khâu ứng dụng liên quan đến nấm men thì rất có ý 
nghĩa, vừa giúp các HV hứng thú trong học tập, vừa giúp 
hình thành phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của đổi 
mới giáo dục phổ thông, đồng thời góp phần định hướng 
nghề nghiệp. Từ những phân tích trên, chúng tôi lựa chọn 
bài học “Sinh trưởng của VSV” và xác định chủ đề 
STEM là “Nhân giống nấm men”, trong đó lựa chọn 
việc nhân giống nấm men bằng hình thức Làm bánh men 
chuẩn bị nấm men giống làm thức ăn cho người, thức ăn 
trong chăn nuôi và sản xuất rượu etilic. 
- Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết của chủ đề 
STEM 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
50 
Đây là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, xác định 
được vấn đề cần giải quyết là vấn đề trọng tâm. Kết quả 
của việc xác định được vấn đề cần giải quyết chính là đưa 
ra được các câu hỏi nghiên cứu, từ các câu hỏi/vấn đề 
nghiên cứu này, GV tổ chức cho HV giải quyết từng câu 
hỏi/vấn đề nhỏ để ra sản phẩm cuối cùng có thể là một 
giải pháp, một bản thiết kế hoặc một sản phẩm thiết kế. 
Với chủ đề “Sinh trưởng của VSV - Nhân giống nấm 
men” thì các câu hỏi nghiên cứu cần giải quyết chính là: 
Vì sao cần phải sản xuất bánh men (hoặc bánh men lá)? 
Việc sản xuất bánh men tiến hành như thế nào? Để làm 
được bánh men hoặc bánh men lá thì cần vận dụng những 
kiến thức nào? Việc sản xuất bánh men truyền thống 
thường gặp những khó khăn gì?... 
- Bước 3: Xác định mục tiêu bài học STEM, dự kiến 
các sản phẩm 
Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết/sản phẩm 
cần chế tạo, cần xác định rõ mục tiêu cần đạt được và dự 
kiến các sản phẩm có thể được tạo thành (bảng 1). 
- Bước 4: Xác định những yếu tố thực hiện bài học 
STEM 
* Yếu tố về kiến thức được sử dụng thuộc các lĩnh vực 
liên quan để GQVĐ (bảng 2). 
* Yếu tố về điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện 
GQVĐ: Các nguyên liệu, vật liệu và thiết bị để thực hiện. 
- Bước 5: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học 
Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế 
theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực với 
các loại hoạt động học (Hoạt động tìm hiểu thực tiễn, 
phát hiện vấn đề; Hoạt động nghiên cứu kiến thức nền; 
Hoạt động GQVĐ). Mỗi hoạt động học được thiết kế rõ 
ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm học tập mà học 
sinh phải hoàn thành. Các hoạt động học đó có thể được 
tổ chức cả ở trong và ngoài lớp học (ở trường, ở nhà và 
cộng đồng). Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy - hoạt 
động học được thể hiện ở bảng 1. 
- Bước 6: Đánh giá điều chỉnh cho phù hợp 
2.3.2. Tổ chức dạy học chủ đề “Sinh trưởng của VSV - 
Nhân giống nấm men” heo định hướng giáo dục STEM 
Tổ chức dạy chủ đề “Sinh trưởng của VSV - Nhân 
giống nấm men” theo định hướng giáo dục STEM thực 
chất là triển khai các hoạt động dạy và học theo kế hoạch 
đã thiết kế nhằm đạt được mục tiêu của bài học đã đặt ra. 
Việc tổ chức dạy học chủ đề này được tiến hành trong 
theo các hoạt động chính sau (bảng 3): 
Bảng 1. Mục tiêu và dự kiến sản phẩm bài học STEM 
Mục tiêu Dự kiến sản phẩm 
* Kiến thức: - Xác định được môi trường nuôi cấy nấm men; kiểu dinh 
dưỡng của nấm men; kiểu hô hấp; - Nêu được khái niệm sinh trưởng của 
quần thể VSV; Phân biệt được đặc điểm và ưu nhược điểm của sự sinh 
trưởng của quần thể VSV trong điều kiện nuôi cấy liên tục và nuôi cấy 
không liên tục; - Chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng sinh 
sản của VSV nói chung và của nấm men nói riêng. 
HV xác định được các kiến thức có 
liên quan đến sinh trưởng của VSV 
* Kĩ năng: Đề xuất được giải pháp trong việc ủ bánh men; Thiết kế được 
giá/tủ ủ bánh men từ nguyên liệu sẵn có; Đề xuất được quy trình làm 
bánh men. Vận dụng quy trình và sử dụng những nguyên liệu tự nhiên 
để làm được bánh men. 
Quy trình làm bánh men; Bản thiết kế 
giá ủ bánh men; Giá ủ bánh men; Bánh 
men lá. 
* Thái độ: Tăng hứng thú tìm hiểu, khám phá khoa học gắn liền với thực tiễn; tăng sự đoàn kết, hợp tác trong 
công việc để hoàn thành nhiệm vụ. 
* Năng lực được hình thành: Năng lực GQVĐ; năng lực vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn. 
Bảng 2. Những yếu tố về kiến thức được sử dụng trong các lĩnh vực 
STT Lĩnh vực Kiến thức 
1 Sinh học 
Phần VSV (Sinh học 10): Dinh dưỡng, chuyển hoá vật chất và năng lượng ở sinh vật; 
Quá trình phân giải các chất ở VSV; Sinh trưởng của VSV và các yếu tố ảnh hưởng 
đến sinh trưởng của VSV 
2 Kĩ thuật Xây dựng được quy trình sản xuất men lá; Thực hiện được các thao tác thiết kế 
3 Công nghệ Phần I: Vẽ kĩ thuật (Công nghệ 11) 
4 Toán học 
1. Xác định tỉ lệ các loại nguyên liệu. 
2. Xác định kích thước các vật liệu để chế tạo tủ ủ men mini 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
51 
Bảng 3. Hoạt động tổ chức dạy chủ đề “Sinh trưởng của VSV - Nhân giống nấm men” 
theo định hướng giáo dục STEM 
Hoạt động của GV 
Hoạt động của HV - 
Dự kiến sản phẩm 
Mục tiêu 
Hoạt động 1. Hoạt động tìm hiểu thực tiễn, phát hiện vấn đề (Thời gian 5 phút của tiết trước) 
- GV tổ chức cho HS chơi trò chơi “Đoán 
ý đồng đội”: GV cung cấp cho HV bát 
rượu nếp (Là sản phẩm của 1 nhóm HV 
làm từ bài trước) và nhiệm vụ của HV này 
là quan sát, nếm, ngửi sản phẩm và mô tả 
cho đồng đội để đồng đội đoán tên sản 
phẩm. 
- GV phỏng vấn HV: Về tác dụng của rượu 
nếp nói riêng và sản phẩm lên men nói 
chung trong đời sống, trong sản xuất kinh 
doanh và trong bối cảnh nhiều người sử 
dụng rượu cồn công nghiệp gây ngộ độc 
- Vấn đề đặt ra: 1) Cơm rượu nếp là sản 
phẩm ứng dụng của VSV nào? 2) Để làm 
được cơm rượu nói chung, cần sử dụng 
những nguyên liệu chính nào và sử dụng 
loại VSV nào? Làm cách nào để có thể 
nhân giống được loại VSV đó? 
GV kết luận vấn đề: Bánh men là gì? 
Cách tiến hành làm bánh men như thế 
nào? 
- GV tiếp tục cho HV quan sát, sờ, ngửi 
bánh men chứa nấm 
men giống và 
phỏng vấn hiểu biết 
của HV về bánh 
men (vai trò của 
bánh men, loại VSV trong bánh men, 
nguyên liệu làm bánh men). 
- GV đặt vấn đề: Từ một vài bánh men, làm 
thế nào để tạo ra hàng trăm bánh men cho 
nhiều người được sử dụng? 
- Giao nhiệm vụ HV (hoạt động cá nhân) 
về nhà: 1) Tìm hiểu cách tạo ra bánh men 
lá; 2) Báo cáo quy trình làm bánh men; 3) 
Chỉ ra được những khó khăn của việc sản 
xuất bánh men ở nhà dân; 4) Đặt các câu 
hỏi thắc mắc liên quan. 
HV tham gia trò chơi: Đoán ý đồng 
đội. 
- HV chia sẻ thông tin hiểu biết của 
cá nhân về tác dụng của sản phẩm lên 
men từ VSV có tên nấm men: dùng 
là ... vụ 2: 
* Nghiên cứu Sách giáo khoa và tìm 
câu trả lời: 
+ Có các kiểu hô hấp: Hô hấp hiếu 
khí, hô hấp kị khí; Nấm men thuộc 
nhóm hô hấp Kị khí không bắt buộc. 
Để tạo được nhiều sinh khối nấm 
men nhất thì nên tạo điều kiện hiếu 
khí. 
* HV nghiên cứu hình 25 sách giáo 
khoa và nghiên cứu nội dung mục 
II.1 để xác định được: Sự sinh trưởng 
của quần thể VSV nói chung và của 
nấm men nói riêng trông điều kiện 
nuôi cấy không liên tục trải qua 4 
pha. 
- HV chỉ ra: Nấm men sinh trưởng 
trên môi trường chứa 50-60% 
glucoza; Nhiệt độ thích hợp để nấm 
men phát triển là 28-30oC; pH thích 
hợp = 4,5-5,5. 
Gắn kiến thức thực tiễn với 
bài học 
- HV xác định được kiến 
thức: 
+ Phân biệt được hô hấp và 
lên men, từ đó xác định 
được để sản xuất sinh khối 
nấm men cần tạo điều kiện 
hiếu khí. 
- HV trình bày được khái 
niệm sinh trưởng của quần 
thể VSV; 
- Xác định được đường 
cong sinh trưởng của quần 
thể VSV gồm 4 pha và nên 
thu sinh khối ở cuối pha lũy 
thừa đầu pha cân bằng. 
- HV xác định được các 
điều kiện thuận lợi cho nấm 
men phát triển. 
Nuôi cấy hiếu 
khí 
Nuôi cấy kị 
khí 
Sản phẩm chủ 
yếu là sinh 
khối 
Thu được ít 
sinh khối 
CO2 là sản 
phẩm thứ cấp 
Còn lại là CO2, 
một số sản 
phẩm trao đổi 
chất (ethanol) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
53 
- Vai trò của gạo cung cấp môi trường 
chứa glucoza và vitamin B1; các loại 
lá thuốc có tác dụng cung cấp dưỡng 
chất, vừa ức chế VSV bất lợi, vừa 
giúp kích thích nấm men phát triển; 
thoáng khí tạo điều kiện hô hấp hiếu 
khí của nấm men 
KẾT LUẬN: 1) Khái niệm sinh trưởng của VSV; 2) Đặc điểm sinh trưởng của VSV trong điều kiện nuôi cấy 
không liên tục (đường cong sinh trưởng gồm 4 pha); 3) Đặc điểm sinh trưởng của VSV trong điều kiện nuôi cấy 
liên tục; 4) Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của VSV (nhân tố kích thích, yếu tố ức chế). 
Hoạt động 3. Hoạt động GQVĐ - Thực hiện trên lớp tiết 2, 3 
1. Đề xuất giải pháp (Thực hiện 20 phút) 
Nhiệm vụ 3: Trên cơ sở có những kiến thức 
liên quan đến quy trình làm bánh men, từ 
những khó khăn của làm bánh men ở nhà 
dân là tốn diện tích, không chủ động về 
nhiệt độ, thời gian, hãy đề xuất các giải 
pháp khắc phục các khó khăn? 
- GV yêu cầu HS tự thiết kế giá ủ men theo 
sở thích hoặc GV đưa ra bài toán tình 
huống để định hướng HV: Biết rằng 1 bánh 
men khối cầu có đường kính 4cm. Khi ủ 
men, các bánh men xếp cách nhau 1cm. 
Em hãy đưa ra giải pháp để ủ hết 200 bánh 
men vào diện tích 0,25m2. 
- GV đặt vấn đề: Nếu ủ men bằng cách xếp 
trên nong thì vào mùa đông, nhiệt độ 
xuống thấp lại không ủ men được. Em hãy 
đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng trên. 
- Phỏng vấn HV về lợi ích và khó khăn khi 
sử dụng máy ấp trứng để điều hòa nhiệt độ. 
- GV yêu cầu HV đưa ra bản vẽ thiết kế 
tủ/giá ủ men từ những vật liệu đơn giản, dễ 
kiếm. 
- HV thảo luận và đề xuất những giải 
pháp khắc phục các khó khăn trong 
làm bánh men: Làm giá để ủ bánh 
men hoặc làm thùng ủ bánh men 
- HV: dựa vào kiến thức toán học và 
thảo luận để tìm ra giải pháp. 
- HV tính được: 1 bánh men khi ủ sẽ 
chiếm diện tích là: (4 + 1) x (4 + 1) = 
25cm2 = 0,0025m2 ; Với diện tích 
0,25m2 sẽ xếp được số men là: 0,25 : 
0,0025 = 100 bánh men; Số men còn 
dư là: 200 – 100 = 100 bánh men => 
Còn thiếu 0,25m2 nữa nên làm giá 2 
tầng. 
- HV đưa ra giải pháp sao cho môi 
trường ủ men có nhiệt độ thích hợp 
để nấm men sinh sản tốt: Để vào chỗ 
ủ những chai nước ấm 30-35oC hoặc 
gắn vào giá/tủ ủ máy ấp trứng CNE 
6... 
- HV giải thích những lợi ích của máy 
ấp trứng: Đảm bảo nhiệt độ thích 
hợp, ổn định nhiệt độ, độ ẩm và sự 
thoáng khí theo yêu cầu. 
- HV Xác định kích thước giá: Dựa 
vào kích thước hộp xốp HV thiết kế 
giá ủ men 2 tầng với kích thước: Diện 
tích mặt giá là: 55x55cm; Chiều cao 
là 30cm, mỗi tầng của giá cao 15cm. 
- Vẽ mô hình giá đựng khay. 
- HV đề xuất được giải pháp 
khắc phục. 
- HV đưa ra được phương 
án giải quyết: Thiết kế giá 2 
tầng, mỗi tầng có diện tích 
khay đựng là 0,25m2 nhằm 
tận dụng không gian chiều 
cao và chủ động về nhiệt độ 
- HV vẽ được mô hình giá ủ 
men (hình 2): 
Hình 2. Bản vẽ giá ủ men 
2. Thực hiện giải pháp/thực hiện thiết kế giải pháp (65 phút trên lớp) 
(1) Thiết kế tủ/giá để ủ bánh men - HV: Các nhóm thảo luận, thống 
nhất cách làm, phân công nhiệm vụ 
HV thiết kế được: thùng 
xốp, giá ủ men, khay ủ men, 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
54 
- GV chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các 
nhóm thiết kế giá/ tủ ủ men từ những 
nguyên liệu sẵn có. 
- GV có thể gợi ý cách thiết kế tủ ủ men từ 
nguyên liệu trên theo các bước sau: Chuẩn 
bị một thùng xốp làm vỏ tủ ủ men (với 
nhóm thiết kế giá ủ men không cần làm vỏ 
tủ); thiết kế giá ủ men; chuẩn bị khay ủ 
men; lắp máy điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm 
và thông khí (có nhóm đề xuất gắn chai 
nước) vào thùng xốp (hoặc giá); tạo tủ 
(giá) ủ men hoàn chỉnh. 
 - Tiêu chí của tủ ủ men: Đơn giản, dễ thực 
hiện, tiết kiệm; tạo được nhiệt độ và độ ẩm 
thích hợp cho nấm men sinh trưởng; tránh 
được sự tấn công của những sinh vật gây 
hại; giúp nấm men sinh trưởng tốt nhất và 
chất lượng đảm bảo. 
thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ 
được giao. 
- Nhóm HV thực hiện nhiệm vụ thiết 
kế giá ủ bánh men từ những vật liệu 
sẵn có. 
- Nhóm HV thực hiện nhiệm vụ thiết 
kế tủ ủ bánh men. 
gắn bộ phận tạo nhiệt độ 
phù hợp (hình 3). 
Hình 3. Sản phẩm thiết kế 
của HV 
(2) Làm bánh men 
- GV: Từ quy trình làm bánh men của các 
nhóm báo cáo, GV tổ chức cho HV phân 
tích và chọn 1 quy trình phù hợp để thảo 
luận. Nhiệm vụ đặt ra là từ quy trình đã 
chọn, các HV có thể đề xuất phương án cải 
tiến và đưa ra lí do của sự cải tiến đó. 
- GV yêu cầu HV tự xác định nguyên liệu 
cho việc làm bánh men của mỗi nhóm 
hoặc GV đưa ra bài tập để định hướng HV: 
Để sản xuất 25 bánh men lá đường kính 4 
cm người ta cần 1kg gạo, người ta cần 1kg 
thuốc lá cây, 50gam men giống, 50 gam 
bột riềng khô, 3 lít nước, 1 nồi đun có dung 
tích 1,5-2 lít. Vậy để sản xuất 200 bánh 
men lá thì các nguyên liệu và dụng cụ như 
thế nào? 
- HV: Các nhóm thực hiện nhiệm vụ 
được giao. 
(1) Đề xuất một số phương án cải 
tiến: 
+ Thay vì ngâm gạo bằng nước lã thì 
ngâm gạo bằng nước đun sôi để 
nguội - Loại bỏ được một số VSV có 
hại trong nước lã. 
+ Bổ sung bột riềng khô - Tạo mùi 
thơm, tiêu diệt một số VSV gây hại, 
tạo điều kiện phù hợp cho nấm men 
phát triển. 
- HV: dựa vào kiến thức toán học để 
xác định tỉ lệ các thành phần nguyên 
liệu. 
-HV thực hiện các thao tác chính: cân 
bột, nặn bánh, cấy giống, xếp vào 
HV xây dựng quy trình sản 
xuất bánh men dựa trên quy 
trình đã có (hình 4) 
Hình 4. Sơ đồ quy trình 
làm bánh men 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
55 
- GV tổ chức các nhóm sản xuất bánh men 
theo quy trình đã xây dựng và thống nhất 
(một số việc GV phải chuẩn bị trước: Bột 
đã nghiền, lá thuốc đã đun). 
- Tiêu chuẩn của men thành phẩm là: Men 
phải giữ được độ sáng của bột gạo, có 
nhiều vân trông đẹp mắt và có mùi thơm 
đặc trưng. Khi ủ với nguyên liệu để nấu 
rượu phải tạo được bỗng rượu thơm đặc 
trưng. 
khay/giá để ủ. Bước tiếp theo là ủ, 
phơi tiến hành sau giờ học (vì cần đủ 
thời gian). 
 (2) Các nhóm làm bánh men theo 
quy trình đã xây dựng. 
- HV thực hiện giải pháp: 
Sản phẩm là bánh men 
(hình 5): 
Hình 5. Bánh men 
Hoạt động 4. Định hướng nghiên cứu cho phần tiếp theo (5 phút trên lớp) 
GV định hướng mở rộng nghiên cứu (dành 
cho một số HS ham sáng tạo): Cách làm 
bánh men là ứng dụng của loại nuôi cấy 
VSV nào? Chỉ ra hạn chế của nuôi cấy 
không liên tục? Có thể nghiên cứu đề xuất 
cách nhân giống nấm men theo mô hình 
nuôi cấy liên tục được không? Đưa ra 
nguyên liệu và quy trình sản xuất nấm men 
giống theo mô hình nuôi cấy liên tục. 
- HV xác định được là nuôi cấy 
không liên tục và chỉ ra hạn chế của 
nuôi cấy không liên tục. 
 - Những HV ham nghiên cứu tiếp tục 
đi tìm hiểu cách nhân giống nấm men 
theo mô hình nuôi cấy liên tục để 
tăng năng suất nhân giống nấm men. 
- Những HV đam mê 
nghiên cứu được tiếp tục 
sáng tạo. 
Hoạt động 5. Thảo luận và báo cáo kết quả (đầu giờ của tiết học tuần sau) điều chỉnh thiết kế 
GV tổ chức cho HV báo cáo sản phẩm 
bánh men đã làm từ giờ trước. Thảo luận 
đánh giá sản phẩm thông qua việc quan sát, 
ngửi và xin ý kiến đánh giá của nghệ 
nhân. 
-Yêu cầu HV so sánh 4 sản phẩm: (1) Bánh 
men được ủ bằng tủ ủ có gắn máy ấp trứng 
CNE 6; (2)Bánh men được ủ từ giá ủ có 
gắn máy ấp trứng CNE 6; (3)Bánh men 
được ủ bằng giá ủ có gắn chai nước tạo 
nhiệt; (3)Bánh men được ủ bằng giá ủ bánh 
men có gắn máy ấp trứng CNE 6. 
Thông qua việc so sánh yêu cầu HV tự 
điều chỉnh thiết kế cho hiệu quả nhất. 
HV báo cáo sản phẩm, so sánh chất 
lượng của 4 sản phẩm, thảo luận 
nguyên nhân thành công và chưa 
thành công từ đó điều chỉnh thiết kế 
cho phù hợp. 
- HV được rèn luyện kĩ 
năng báo cáo, đánh giá sản 
phẩm. 
- HV rèn luyện được kĩ 
năng so sánh phân tích. 
- HV được điều chỉnh 
thiết kế. 
2.4. Những khó khăn khi thực hiện bài học STEM ở trung 
tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên 
Thực tế khi tiến hành tổ chức dạy học theo định hướng 
giáo dục STEM tại trung tâm GDTX gặp nhiều khó khăn 
như: 1) Chất lượng đầu vào của HV còn thấp do phần lớn 
các em không thi được vào các trường công lập hoặc do 
hoàn cảnh gia đình khó khăn; 2)Nhiều em ngoài giờ học 
còn phải phụ giúp gia đình lao động sản xuất. Những em 
nhà xa phải đi trọ học thiếu sự quản lí của gia đình nên 
cũng ảnh hưởng đến việc học; 3) Cơ sở vật chất phục 
vụ cho dạy văn hóa tại các trung tâm còn thiếu nhiều. Chưa 
có phòng thí nghiệm, thực hành cho các môn học; 4) Các 
môn học văn hóa tại trung tâm là các môn học để thi tốt 
nghiệp và thi chuyên nghiệp do đó HV không được học 
môn Công nghệ, vì vậy việc hướng dẫn HV vẽ các bản 
thiết kế cũng như chuyển từ bản thiết kế sang thiết kế sản 
phẩm gặp nhiều khó khăn; 5) GV dạy văn hóa chưa được 
tập huấn chuyên môn về dạy học theo định hướng giáo dục 
STEM. Mặt khác, mỗi môn học văn hóa tại các trung tâm 
thường chỉ có một GV giảng dạy nên việc trao đổi kinh 
nghiệm chuyên môn rất khó khăn. Từ những lí do trên dẫn 
đến việc áp dụng phương pháp dạy học mới theo định 
hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học gặp nhiều 
khó khăn, trong đó có việc thực hiện bài học theo định 
hướng giáo dục STEM. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 48-56 
56 
3. Kết luận 
Giáo dục STEM là một định hướng giáo dục có ý nghĩa 
quan trọng trong việc tạo hứng thú, động cơ học tập cho HV 
cũng như có giá trị quan trọng trong hình thành và phát triển 
năng lực cho người học. Trong bài học STEM với chủ đề 
“Sinh trưởng của VSV - Nhân giống nấm men”, HV 
được đặt trước một vấn đề thực tiễn có liên quan đến các 
kiến thức khoa học của phần VSV để GQVĐ, HV được trải 
nghiệm thực tiễn, HV được tìm tòi, nghiên cứu những kiến 
thức thuộc các môn học có liên quan, HV được tham gia 
vào quy trình công nghệ dưới sự cố vấn, định hướng của 
GV để GQVĐ và có thể vận dụng các giải pháp vào cải biến 
thực tiễn. Với phong cách học tập mới này, HV ở trung tâm 
GDNN-GDTX rất hứng thú, từ đó các em có thêm động cơ 
trong học tập cũng như phát triển được năng lực của bản 
thân. Tuy nhiên, việc dạy học môn học theo định hướng 
giáo dục STEM ở các trung tâm GDNN-GDTX còn gặp 
nhiều khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng đồng bộ của cả 
lãnh đạo, GV và HV của trung tâm, trong đó đặc biệt là GV 
trong việc nâng cao sự hiểu biết về giáo dục STEM nói 
chung và sự đầu tư cả trí lực trong việc thiết kế và tổ chức 
dạy học các chủ đề theo định hướng giáo dục STEM. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ 
thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo 
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 
[2] Nguyễn Thanh Nga - Phùng Việt Hải - Nguyễn 
Quang Linh - Hoàng Phước Muội (2017). Thiết kế 
và tổ chức chủ đề giáo dục STEM cho học sinh trung 
học cơ sở và trung học phổ thông. NXB Đại học Sư 
phạm TP. Hồ Chí Minh. 
[3] Bộ GD-ĐT (2018). Tài liệu hội thảo định hướng 
giáo dục STEM trong trường trung học. 
[4] Lê Xuân Quang (2015). Giáo dục STEM - một giải 
pháp trong xây dựng, phát triển chương trình giáo 
dục phổ thông sau năm 2015. Tạp chí Giáo dục và 
Xã hội, số đặc biệt tháng 6/2015, tr 37-39. 
[5] Bộ GD-ĐT (2018). Công văn số 3846/BGDĐT-
GDTX ngày 28/8/ 2018 về hướng dẫn thực hiện 
nhiệm vụ năm học 2018-2019 đối với giáo dục 
thường xuyên. 
[6] Nguyễn Mậu Đức - Dương Thị Ánh Tuyết (2018). 
Dạy học chủ đề Axit - Bazo (hóa học 11) theo định 
hướng giáo dục STEM. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt 
tháng 8, tr 225-230. 
[7] Howard-Brown, B. - Martinez, D. (2012). Engaging 
Diverse Learners Through theProvision of STEM 
Education Opportunities. Southwest Educational 
DevelopmentLaboratory (SEDL). 
QUY TRÌNH XÂY DỰNG... 
(Tiếp theo trang 62) 
- Điều chỉnh chuẩn đánh giá NL môn Công nghệ: 
Trên cơ sở 6 mức độ phát triển từng thành tố của NL 
vừa được xác lập, tiến hành điều chỉnh lại chuẩn NL 
đã phác thảo. 
3. Kết luận 
Nghiên cứu và đề xuất quy trình xây dựng chuẩn 
đánh giá NL trong dạy học môn Công nghệ ở trường 
trung học phổ thông là cần thiết để từ đây có thể xây dựng 
chuẩn đánh giá NL cho từng NL thành phần cụ thể trong 
NL công nghệ. Kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận NL cần 
phải dựa trên chuẩn NL được xây dựng thì việc đổi mới 
theo hướng tiếp cận NL mới thành công. Quy trình xây 
dựng chuẩn đánh giá NL đã đề xuất sẽ góp phần tháo gỡ 
những khó khăn mà giáo viên gặp phải trong quá trình 
kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận NL của HS. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyên Lộc - Nguyễn Thị Lan Phương (2015). 
Phương pháp, kĩ thuật xây dựng chuẩn đánh giá 
năng lực đọc hiểu và năng lực giải quyết vấn đề. 
NXB Giáo dục Việt Nam. 
[2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ 
thông môn Công nghệ, ban hành kèm theo Thông tư 
số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ 
trưởng Bộ GD-ĐT. 
[3] Vũ Phương Liên - Trần Lan Anh - Nguyễn Thị Như 
Ngọc (2018). Xây dựng bộ công cụ đánh giá năng 
lực thích ứng nghề nghiệp của giáo viên mầm non. 
Tạp chí Giáo dục, số 422, tr 15-22. 
[4] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản toàn 
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế. 
[5] Trần Khánh Đức (2015). Năng lực và tư duy sáng 
tạo trong giáo dục đại học. NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
[6] Trần Khánh Đức (2017). Năng lực học tập và đánh 
giá năng lực học tập. NXB Đại học Bách khoa Hà 
Nội. 
[7] Nguyễn Văn khôi - Lê Ngọc Hòa (2015). Tiếp cận 
đào tạo năng lực - chiến lược phát triển năng lực 
thích ứng nghề cho sinh viên đại học ngành Công 
nghệ kĩ thuật điện. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện 
Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 113, tr 22-24. 

File đính kèm:

  • pdfthiet_ke_va_to_chuc_day_hoc_chu_de_sinh_truong_cua_vi_sinh_v.pdf