Thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đối với sản phẩm thủy sản chế biến
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố liên quan đến thị hiếu và thái độ của người tiêu
dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm thủy sản chế biến. Với 233 mẫu khảo sát, nghiên
cứu đã cho thấy lý do chính khiến người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm
thủy sản chế biến trong tương lai với các nhận định sau: thời gian nấu nướng trong tương
lai sẽ bị hạn chế hơn (62.9%), sản phẩm sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48,3%)
và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30,9%). Trong 95% người tiêu
dùng tại TP.HCM tiếp tục sử dụng sản phẩm thủy sản chế biến, 11% cho rằng sẽ sử dụng
các sản phẩm này nhiều hơn khi thu nhập tăng lên.
Từ khóa: thị hiếu, thái độ, sản phẩm thủy sản chế biến
Bạn đang xem tài liệu "Thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đối với sản phẩm thủy sản chế biến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đối với sản phẩm thủy sản chế biến
THỊ HIẾU VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI SẢN PHẨM THỦY SẢN CHẾ BIẾN TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố liên quan đến thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm thủy sản chế biến. Với 233 mẫu khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy lý do chính khiến người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm thủy sản chế biến trong tương lai với các nhận định sau: thời gian nấu nướng trong tương lai sẽ bị hạn chế hơn (62.9%), sản phẩm sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48,3%) và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30,9%). Trong 95% người tiêu dùng tại TP.HCM tiếp tục sử dụng sản phẩm thủy sản chế biến, 11% cho rằng sẽ sử dụng các sản phẩm này nhiều hơn khi thu nhập tăng lên. Từ khóa: thị hiếu, thái độ, sản phẩm thủy sản chế biến. ABSTRACT Preference and attitude of consumers in HCMC for processed aquatic products The aim of this study is to identify factors related to preference and attitudes of con- sumers in Ho Chi Minh City for processed aquatic products. Of 233 survey samples, the study found some main reasons why consumers think they will continue to use processed aquatic products in the future as the following comments: cooking time in the future will be more limited (62.9%), products will be more diverse, (easier to) better meet the hy- giene requirements (48.3%), food safety in the future (30.9%), and consumers think that they will use many products as incomes rise in the future (11%). Key words: preference, attitude, processed aquatic product. Nguyễn Minh Đức*, Đặng Thanh Liêm** * PGS.TS, Trường ĐH Văn Hiến ** ThS, Trường ĐH Văn Hiến 1. Khái quát Nước ta với hệ thống sông ngòi dày đặc và có đường biển dài hơn 3.260km, nên rất thuận lợi phát triển hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản. Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy trì tăng trưởng liên tục trong 17 năm qua với mức tăng bình quân là 9,07%/năm. Với chủ trương thúc đẩy phát triển của chính phủ, hoạt động nuôi trồng thủy sản đã có những bước phát triển mạnh, sản lượng liên tục tăng cao trong các năm qua, bình quân đạt 12,77%/năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng tổng sản lượng thủy sản của cả nước. Việt Nam đứng thứ tư thế giới về kim ngạch xuất khẩu thủy sản, và đứng thứ hai thế giới có số nhà máy chế biến thủy sản quy mô công nghiệp đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe khi xuất khẩu. Tuy nhiên, thị trường nội địa hiện đang chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu doanh thu của hầu hết các doanh nghiệp thủy sản (chưa tới 5%). Ở thị trường nội địa hơn 90 triệu dân với mức tiêu thụ thủy sản lên đến 27 kg/người/năm, các doanh nghiệp thủy sản lại bỏ ngỏ cung ứng, bỏ bê an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong thời gian qua một vài doanh nghiệp đạt mức tăng trưởng cao, nhưng hầu hết các doanh nghiệp thủy sản đều không chú trọng phát triển, mở rộng thị trường nội địa. Theo dự báo của Trung tâm Tư vấn và Quy hoạch phát triển thủy sản, giai đoạn 2011-2020, giá trị thủy sản chế biến tiêu thụ nội địa sẽ tăng bình quân 5,37%/ năm. Mức tiêu thụ trong nước năm 2015 được dự báo là 790.000 tấn, năm 2020 là 940.000 tấn. Trong đó, sản phẩm thủy sản đông lạnh chiếm trên 30%. Từ những thực tế trên, các tác giả thực hiện nghiên cứu về thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 14 SỐ 09 - THÁNG 11/2015 thủy sản chế biến để phát triển lĩnh vực đầy tiềm năng này. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Sản phẩm và phân loại sản phẩm Kotler và Armstrong (2011) định nghĩa “sản phẩm là mọi thứ có thể được đưa ra thị trường để thu hút sự chú ý, tiếp nhận, sử dụng, hoặc tiêu thụ và có khả năng thỏa mãn một nhu cầu/ đòi hỏi nào đó”. Theo đó, sản phẩm gồm có 3 cấp độ: (i) Giá trị khách hàng cốt lõi, (ii) Sản phẩm thực thụ và (iii) Sản phẩm được gia tăng giá trị. Trong đó: - Cấp độ căn bản nhất là giá trị khách hàng cốt lõi, là cái mà người mua thực sự mua, là những lợi ích chính yếu hoặc khả năng sản phẩm giúp họ giải quyết vấn đề của mình. - Cấp độ thứ hai là khi lợi ích cốt lõi biến thành sản phẩm thực thụ với các thành phần đặc điểm cụ thể mà người mua có thể cảm nhận bằng các giác quan của mình, bao gồm: đặc tính nổi bật, thiết kế/ kiểu dáng, bao bì, chất lượng, tên thương hiệu. - Cấp độ cuối cùng là khi sản phẩm được gia tăng giá trị bằng các dịch vụ và lợi ích gia tăng cho người tiêu dùng, bao gồm: dịch vụ hậu mãi, bảo hành, hỗ trợ sản phẩm, giao nhận và tín dụng. Sản phẩm được phân vào hai nhóm lớn dựa trên phân loại người sử dụng, gồm có sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp. Trong đó: (i) Sản phẩm tiêu dùng là sản phẩm được mua bởi người tiêu dùng cuối cùng cho mục đích cá nhân, thường được phân loại nhỏ hơn dựa trên cách người tiêu dùng mua chúng, bao gồm sản phẩm tiện ích, sản phẩm mua sắm, sản phẩm chuyên biệt và sản phẩm không được tìm đến. (ii) Sản phẩm công nghiệp là sản phẩm được mua để xử lý hoặc để sử dụng nhằm thực hiện công việc kinh doanh. Do đó, khác biệt giữa một sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp là dựa trên mục đích mua sản phẩm. 2.2. Thái độ và các thành phần của thái độ Thái độ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể, được hình thành trên cơ sở những tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay ý tưởng nào đó, những cảm giác do chúng gây ra và phương hướng hành động có thể có. Trong số các mô hình về thái độ, mô hình của Schiffman và Kanuk (2000) được sử dụng rất phổ biến, mô hình thái độ này gồm có ba thành phần cơ bản là: nhận thức, cảm xúc và xu hướng hành vi. Trong đó, thành phần nhận thức nêu lên sự nhận biết, kiến thức của người tiêu dùng về một sản phẩm nào đó. Nhận biết thể hiện ở dạng tin tưởng, hay nói cách khác người tiêu dùng tin rằng sản phẩm đó có những đặc trưng mà họ mong đợi. Thành phần cảm xúc đề cập mức độ hài lòng hay không hài lòng, yêu thích hay không yêu thích, thể hiện ở sự đánh giá. Người tiêu dùng sẽ đánh giá sản phẩm đó ở dạng tốt xấu, thân thiện, ác cảm Và thành phần xu hướng hành vi nêu lên xu hướng, dự định hành động của người tiêu dùng đối với sản phẩm theo hướng đã có nhận thức và cảm xúc. Ví dụ khi người tiêu dùng nhận biết được thực phẩm chế biến sẵn sẽ mang đến sự tiện lợi khi sử dụng và có đánh giá tốt về mặt hàng này sẽ có xu hướng mua sản phẩm đó về sử dụng. 2.3. Hành vi người tiêu dùng Hành vi của người tiêu dùng là một lĩnh vực nghiên cứu rất phức tạp bao gồm các nghiên cứu về thái độ, hành động, phản ứng của người tiêu dùng. Tuy nhiên, nó lại giúp cho các doanh nghiệp có thể xác định và dự đoán chính xác hành vi của người tiêu dùng để từ đó xây dựng các chiến lược kinh doanh phù hợp. Hành vi người tiêu dùng được xác định là: (1) Những hành động của con người trước, trong và sau khi mua sắm và tiêu dùng, (2) Hành vi người tiêu dùng có tính năng động và tương tác, nó chịu sự tác động từ môi trường và cũng có tác động ngược trở lại đối với môi trường ấy. Hoạt động nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng không chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu những hành động riêng lẻ, cụ thể của người tiêu dùng thực hiện trong quá trình mua sắm, tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ mà còn được mở rộng theo hướng tìm hiểu xu hướng thái độ của người tiêu dùng. 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng được chia làm bốn nhóm: các ảnh hưởng xã hội, các ảnh hưởng cá nhân, các ảnh hưởng marketing và các ảnh hưởng vị trí. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 15SỐ 09 - THÁNG 11/2015 Các yếu tố xã hội: Tầng lớp xã hội, văn hóa và ảnh hưởng nhóm tiêu dùng có ảnh hưởng đến mua hàng và quyết định mua hàng. Những ảnh hưởng này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đến tiến trình mua hàng. - Văn hóa là một trong những nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến nhu cầu, mong muốn và hành vi của người tiêu dùng. - Tầng lớp xã hội dựa trên sự giàu có, kỹ năng và năng lực con người. Sự khác biệt về tầng lớp xã hội biểu hiện ở những hành xử và những giá trị khác nhau mà những hành xử và những giá trị này ảnh hưởng đến hành vi của những cá nhân của nhóm tầng lớp đó. - Nhóm tham khảo bao gồm người thân và bạn bè, trong tổ chức hay những khuyến cáo từ chuyên gia. Nhóm tham khảo có ảnh hưởng mạnh hơn đối với những sản phẩm đại chúng, những sản phẩm mà sử dụng thì những người khác thấy được, giống như quần áo, xe cộ. Các yếu tố thuộc về cá nhân: Kotler và Arm- strong (2011, tr.177) cho rằng “Quyết định của người mua cũng bị chi phối bởi các yếu tố cá nhân, như tuổi tác và giai đoạn trong vòng đời, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, phong cách sống, tính cách và sự nhận thức về bản thân”. Trong đó: - Tuổi tác và giai đoạn trong vòng đời: thói quen mua sắm hàng hóa và sử dụng dịch vụ của con người thay đổi qua thời gian, hành vi mua hàng vì thế cũng thay đổi theo. - Nghề nghiệp: nghề nghiệp của người tiêu dùng ảnh hưởng đến sản phẩm và dịch vụ mà họ mua bởi vì nhu cầu liên quan đến nghề nghiệp là khác nhau. - Điều kiện kinh tế: điều kiện kinh tế của một cá nhân sẽ quyết định đến sản phẩm cũng như cửa hàng mà người đó lựa chọn. - Phong cách sống: những người có cùng địa vị và tầng lớp xã hội hay nghề nghiệp vẫn có thể có phong cách sống hoàn toàn khác nhau. Phong cách sống nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng của người tiêu dùng, bao gồm: Hành động (việc làm, thói quen, mua sắm, hoạt động thể thao, hoạt động xã hội), Sở thích (ăn uống, thời trang, gia đình, giải trí) và Quan điểm (về bản thân, các vấn đề xã hội, công việc, kinh doanh, sản phẩm). Tất cả đều có tác động đến hành vi mua hàng vì thứ mà người tiêu dùng mua không chỉ là sản phẩm, mà còn là giá trị cũng như phong cách sống mà sản phẩm này đại diện. - Tính cách và sự tự nhận thức: tính cách là những đặc điểm tâm lý để phân biệt một cá nhân, là nét đặc trưng của mỗi người nên sẽ ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người đó. Các yếu tố marketing: Mỗi yếu tố marketing mix (sản phẩm, giá cả, phân phối, chiêu thị) có thể ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng theo nhiều cách khác nhau: - Sản phẩm: nhiều thuộc tính của sản phẩm như: thương hiệu, chất lượng, tính mới mẻ, thời hạn sử dụng có thể ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng. - Giá cả: giá cả sản phẩm hay dịch vụ thường ảnh hưởng đến quyết định mua hàng dù cho người mua hàng có quan tâm hay không. Đôi khi người tiêu dùng cho rằng giá đắt liên quan đến hàng chất lượng cao. - Phân phối: phân phối sản phẩm ảnh hưởng đến người tiêu dùng bằng nhiều cách. Gia tăng khả năng có được sản phẩm đồng nghĩa với việc gia tăng cơ hội người tiêu dùng có thể tìm thấy và mua hàng. Những sản phẩm bán độc quyền trong những cửa hàng riêng biệt cũng có thể được cảm nhận là những sản phẩm có chất lượng cao. - Chiêu thị: quảng cáo, khuyến mãi bán hàng, người bán hàng và các hoạt động truyền thông có thể ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng hướng đến một sản phẩm riêng biệt nào đó. Những biện pháp truyền thông này là công cụ hữu hiệu để thông tin với người tiêu dùng, nơi mua hàng và tạo ra cảm nhận cũng như hình ảnh mong muốn về hàng hóa hay dịch vụ. Các yếu tố vị trí mua hàng: Những ảnh hưởng vị trí mua hàng bao gồm các nhân tố cụ thể về thời gian và nơi quan sát thấy mà ở đó sự hiện diện và trưng bày hệ thống ảnh hưởng đến hành vi hiện tại của người tiêu dùng. Vị trí có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi mua hàng nhưng cũng có thể chỉ tác động đến các yếu tố thuộc về hành vi. Ảnh hưởng của vị trí được chia thành năm loại: - Yếu tố vật chất xung quanh bao gồm địa điểm hiện trạng và địa lý, thiết kế, âm thanh, mùi vị, ánh sáng đèn, thời tiết và trưng bày hàng hóa hoặc các phụ liệu quảng cáo. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 16 SỐ 09 - THÁNG 11/2015 - Yếu tố xã hội xung quanh bao gồm những thể hiện của những người khác mà có thể ảnh hưởng đến hành vi của người mua hàng. - Bối cảnh thực tế nơi mua hàng ảnh hưởng đến hành vi mua hàng. Nó có thể từ thời gian mua hàng trong ngày cho đến mua trong năm. - Khái niệm về bổn phận liên quan đến mục đích hay những lý do có sự cam kết (trung thành) ở nơi mà người mua hàng tới mua. - Tình thế trước đó lôi cuốn người tiêu dùng mà trước đó họ chưa trải qua hoặc tồn tại. Những điều kiện hay tâm trạng xảy ra tức thời hay tạm thời. 2.5. Các mô hình hành vi người tiêu dùng Mô hình quá trình cảm nhận Cảm nhận là quá trình mà con người lựa chọn, tổ chức và giải thích thông tin để định dạng bức tranh mang ý nghĩa về những gì xảy ra chung quanh. Con người có thể có cảm nhận khác nhau với cùng một kích tác vì khác biệt đó có thể xảy ra ở một trong 3 bước của quá trình cảm nhận, gồm: chú ý có chọn lọc, bóp méo có chọn lọc và lưu giữ có chọn lọc. Để nghiên cứu sâu hơn về cảm nhận, Horward & Sheth (1969) đã trình bày mô hình giản lược hành vi người mua trong đó đi sâu vào xem xét hộp đen người mua như sau: Ở đây Horward & Sheth (1969) muốn chỉ ra rằng: mỗi sự cảm nhận của con người về kích tác sẽ qua quá trình cảm nhận để trở thành kiến thức mà người mua học được. Những kiến thức này có thể ảnh hưởng ngược trở lại cảm nhận của người mua ở lần sau khi tiếp xúc với kích tác cũ, có thể điều chỉnh cảm nhận về kích tác. Mô hình hành vi mua hàng Hàng ngày người tiêu dùng đưa ra rất nhiều quyết định mua hàng, và quyết định mua hàng chính là tâm điểm cho những nỗ lực của chuyên gia tiếp thị. Câu hỏi trung tâm của các nhà làm marketing là: Khách hàng đáp ứng như thế nào đối với các nỗ lực mà công ty sử dụng? Kotler & Amstrong (2011) đã giới thiệu mô hình kích thích - đáp ứng của hành vi mua hàng. Các kích thích marketing bao gồm bốn biến số của phối thức marketing là sản phẩm, giá, phân phối và chiêu thị. Những kích thích khác bao gồm những nhân tố và hiện tượng trong môi trường xung quanh khách hàng như môi trường kinh tế, công nghệ, chính trị và văn hóa. Tất cả những yếu tố này là đầu vào được xử lý trong hộp đen của khách hàng và đưa ra các đáp ứng của khách hàng mà chúng ta có thể dễ dàng quan sát được: lựa chọn sản phẩm, nhãn hiệu, nhà cung ứng, thời gian mua và số lượng mua. Và cách thức mà các kích thích được chuyển hóa thành phản ứng trong hộp đen của người tiêu dùng là một quy trình gồm 2 phần. (1) các đặc điểm của người mua ảnh hưởng đến cách mà người đó cảm nhận và phản ứng lại với kích thích. (2) bản thân quy trình quyết định của người mua cũng tác động đến hành vi của người đó. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 17SỐ 09 - THÁNG 11/2015 Tiến trình quyết định mua hàng Để đi đến hành động mua hàng, người tiêu dùng phải trải qua một tiến trình bao gồm năm giai đoạn như sau: Nhận diện nhu cầu: người tiêu dùng bắt đầu tiến trình ra quyết định với giai đoạn nhận diện nhu cầu. Đó chính là sự khác biệt giữa trạng thái thực tế (những gì mà người tiêu dùng đang cảm nhận tồn tại) và trạng thái mong muốn (những gì mà người tiêu dùng muốn có. Tìm kiếm thông tin: ... và cả kém hiểu biết nên rất nhiều nhà sản xuất đã không trang bị quy NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 25SỐ 09 - THÁNG 11/2015 trình sản xuất, nguyên liệu không tốt, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm đã lạm dụng các chất bảo quản một cách vô tội vạ như dùng hóa chất công nghiệp thay cho hóa chất thực phẩm, vượt liều lượng cho phép nhiều lần để kéo dài thời gian chờ phân phối trên thị trường. Vì vậy, chúng lại trở nên vô cùng nguy hiểm cho người tiêu dùng. Từ thực tế đã có nhiều trường hợp vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm khiến người tiêu dùng trở nên cảnh giác và không ưa thích sản phẩm thủy sản chế biến vì lý do này cũng là lẽ chính đáng. Khẩu vị của khách hàng cũng là điều đáng quan tâm khi có 49.7% khách hàng cho rằng sản phẩm thủy sản chế biến không hợp khẩu vị với họ, chủ yếu là đối với những sản phẩm giá trị gia tăng hay còn gọi là sản phẩm tinh chế. Đó là những sản phẩm trong quá trình chế biến, người sản xuất đã thêm gia vị vào theo công thức riêng của họ, hương vị sản phẩm gần như được quyết định bởi nhà sản xuất; khi sử dụng, khách hàng chỉ cần làm chín là ăn được, không cần cần phải tẩm ướp gia vị thêm. Chính vì vậy, làm cách nào để hương vị của sản phẩm phù hợp với khẩu vị của tất cả mọi người tiêu dùng là điều rất khó. Về giá cả là một yếu tố rất quan trọng tác động đến tâm lý lựa chọn và quyết định mua của khách hàng. Sản phẩm có giá cả phù hợp sẽ kích thích sức mua của người tiêu dùng hơn. Khảo sát cho thấy có 40.7% khách hàng cho rằng giá của sản phẩm thủy sản chế biến còn cao. Sở dĩ như vậy vì khách hàng thường so sánh giá với sản phẩm thủy sản tươi sống được mua dễ dàng ở chợ truyền thống. Trong khi đó sản phẩm thủy sản chế biến thường được bày bán trong siêu thị, tại các cửa hàng thực phẩm với chế độ bảo quản riêng sẽ phải có giá cao hơn. Đó là chưa kể đến các công đoạn sơ chế sản phẩm, biến sản phẩm thủy sản thông thường thành các sản phẩm giá trị gia tăng như: há cảo, bánh hải sản, tôm cuộn khoai tây, tôm tẩm bột xù, bắp cải cuộn basa, surimi cua để khi đến tay người tiêu dùng sẽ không phải mất nhiều thời gian công sức chế biến nữa. Một số lý do khác khiến khách hàng không ưa thích sản phẩm được nhắc đến là: thời gian rã đông dài (32.2%), sản phẩm chưa đa dạng (24.9%), thông tin sản phẩm còn ít (18.1%) Đánh giá về chất lượng sản phẩm và xu hướng tiêu dùng trong tương lai: Đối với chất lượng sản phẩm thủy sản chế biến nhìn chung được đại đa số người tiêu dùng chấp nhận với tỷ lệ hài lòng lên đến 92%. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy sản phẩm thủy sản chế biến đã thâm nhập được thị trường trong nước, được khách hàng chấp nhận, sử dụng và tin tưởng. Do đó, khi được hỏi về dự định trong tương lai, có 95.7% người tiêu dùng khẳng định sẽ tiếp tục sử dụng, trong đó bao gồm cả tỷ lệ 3.7% khách hàng đã từng không hài lòng về chất lượng sản phẩm. Sự hài lòng Dự định tương lai Tiếp tục sử dụng Ngưng sử dụng Tổng cộng Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Có hài lòng Không hài lòng Tổng cộng 172 7 179 92.0% 3.7% 95.7% 0 8 8 0.0% 4.3% 4.3% 172 15 187 92.0% 8.0% 100.0% Bảng 7: Xu hướng tiêu dùng sản phẩm thủy sản chế biến Tổng hợp lý do tiếp tục sử dụng sản phẩm Số lượng Tỷ lệ (%) Thời gian nấu nướng hạn chế hơn Sản phẩm thủy sản chế biến đa dạng hơn Sản phẩm thủy sản chế biến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hơn Thu nhập sẽ tăng lên Khác Tổng cộng 112 86 55 19 0 178 62.9% 48.3% 30.9% 10.7% 0.0% 100.0% Bảng 8: Tổng hợp lý do tiếp tục sử dụng sản phẩm NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 26 SỐ 09 - THÁNG 11/2015 Lý do chính khiến cho người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm thủy sản chế biến trong tương lai bao gồm nhận định cho rằng thời gian nấu nướng sẽ trong tương lai sẽ hạn chế hơn (62.9%). Người tiêu dùng cũng hy vọng rằng sản phẩm thủy sản chế biến sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48.3%) và họ cũng tin tưởng sản phẩm thủy sản chế biến sẽ được đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30.9%). Ngoài ra có tỷ lệ 10.7% khách hàng nghĩ rằng sẽ sử dụng nhiều sản phẩm khi thu nhập tăng lên trong tương lai. Chính vì lẽ đó, nắm bắt được xu hướng, thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp chế biến thủy sản. 5. Kết luận và đề xuất Qua nghiên cứu về thị hiếu và thái độ đối với sản phẩm thủy sản chế biến của người tiêu dùng ở TP.HCM cho thấy sản phẩm đã trở nên phổ biến với tỷ lệ 97.9% người trả lời đã từng sử dụng sản phẩm. Khách hàng thường mua sản phẩm thủy sản chế biến ở siêu thị và chợ với tần suất phổ biến từ 1-2 lần/tháng. Mục đích chính mua sản phẩm là để phục vụ bữa ăn gia đình hàng ngày, ngoài ra còn có mua ăn thử cho biết và mua để đãi tiệc, tiếp khách. Xu hướng của người tiêu sẽ tiếp tục sử dụng các sản phẩm thủy sản chế biến trong tương lai khá cao (95.7%). Lý do chính khiến cho người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm thủy sản chế biến trong tương lai bao gồm nhận định cho rằng thời gian nấu nướng sẽ trong tương lai sẽ hạn chế hơn (62.9%), hy vọng rằng sản phẩm thủy sản chế biến sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48.3%) và tin tưởng sản phẩm thủy sản chế biến sẽ được đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30.9%). Để các sản phẩm thủy sản chế biến được ưa chuộng và tiêu dùng phổ biến hơn, các doanh nghiệp chế biến thủy sản nên chú trọng đến việc nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, gia tăng tính tiện dụng và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, cũng như tiến hành nhiều chiến lược marketing khác nhau để xây dựng những thương hiệu thủy sản uy tín trên thị trường nội địa. Chú trọng công tác vệ sinh an toàn thực phẩm - Kết quả khảo sát đã chỉ ra rằng khách hàng ngày nay rất quan tâm đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Mức độ đồng ý của khách hàng đối với nhận định sản phẩm thủy sản chế biến đảm bảo vệ sinh an toàn hơn thủy sản tươi sống không cao, chứng tỏ họ vẫn chưa yên tâm về vấn đề này khi sử dụng sản phẩm. Nếu như các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu ở nước ta đạt nhiều chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế như VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP để có thể thâm nhập được các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Canadathì đối với thị trường nội địa lại bị bỏ ngỏ vấn đề chất lượng. Có một thực tế hiện nay các doanh nghiệp không chú trọng thị trường trong nước, cung ứng những sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn vì vậy chưa tạo được sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Do đó, nhà sản xuất cần thay đổi quan điểm kinh doanh, phải hiểu rằng thị trường trong nước hay xuất khẩu đều quan trọng như nhau, đều có nhu cầu và yêu cầu được sử dụng những sản phẩm có chất lượng tốt, tiêu chuẩn cao. - Doanh nghiệp chế biến thủy sản trong nước cần thực hiện nghiêm túc các quy định tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong toàn bộ quá trình chế biến thủy sản; đầu tư hệ thống băng chuyền chế biến hiện đại, tăng cường áp dụng kỹ thuật mới trong chế biến nhằm đảm bảo giữ được giá trị dinh dưỡng của thủy sản. Có một xu hướng mới trên thị trường thực phẩm chế biến nói chung, thủy sản chế biến nói riêng là các sản phẩm không có chất bảo quản hay bất kỳ yếu tố nhân tạo nào để đảm bảo hoàn toàn độ tươi ngon và giá trị dinh dưỡng của thực phẩm. Tất cả các yếu tố này đều phải được thông tin rõ ràng trên bao bì sản phẩm để người tiêu dùng có khả năng lựa chọn chính xác nhất. Làm được điều này doanh nghiệp sẽ tạo được chỗ đứng riêng trong thị trường cung cấp sản phẩm “sạnh” và được người tiêu dùng đón nhận. - Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần thực hiện quảng bá rộng rãi, cung cấp thông tin minh bạch về qui trình sản xuất chế biến, về những chứng nhận, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đã đạt được cho người tiêu dùng được biết. Và trên hết NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 27SỐ 09 - THÁNG 11/2015 doanh nghiệp phải luôn duy trì cam kết cung cấp sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng để tạo được sự tin dùng lâu dài của người tiêu dùng. Đẩy mạnh tiếp cận thị trường trong nước bằng các chiến lược markting phù hợp - Đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản được chế biến theo hướng tiện dụng hơn cho khách hàng, phong phú về phương pháp chế biến và cách sử dụng, từ sản phẩm sơ chế, sản phẩm tinh chế, sản phẩm gia tăng... đồ ăn nhanh hay cần phải làm chín trước khi ăn... - Đa dạng thực đơn cho sản phẩm thủy sản chế biến để có thể phục vụ mọi nhu cầu ăn uống hàng ngày, hay trong những dịp đặc biệt cần tiếp đãi thực khách, từ những món ăn quen thuộc như chả giò, cá viên, chạo cá, cá basa kho tộ, cá nục sốt cà, tôm lăn bột đến những món ăn tiệc tùng như lẩu hải sản, lẩu cá hồi, tôm tổ yến, tôm càng xanh, bao tử cá - Đa dạng hóa về chủng loại thủy sản, cung cấp các loại thủy sản đặc biệt theo mùa tự nhiên như cá linh, cá lóc đồng, cá lòng tong, cá kèo, cá mè dinh, cá rô bí, cá bống trứng ở dạng sơ chế, đông lạnh hay chế biến tẩm ướp gia vị sẵn đều được. So với mua cá đồng tươi sống thì có thể giá sẽ cao hơn nhưng có hai yếu tố sẽ tạo nên lợi thế cho sản phẩm chính là đáp ứng nhu cầu thưởng thức cá đồng “nghịch mùa” của người dân thành phố và sự tiện dụng vì đã sơ chế, làm sạch mà vẫn giữ được hương vị ban đầu. - Chú trọng đến qui cách đóng gói, bao bì, thông tin nhãn hiệu. Qui cách đóng gói sản phẩm rất quan trọng vì có liên quan đến cách thức sử dụng, chế biến sản phẩm, bằng hộp thiếc có khoen để giật nắp mở tiện dụng cho những món ăn liền, thố đựng bằng nồi đất để tiện kho nấu thêm, hay bao bì màng nhôm, vỉ nhựa chuyên dụng đễ hâm nóng, nướng chín đều là vấn đề cần lưu tâm. Thông tin nhãn hiệu phải chi tiết thành phần sản phẩm; có hướng dẫn sử dụng cụ thể và hấp dẫn bằng hình vẽ minh họa, tránh sự nhàm chán và đơn điệu trong cách ghi; thông tin thời hạn sử dụng phải rõ ràng, ở vị trí dễ nhìn, không chồng lấn vào các thông tin khác - Tìm hiểu nhu cầu người tiêu dùng và phát triển những sản phẩm độc quyền, tạo thị trường ngách cho sản phẩm của mình. Như trường hợp những khay thủy sản kèm theo rau củ để người tiêu dùng mua về nấu canh, nấu lẩu thì đã có nhiều công ty cung cấp, nhưng mấu chốt là phải có nước dùng ngon mới thành món ngon. Và SG Fisco là công ty đầu tiên đã nghiên cứu sản xuất gói nước dùng pha chế sẵn để nấu lẩu đủ mùi vị, từ lẩu thái, lẩu hải sản đến lẩu mắm; và quan trọng là không có chất bảo quản, có thể giữ nguyên hương vị trong tủ lạnh một năm. - Bên cạnh đó, các nhà sản xuất thủy sản chế biến cũng cần mở rộng mối liên kết với các hệ thống siêu thị, cửa hàng thực phẩm, cửa hàng tiện lợi để đa dạng mạng lưới phân phối, hay có thể mở thêm các điểm bán hàng giới thiệu sản phẩm riêng của công ty mình nhằm tạo ra tính khác biệt trong cạnh tranh. Nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững - Nhiều năm gần đây, người Việt đang ngày một quen thuộc với những nhãn hiệu thủy sản chế biến sẵn của các công ty trong nước như Agi- fish, Afiex, Saigon Food, Cầu Tre, Saigonfood, Cofidec. Để duy trì được vị trí thương hiệu của mình đối với người tiêu dùng các doanh nghiệp chế biến thủy sản phải phải đầu tư sáng tạo hơn nữa trong việc tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng, tìm tòi phát triển sản phẩm mới, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm và duy trì chiến lược phát triển bền vững. - Một trong những hướng đi đó là tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chế biến, bảo quản thủy sản, gồm: Công nghệ cấp đông siêu nhanh, sấy chân không thăng hoa, sấy bức xạ hồng ngoại, công nghệ enzyme, công nghệ bảo quản thủy sản sống bằng phương pháp ngủ đông, bao gói MAP. Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như: HACCP, Codex, ISO, BRC-food, Halal nhằm đáp ứng tốt yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo ra sản phẩm có giá trị cao. Đơn cử như việc sử dụng công nghệ hút chân không trong bảo quản thực phẩm tiệt trùng. Thực phẩm khi được đóng trong bao bì ở tình trạng chân không sẽ giữ lại được hết vị tươi ngon, vitamin và khoáng chất. Và vì được chế biến sau khi đóng hộp nên các nguy cơ tiềm tàng về vi khuẩn sẽ không còn nữa. Thực phẩm chế biến theo công nghệ mới hoàn toàn vô hại với NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 28 SỐ 09 - THÁNG 11/2015 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Minh Đức, Tô Thị Kim Hồng (2008), “Xuất khẩu nông sản Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay – Thách thức và cơ hội”, Tọa đàm: Khủng hoảng tài chính và giải pháp phát triển bền vững thị trường tài chính Việt Nam, TP.HCM, tháng 12/2008, Vụ Kinh Tế (VP TW Đảng) và ĐH Mở TP.HCM. [2] Kotler. P (2005), Phan Thăng và ctg dịch (2007), Marketing căn bản – Marketing Essentials 3rd edition, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội. [3] Lê Quang Bình (2008), Thái độ người tiêu dùng đối với chiêu thị trong việc xây dựng giá trị thương hiệu kem đánh răng tại thị trường TP.HCM, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. [4] Nguyễn Hải Ninh (2012), Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng đối với hoạt động Mobile Marketing tại khu vực nội thành Hà Nội, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. [5] Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang (2007), Nguyên lý Marketing, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, TP.HCM. [6] AMA Dictionary, nd “Consumer Behavior Definition”, ngày truy cập 15/07/2014. [7] Kotler. P và Keller, K (2012), Marketing Management, 14th ed., New Jersey: Prentice Hall. [8] Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, (2001), Quyết định số 68/2001/QĐ-BKHCNMT Về việc ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam, Hà Nội. [9] Nguyễn Viết Đăng, Ruckes (2003), “Thị trường thủy sản Việt Nam – hiện trạng và triển vọng phát triển”, Báo cáo tổng quan Dự án Nghiên cứu Thị trường và Tín dụng nghề Cá tại Việt Nam (FAO và Bộ Thủy Sản Việt Nam, 2003). [10] Quyết định số 68/2001/QĐ-BKHCNMT (Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường, ngày 28/12/2001 đã ban hành 64 bộ Tiêu chuẩn Việt Nam (moj.gov.vn). Trong đó Tiêu chuẩn Việt Nam số 4378:2001 (thay thế cho TCVN 4378:1996) [11] FPT Securities (2013), Báo cáo ngành thủy sản. [12] Lê Thanh Dũng (2008), Hành vi người tiêu dùng – nghiên cứu trường hợp ngành hàng thuốc bổ (Vitamin, thực phẩm bổ sung và khoáng chất) thuộc thuốc không kê toa (OTC), Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Mở TP.HCM. [13] Jan-Benedict, E.M.S, (1993), “Food Consumption Behavior”, European Advances in Con- sumer Research, Volume 1, pp. 401-409. [14] Menrad, K (2006), “Consumers’ attitudes and expectations concerning Functional Food” Working Paper, University of Applied Sciences of Weihenstephan - Science Centre Straubing. người tiêu dùng, kể cả để trong một thời gian dài (trong hạn sử dụng). - Xây dựng hệ thống chế biến thủy sản phát triển bền vững theo hướng hiện đại, tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết đồng bộ từ sản xuất, cung ứng nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm với khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong nước. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 29SỐ 09 - THÁNG 11/2015
File đính kèm:
- thi_hieu_va_thai_do_cua_nguoi_tieu_dung_khu_vuc_thanh_pho_ho.pdf