Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - Dân ca xứ Nghệ

Một trong những yếu tố nghệ thuật của thi luật trong ca dao - dân ca xứ Nghệ là thể thơ và cách sử

dụng câu chữ. Là sản phẩm của một vùng địa - văn hoá đặc biệt, vùng đất luôn luôn có những va đập

dữ dội và khốc liệt, ca dao - dân ca xứ Nghệ mang một dáng nét có phần khác lạ so với vẻ óng ả, mẫu

mực của ca dao - dân ca đồng bằng Bắc Bộ bởi sự đột phá khi sử dụng thể thơ, sự phóng túng về số

lượng âm tiết. Chính sự phá cách táo bạo đó đã khiến ca dao - dân ca vùng này tuy giống như những

viên đá ong xù xì, ít mượt mà, duyên dáng, ý nhị, nhưng lại có khả năng biểu đạt những xúc cảm mạnh

mẽ nhất.

pdf 8 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - Dân ca xứ Nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - Dân ca xứ Nghệ

Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - Dân ca xứ Nghệ
61Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Thể thơ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ 
Cũng như ca dao nhiều vùng khác, ca dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng hầu hết các thể thơ dân tộc, từ thể thơ 
hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, đến thể lục 
bát, song thất lục bát và thể tự do, trong đó, có 
lẽ ấn tượng nhất là thể thơ năm chữ. Hát Dặm 
Nghệ - Tĩnh với thể năm chữ (thơ ngũ ngôn) 
độc đáo, không chỉ là “đặc sản” của riêng vùng 
Nghệ - Tĩnh, mà còn là hiện tượng “độc nhất vô 
nhị” trong kho tàng ca dao của dân tộc.
Chúng tôi đã lập bảng so sánh tỷ lệ phần 
trăm của việc sử dụng các thể thơ giữa ca dao 
- dân ca xứ Nghệ với dân ca Thanh Hoá, Hà Bắc 
(từ các tuyển tập: Kho tàng ca dao xứ Nghệ; 
Dân ca Thanh Hoá; Hát ví đồng bằng Hà Bắc). 
Kết quả cho thấy: từ Thanh Hoá trở ra, người 
dân ưa dùng lục bát chính thể, trong khi đó 
ca dao - dân ca xứ Nghệ sử dụng lục bát biến 
thể khá nhiều, trung bình bốn bài lại có một 
bài biến thể, thơ tự do cũng chiếm tỷ lệ không 
nhỏ, (gấp đôi so với Thanh Hoá và Bắc Bộ). Từ 
những biểu hiện trên có thể thấy: Sự xuất hiện 
khá đậm nét của lục bát biến thể và thơ tự do 
đã khiến cho ca dao - dân ca xứ Nghệ ít nhiều 
mang một kiểu dáng mới, ít chuẩn mực, ít trau 
chuốt mà phần nào đã thiên về sự phóng túng. 
Đó là một nét khác biệt lớn của ca dao - dân ca 
vùng này so với các tỉnh phía ngoài. Như thế 
cũng có nghĩa là đối với người xứ Nghệ, cái thể 
thơ lục bát “anh minh” và từng đạt đến vinh 
quang tột đỉnh, tuy vẫn giữ vị trí chủ yếu trong 
THỂ THƠ VÀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG CÂU CHỮ 
TRONG CA DAO - DÂN CA XỨ NGHỆ
HỒ THỊ THU HÀ
Tóm tắt
Một trong những yếu tố nghệ thuật của thi luật trong ca dao - dân ca xứ Nghệ là thể thơ và cách sử 
dụng câu chữ. Là sản phẩm của một vùng địa - văn hoá đặc biệt, vùng đất luôn luôn có những va đập 
dữ dội và khốc liệt, ca dao - dân ca xứ Nghệ mang một dáng nét có phần khác lạ so với vẻ óng ả, mẫu 
mực của ca dao - dân ca đồng bằng Bắc Bộ bởi sự đột phá khi sử dụng thể thơ, sự phóng túng về số 
lượng âm tiết. Chính sự phá cách táo bạo đó đã khiến ca dao - dân ca vùng này tuy giống như những 
viên đá ong xù xì, ít mượt mà, duyên dáng, ý nhị, nhưng lại có khả năng biểu đạt những xúc cảm mạnh 
mẽ nhất. 
Từ khóa: Thể thơ, ca dao dân ca, xứ Nghệ
Abstract
One of the artistic elements of the prosody in folk songs - fold ballads of Nghe region is style of 
poetry and the usage of words. As a product of a special geo- culture area, which always has fierce 
and formidable collisions, folk songs and fold- ballads of Nghe region have an unfamiliar appearance 
compared to the shiny, exemplary of folk songs and fold-ballads in the Northern Delta because of a 
breakthrough when using a style of poetry, the liberation of the number of syllables. It was the daring 
break that made the folk songs - fold ballads of Nghe region have the ability to express the strongest 
motion, although they like rough laterite, less smooth, less charming and delicate.
Keywords: Style of poetry, folksong, Nghe region
Số 28 - Tháng 6 - 201962
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sáng tác ca dao, nhưng đã phần nào phải “e dè” 
trước sự công phá khá mạnh mẽ của lục bát 
biến thể và thơ tự do.
Ngoài ra, chúng tôi cũng thấy có hiện tượng 
khá đặc biệt với thể song thất lục bát. Nét đặc 
biệt thứ nhất được thể hiện ở việc lấy hai câu 
lục bát của khổ trên nối với hai câu thất của 
khổ dưới và kết thúc ở đó. Ví dụ: 
Đi ra thiên hạ mà coi
Không đâu bằng đất Quỳnh Đôi nữa mà
Trai miệt mài bút nghiên thi cử
Gái quen nghề tơ lụa vá may
Trong trường hợp này, nếu ta thêm hai câu 
thất vào trên hai câu lục bát và thêm hai câu 
lục bát vào dưới hai câu thất, thì ta sẽ có hai 
khổ thơ song thất lục bát hoàn chỉnh. Chúng 
tôi cho rằng kiểu này có thể là một biến thể 
của song thất lục bát, không phải là biến thể 
về số lượng âm tiết mà là biến thể theo cách 
bỏ hai câu 7 đầu đi, chỉ để lại hai câu lục bát và 
hai câu lục bát này lại nối với hai câu 7 của một 
khổ khác, rồi kết thúc ở đó mà lẽ ra sau hai câu 
7 này phải có hai câu lục bát nữa. 
Nét đặc biệt thứ hai được thể hiện ở chỗ 
một khổ song thất lục bát nhưng lại chỉ có 3 
câu. Với loại này, có thể gọi là biến thể câu. Ví 
dụ: 
- Em về thưa với thầy se sẽ
Thưa với mẹ cho rõ ràng
Cho em vô một ngõ, ra một đàng với anh.
- Ngọn đèn thương ai mà ngọn đèn không tắt
Nước mắt thương ai mà nước mắt lâm ly
Khăn điều đây ơ bạn, lấy lau đi kẻo buồn
Sở dĩ chúng tôi xếp những bài ca trên vào 
thể song thất lục bát bởi căn cứ vào cách gieo 
vần thì câu thứ 2 trong các ví dụ trên vừa có 
tính chất là của câu 7 thứ 2, lại vừa có tính chất 
là của câu 6 thứ 3 trong một khổ thơ lục bát.
Trước đây, khi nói đến biến thể, người ta chỉ 
nghĩ đến sự thay đổi về số lượng âm tiết mà 
không bàn kỹ về việc tại sao lại xem một bài 
cụ thể nào đó là biến thể của thể thơ này hay 
là biến thể của thể thơ khác. Vậy, chính thể và 
biến thể là gì? Một bài ca dao được coi là chính 
thể phải có những điều kiện sau: 1) Số lượng 
âm tiết phải đúng với số lượng âm tiết chuẩn; 
2) Số lượng các câu trong một khuôn khổ cũng 
phải phù hợp với số lượng các câu trong một 
khổ chuẩn; 3) Vần phải bảo đảm quy tắc bằng 
trắc ở vị trí chuẩn.
Trên các chuẩn đó chúng tôi xem xét biến 
thể những trường hợp sau: 1) Số lượng âm tiết 
ít hoặc nhiều hơn số lượng âm tiết chuẩn; 2) 
Câu có thể nhiều hơn hoặc ít hơn số lượng câu 
trong một khổ; 3) Vị trí gieo vần không còn ở 
vị trí chuẩn. 
Vậy, muốn xác định được một bài ca dao là 
biến thể của thể thơ nào thì phải căn cứ vào 
các dấu hiệu lệch chuẩn. Ví dụ bài ca dao sau 
đây của xứ Nghệ:
Đường đi loanh quanh ngoắt ngoéo
Đường đi lắt léo chân trâu
Em có chồng rồi anh chẳng dám nhìn lâu
Anh nhìn qua một tý để bán sầu mua vui
Trong bài này, tuy câu 1 là 6 chữ, câu 3 là 
9 chữ, câu 4 là 10 chữ nhưng chúng tôi cho 
rằng đây là biến thể của thể song thất lục bát 
bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, khổ thơ 4 
câu như là một khổ của khổ thơ song thất lục 
bát. Thứ hai, mặc dầu số lượng âm tiết không 
chuẩn nhưng vị trí gieo vần và vần lại phù hợp 
với vị trí gieo vần của thể song thất lục bát. Tức 
là trong thơ song thất lục bát, vần trắc là vần 
chân ở câu thứ nhất, vần trắc là vần lưng ở câu 
thứ hai và vần bằng là ở cuối câu thứ hai. Vần 
bằng này lại được gieo vần chân của câu thứ 
ba (câu lục), và vần chân của câu thứ ba lại trở 
thành vần lưng của câu cuối cùng ở vị trí vần 
lưng câu bát.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, chúng tôi sẽ 
xem xét các biến thể trong khuôn khổ một thể 
thơ nào đó.
2. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong các 
thể thơ
Sự phá vỡ về thể thơ, đương nhiên, dẫn 
theo sự phá bung về câu chữ. Người xứ Nghệ 
trong một chừng mực nào đấy, đã không chịu 
gò bó trong một khuôn khổ cố định, muốn 
vượt ra khỏi lề lối trật tự của sự chuẩn mực 
trong sáng tạo thơ ca.
63Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
2.1. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể 
5 chữ hát Dặm
Hát Dặm là một di sản dân ca còn bảo lưu 
nhiều dấu vết cổ xưa. Dấu vết này không chỉ 
thể hiện ở thể thơ 5 chữ vốn là một hình thức 
câu thơ ra đời rất sớm mà còn thể hiện ở hiện 
tượng láy lại câu thơ cuối mỗi khổ một cách 
đặc biệt. Điều này khiến ta không thể không 
đưa ra giả thiết: phải chăng giữa thể Dặm và 
sử thi cổ sơ sáng thế của người Mường có một 
sự ảnh hưởng qua lại. Trong sử thi “Đẻ đất đẻ 
nước”, mỗi đoạn thơ trong đó thường sử dụng 
lối điệp câu, câu trên câu dưới chỉ khác nhau 
một vài từ kiểu như của hát Dặm, điểm khác 
biệt là hát Dặm láy lại ở cuối khổ thơ, còn sử thi 
Mường vị trí láy lại không cố định.
Hát Dặm: 
Cầm lấy đũa đũa rớt
Cầm lấy đọi đọi rơi
Ra ngóng đất ngó trời
Cứ ra vô trông đợi
Cứ ra vào trông đợi
Đẻ đất đẻ nước:
- Ngày xưa ngày ấy
Dưới đất chưa có đất
Trên trời chưa có trời
Trên trời chưa có ngôi sao đo đỏ
Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh
- Con người ngày đó
Chưa có chưa nên
Thứ gì cũng chưa có chưa nên
Một trong những đặc trưng làm nên “hồn 
cốt” của hát Dặm là thể thơ 5 chữ, nhưng với 
bản tính ưa phá cách, thi sĩ bình dân xứ Nghệ 
đã cho ra đời nhiều bài Dặm thoát ra khỏi sự 
mẫu mực, câu thơ có khi chỉ có 4 chữ, có khi lại 
kéo dài đến 6,7,8 chữ. Những câu như vậy có 
thể ở bất kỳ một vị trí nào trong bài, tùy theo 
yêu cầu của ý mà phát triển hoặc thu gọn. Đó 
là trường hợp những bài Dặm biến thể:
- Dạng thiếu về chữ: 
Sinh ra cái buổi
Việc cơ cận tại trời
Nói một chút mà chơi
Ăn vào rồi cũng đói
- Dạng thừa về chữ:
Nằm ngủ khuya rồi nghe nóng ruột
Trở dậy giục vợ: “Nấu ăn thì vừa”
Đàn bà lại nói: “Đã đáng chưa
Gạo đang lưa (còn) tôi tím gan không nấu
Gạo đang còn, tôi bầm gan không nấu”
- Có khi vừa thiếu chữ vừa thừa chữ: 
Gạo thời có gạo
Cơm thời có cơm
Chứ không phải cúng đơm
Mà mua đôi ba quan tiền thịt
Trong hát Dặm, dạng thừa chữ rất phổ biến. 
Nhìn chung, hát Dặm đã thể hiện sự phóng 
túng vô chừng của người xứ Nghệ trong sáng 
tạo thơ ca, không chỉ phóng túng trong việc 
sử dụng câu chữ mà còn ở việc sử dụng số câu 
trong một khổ. Chuẩn mực, một khổ hát Dặm 
là 5 câu, nhưng có khi, trong một khổ lại lên tới 
10 câu, thậm chí 20 câu, hoặc hơn thế nữa
2.2. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể 
lục bát
 Theo thống kê của chúng tôi, trong số 197 
bài lục bát biến thể, có tới 32 dạng biến thể 
(xét về số lượng âm tiết). Những dạng biến thể 
này có cả ở hai câu nhưng nếu xét về độ đậm 
đặc của tính chất “mất ổn định” thì đặc biệt 
phải xem xét ở câu bát. Cụ thể:
- Các dạng biến thể đơn (một bài chỉ có hai 
câu): Biến thể 6/7 (câu lục 6 chữ, câu bát 7 chữ); 
biến thể 7/8, 9/8; 6/9; 7/9; 8/9; 5/10; 6/10; 9/10; 
6/11; 8/11; 10/11; 6/12; 7/12; 9/12; 8/15.
- Các dạng biến thể hỗn hợp (trong một bài 
ca dao có nhiều biến thể, những bài này phải 
từ 4 câu trở lên): Biến thể 6/9 và 6/13; biến thể 
7/8 và 6/10; biến thể 7/9 và 6/10; biến thể 8/10 
và 9/10; biến thể 7/11 và 10/13; biến thể 6/11 
và 8/15; biến thể 6/13 và 6/10; biến thể 7/10 và 
8/9; biến thể 6/11 và 8/8; biến thể 6/9 và 6/10; 
biến thể 8/8 và 8/9; biến thể 7/9 và 8/11.
Qua đó có thể thấy, ở ca dao xứ Nghệ , hầu 
hết các biến thể đều nằm ở câu bát. Trong 32 
dạng biến thể, thì chỉ có 4 dạng biến thể ở câu 
lục, đó là dạng 7/8; 9/8 ở nhóm biến thể đơn 
và 7/8; 8/8 ở nhóm biến thể kép, chiếm một 
tỉ lệ rất nhỏ: chỉ có 12%, 26 bài/197 bài. Trong 
Số 28 - Tháng 6 - 201964
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
khi đó, khảo sát 41 trường hợp biến thể trong 
dân ca Hà Bắc ta thấy chỉ có 2 dạng biến thể ở 
câu bát: biến thể 6/9 và 6/10, chỉ có mặt trong 
2 bài, chiếm 4,9%, còn lại phần lớn là biến thể 
ở câu lục, với 39 bài, chiếm 95,1%. Như vậy, ở 
ca dao xứ Nghệ, số lượng các dạng biến thể 
phong phú hơn rất nhiều so với dân ca Hà Bắc 
(32 dạng/6 dạng).
Trong các biến thể của ca dao - dân ca xứ 
Nghệ, số lượng âm tiết thường nhiều hơn so 
với biến thể của dân ca Hà Bắc. Ở Hà Bắc, qua 
tài liệu mà chúng tôi đã khảo sát, trong các bài 
lục bát biến thể không có trường hợp nào câu 
kéo dài 11,12,13, thậm chí 16 chữ như của xứ 
Nghệ.
Trên đây là những điểm khác biệt của việc 
sử dụng số chữ trong câu thơ lục bát biến thể 
giữa ca dao - dân ca xứ Nghệ và dân ca đồng 
bằng Bắc Bộ. Thiết nghĩ, đó cũng chính là một 
nét độc đáo trong đặc điểm nghệ thuật của thi 
ca bình dân vùng này.
2.3. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể 
song thất lục bát
Trong câu thơ song thất lục bát của ca dao 
- dân ca xứ Nghệ, ta thấy có những trường hợp 
sau:
- Dạng thiếu chữ ở câu song thất và thừa 
chữ ở câu lục bát: 
Đường đi loanh quanh ngoắt ngoéo (6 chữ)
Đường đi lắt léo chân trâu (6 chữ)
Em có chồng rồi anh chẳng dám nhìn lâu (9 
chữ)
Anh nhìn qua một tý để bán sầu mua vui 
(10 chữ)
- Hai câu thất giữ nguyên, biến thể 2 câu 
lục bát:
Đường đi ra thì gặp giặc giã (7 chữ)
Đường rẽ ngã thì gặp vua quan (7 chữ)
Cô quạnh thân em không chú bác họ hàng 
(9 chữ)
Đi theo chàng có đặng hỡi chàng chàng ơi (9 
chữ)
- Giữ nguyên câu thất thứ 2, còn lại cả 3 câu 
đều đổi:
Công mô mà công, nợ mô mà nợ (8 chữ)
Anh cứ về cưới vợ cho xinh (7 chữ)
Hai đứa ta kề gối tang tình (7 chữ)
Ví dù công nợ hai đứa mình trả chung (9 chữ)
- Cả bốn câu đều thêm chữ:
Cơm ăn hai bát, bát ăn bát để (8 chữ)
Đũa so hai đôi, đôi đứng đôi nằm (8 chữ)
Dẫu thầy mẹ đánh chín chục một trăm (8 chữ)
Đập rồi lại dậy, quyết nhất tâm em lấy chàng 
(10 chữ)
Nhìn chung, khi sử dụng thể song thất 
lục bát, người xứ Nghệ thiên về sự phá cách. 
Dường như cái tính chất sang trọng của thể 
thơ này không hẳn đã thích hợp với cốt cách 
người xứ Nghệ, và việc ưa sử dụng song thất 
lục bát biến thể cốt để làm giảm bớt tính chất 
sang trọng, quý phái đó. Câu thơ song thất lục 
bát trong ca dao - dân ca xứ Nghệ vì thế mà trở 
nên mộc mạc hơn, dân dã hơn. 
2.4. Nghệ thuật sử dụng câu chữ trong thể 
tự do
 Ấn tượng mà thể thơ tự do trong ca dao - 
dân ca xứ Nghệ mang lại là ở chỗ: đa phần các 
bài ca dao theo thể này đều chịu ảnh hưởng 
của hình thức câu thơ hát Dặm, nghĩa là câu 
thơ 5 chữ được sử dụng khá rộng rãi. Cho dù 
trong bài thơ có nhiều thể được sử dụng thì 
câu thơ 5 chữ vẫn giữ vị trí “trụ cột”. Ví dụ: 
Đêm qua tôi lên ông trời
Chộ (thấy) ông Nguyệt lão đang ngồi xe dây
- Ông ơi xe chi đó mà xe
Ông có xe duyên
Để tôi ngồi tôi đợi
- Con ơi con đừng vội
Con đừng có mà lo
Ông xe rồi ông lại xe cho
Ở những bài theo thể tự do, số lượng câu 
trong một bài thường nhiều, và chứa đựng 
nhiều nội dung thông báo, cho nên nó mang 
tính chất dàn trải, kể lể, và đó cũng là một trong 
những đặc điểm của hát Dặm. Nếu xét trên 
đặc điểm này, chúng ta thấy rằng, hát Dặm có 
ảnh hưởng lớn trong việc sáng tác những bài 
ca dao theo thể tự do. Sự ảnh hưởng này có 
khi được thể hiện rất đậm nét (trong trường 
65Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hợp những bài dài dòng, kể lể, lấy câu 5 chữ 
làm nòng cốt), có khi chỉ là hơi hướng, nghĩa 
là trong bài ca đó, xuất hiện vài ba câu 5 chữ, 
trông giống như hát Dặm. Ví dụ: 
Trăng khi mờ khi tỏ
Nước khi nhỏ khi to
Anh yêu em không kể đói no
Thu đông xuân hạ biết chừng mô mà lường.
Có lẽ, thể Dặm với câu thơ 5 chữ đã ăn sâu 
vào tiềm thức dân gian, có một sức sống quá 
mãnh liệt, khiến nó có thể chi phối mọi cảm 
quan sáng tạo thơ ca của người xứ Nghệ. Đối 
với các thể thơ khác, có niêm có luật rõ ràng 
thì không thể, còn riêng đối với thể tự do, một 
thể thơ được cho là phóng túng bậc nhất, bài 
nào mà chưa có một vài câu 5 chữ của Dặm 
thì dường như là người Nghệ chưa thoả lòng. 
Cũng giống như trong bữa ăn của họ, chưa có 
món cà mặn, món nhút, chút tương, thì bữa ăn 
đó như đang còn “thiếu thiếu” một cái gì đó
3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử dụng 
câu chữ trong các thể thơ
Qua việc thống kê, khảo sát, mô tả ở trên, 
chúng ta thấy rất rõ là các thi sĩ bình dân xứ 
Nghệ đã thể hiện một cách tài tình khả năng 
sáng tạo những nét độc đáo, khác lạ trên cơ 
sở các thể thơ truyền thống. Yếu tố thi luật này 
đã trở thành một phương tiện nghệ thuật đắc 
dụng, có ý nghĩa to lớn trong việc phô diễn 
những tư tưởng, tình cảm cũng như tính cách 
ít nhiều riêng biệt của người Nghệ - Tĩnh.
3.1. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử 
dụng câu chữ trong thể 5 chữ hát Dặm
Có thể thấy sự “xâm lược” của văn xuôi, của 
yếu tố cốt truyện vào hát Dặm là rất rõ. Vì thế 
trong hát Dặm, phẩm chất nổi bật của nó là 
tính tự sự. Kể lể khuyên răn, phân trần bày giải, 
nói kỹ từng việc, từng hành động, cả trình tự 
diễn biến của không gian và thời gian, giống 
như tô màu một bức tranh, cứ tô thêm, tô đậm 
thêm mãi Tính chất này thấm đẫm trong 
hầu như tất cả các bài hát Dặm, nhất là đối với 
những bài dài dằng dặc có nhiều khổ thơ, có 
sự biến thể thừa về số dòng trong một khổ 
cũng như số lượng âm tiết trong một dòng 
Yếu tố của truyện khi thâm nhập vào thơ có 
thể làm phôi pha phẩm chất trữ tình, nhưng 
chính phương pháp kể chuyện mộc mạc, thủ 
thỉ, hình ảnh cụ thể, sống động, với những 
ngôn từ dịu dàng mà thấm thía đã làm nên sức 
lôi cuốn đặc biệt cho hát Dặm Nghệ - Tĩnh.
3.2. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử 
dụng câu chữ trong thể lục bát và song thất 
lục bát
Thể lục bát với vần lưng nổi tiếng đã “mặc 
sức tung hoành” trong địa hạt ca dao hàng bao 
thế kỷ mà không một thể thơ nào khác có thể 
đánh bại được. Cho dù “khí chất” mỗi vùng mỗi 
khác, nhưng với những tố chất tuyệt vời sẵn có, 
thì dù là miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, 
thể lục bát cũng vẫn phát huy hết sức mình 
thoả mãn mọi yêu cầu trong sáng tạo, trong 
thưởng thức. Ca dao xứ Nghệ cũng không phải 
là trường hợp ngoại lệ. Ấn tượng tổng thể thì 
có vẻ không được đặc sắc so với ca dao đồng 
bằng Bắc Bộ, nhưng trong ca dao Nghệ - Tĩnh 
cũng không hiếm những câu đã trở nên bất tử. 
Chỉ với hai câu ca dao này thôi: “Thấy anh như 
thấy mặt trời/Chói chang khó ngó, trao lời khó 
trao” cũng đã đủ thấy cái “thẩn” thơ của người 
dân xứ Nghệ kỳ diệu đến mức nào, không phải 
ngẫu nhiên mà bài ca dao này lại có một sức 
sống, một sức lan tỏa, một sức chinh phục với 
muôn người đến vậy, đến mức tài thơ Xuân 
Diệu cũng phải ngẩn ngơ, luận bàn... 
Nhưng có lẽ, nét khác biệt của ca dao - dân 
ca xứ Nghệ đối với ca dao - dân ca đồng bằng 
Bắc Bộ là ở tính chất không ổn định về thể thơ 
và câu chữ. Sự hiện diện của các biến thể trong 
ca dao - dân ca vùng này đã khiến cho các thể 
thơ truyền thống bị phá vỡ, và sự phá vỡ về thể 
thơ đã dẫn đến sự phá bung về câu chữ. Tính 
chất phóng túng này được thể hiện ở tất cả các 
thể thơ: từ thể Dặm, đến lục bát, song thất lục 
bát và thể tự do, nhưng đậm nét nhất vẫn là ở 
lục bát biến thể. Những kết quả thu được từ 
quá trình khảo sát về các thể thơ trong ca dao 
- dân ca xứ Nghệ đã cho thấy những nhận định 
trên của chúng tôi là có cơ sở thực tế. Có lẽ, để 
giải đáp cho câu hỏi vì sao ca dao xứ Nghệ lại 
có hiện tượng này, chúng tôi cho rằng không 
Số 28 - Tháng 6 - 201966
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thể không xem xét đến nguyên nhân điều kiện 
địa lý, khí chất tâm hồn của những con người 
sống trên mảnh đất này.
Tuy “tố chất vùng” hay “khí chất con người” 
ở một vùng lãnh thổ chỉ là một nhân tố phụ, 
nhưng nó cũng góp phần không nhỏ để bổ 
sung và tô thêm những đường nét cụ thể trên 
diện mạo một nhân cách sáng tạo, một tập thể 
sáng tạo. Người Nghệ nói riêng và người Việt 
miền Trung nói chung, cùng huyết thống với 
dân cư đồng bằng sông Hồng, cùng một dòng 
văn hoá lịch sử với cộng đồng người Việt. Có 
điều, cái làm nên những khác biệt là ở tính chất 
ít nhiều riêng biệt của người dân vùng này, do 
cuộc sống lịch sử thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia 
phải luôn luôn ở vào thế đối chọi. Sống, với họ, 
thực sự là một cuộc đấu tranh không ngừng. 
Cho nên điều dễ dàng nhận thấy trong thực 
tế là người vùng này riết róng, quyết liệt, táo 
bạo và cực đoan hơn hẳn dân xứ Bắc. Và chính 
cái tính cách táo bạo, cực đoan ấy lại rất cần 
thiết cho sáng tạo thơ ca. Khuôn khổ lục bát 14 
chữ mang tính chất vĩnh hằng trong lục bát và 
song thất lục bát đã không còn là một khuôn 
khổ tuyệt đối ưu việt đối với người xứ Nghệ. 
Sự phá vỡ khuôn mẫu cổ điển của thơ lục bát 
và song thất lục bát chính là một sự sáng tạo, 
một sự đột phá của các thi sĩ bình dân xứ Nghệ 
trong lĩnh vực thơ ca. Đối với người dân Bắc 
Bộ, đời sống của họ có phần ổn định hơn, dễ 
chịu hơn, cho nên nếp cảm, nếp nghĩ cũng ít bị 
biến động. Điều đó phần nào đã chi phối đến 
lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật của họ: nề nếp 
hơn, và dường như cũng bảo thủ hơn.
Tất nhiên, khi xem xét hiện tượng kéo dài 
âm tiết trong câu thơ của ca dao - dân ca xứ 
Nghệ, chúng ta cũng không thể không xét đến 
sự chi phối của giai điệu âm nhạc đối với lời 
của bài ca. Trong hát Ví Nghệ - Tĩnh, giai điệu 
bài hát thường có tính chất đay, da diết, sâu 
lắng. Câu thơ trong ca dao xứ Nghệ thường 
được mở rộng lượng âm tiết, rất có thể là để 
uốn theo giai điệu trong hát Ví Nghệ - Tĩnh. 
(Nguyên nhân này đúng với những bài lục bát 
biến thể thuộc về hát Ví).
Trong ca dao xứ Nghệ, sự phá bung khuôn 
khổ thơ lục bát và song thất lục bát không 
những có giá trị “tạo dáng” cho câu thơ thêm 
phần khác lạ, mà nó còn đem lại những hiệu 
quả thẩm mỹ mới mẻ. Thơ, dĩ nhiên, là thể cô 
đọng nhất của văn chương. “Thơ phải được ý ở 
ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là 
tôn chỉ của người làm thơ” (Ngô Lôi Pháp). Vậy 
tại sao người xứ Nghệ lại cứ ưa lối kéo dài câu 
thơ ra? Câu thơ lục bát của họ, đặc biệt là câu 
bát, có khi lên tới 16 âm tiết trải dài, thật sự đã 
không bình thường nữa. Có lẽ cái ý thích “nói 
cái gì cũng phải nói đến tận cùng, cho đã đời” 
của người xứ Nghệ đã ảnh hưởng đến điều 
này. Cũng có lẽ, những cam go, khắc nghiệt 
trong cuộc sống đã biến thành những tấn bi 
kịch trong tâm hồn, cho nên, họ đã xem nghệ 
thuật như là một sự cứu rỗi có thể giúp họ giải 
tỏa những uất ức, những thống khổ trong 
lòng. Và, để thực hiện được nhu cầu hóa giải 
đó, bao giờ mà chẳng dẫn đến hiện tượng “lắm 
lời”. “Nói cho đã” chính là phương sách để có 
thể vơi đi những niềm bức xúc, để cất đi những 
nỗi buồn đè nặng tâm tư. Chính vì vậy khuôn 
mẫu cổ điển của thơ lục bát và song thất lục 
bát dường như trở nên quá tù túng, không đủ 
để giãi bày tình cảm, và người xứ Nghệ thấy 
rằng cần phải phá bung nó ra.
Thoạt nhìn, cái yêu cầu hàm súc của thơ có 
vẻ trái ngược với sự kéo dài số lượng âm tiết 
trong thơ lục bát. Nhưng thực ra, đây lại là một 
mâu thuẫn biện chứng. Vì rằng ý tình mà người 
Nghệ muốn nói cho cạn kiệt mà vẫn tuân thủ 
thể lục bát chuẩn mực thì tất yếu phải “làm 
thêm” một số cặp lục bát nữa. Để giải quyết 
cái mâu thuẫn giữa ý nhiều và lời ít, người xứ 
Nghệ đã chọn giải pháp dồn ý vào một hoặc hai 
cặp lục bát là cùng. Đã dồn ý, muốn cho đủ ý 
thì tất yếu phải thêm từ, thêm âm tiết. Thành 
ra ca dao lục bát Nghệ - Tĩnh tuy dài nhưng rất 
hàm súc, một sự hàm súc đặc biệt. Nghe, đọc 
những câu lục bát dôi âm tiết trong ca dao xứ 
Nghệ, chúng ta vẫn cảm nhận một sự cô đúc, 
một trạng thái tâm hồn dồn nén đến bức xúc. 
Trong những câu lục bát biến thể không có một 
từ nào thừa, “ký sinh”. Nói cách khác, thơ lục bát 
67Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
biến thể của xứ Nghệ đã co rút nhiều câu lục bát 
vào hai hoặc bốn câu, co rút các ý tình lẽ ra phải 
được thể hiện bằng hàng loạt từ ngữ vào một 
vài từ (có khi ở ngay sự ngưng nghỉ bất thường 
trong trường hợp thiếu vắng một hoặc hai âm 
tiết trong những câu biến thể).
Bài ca dao xứ Nghệ sau đây:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nghĩa nặng dày
Dù có xa nhau đi chăng nữa thì ba vạn sáu 
ngàn ngày cũng nỏ xa
So với bài ca dao Bắc Bộ: 
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Có thể thấy, câu Ví xứ Nghệ dường như đã 
mượn ý của câu này mà dàn trải ra. Chính sự 
dàn trải đó đã mang đến cho người đọc cái ấn 
tượng không thể quên được. Là vì ở câu ca dao 
Bắc Bộ có nói đến vị mặn của muối, vị cay của 
gừng, nhưng nói như vậy là để dặn dò nhau 
phải chung thuỷ dù có trải qua bao nhiêu nỗi 
cay đắng của cuộc đời. Ca dao xứ Nghệ không 
chỉ nói thuộc tính của gừng là cay, của muối là 
mặn, mà cái độ bền của cay mặn mới là điều họ 
cần nói, để từ đó mà nói lên chuyện quên hay 
không quên phải phụ thuộc vào sự thử thách 
của thời gian. Cái nội dung độ dài của thời gian 
mới là điều cần thiết. Và người xứ Nghệ phải 
tìm hết cách để đưa cái độ dài thử thách đó 
vào ca dao của mình. Sự dồn lời ở câu tám cuối 
cùng là kết quả của sự “đẻ đau” những tình ý 
chất chứa trong lòng những kẻ say nhau. Bởi 
vậy, câu bát trải dài đến 16 chữ khiến cho bài 
thơ có một sự vang vọng, khiến cho tình ý như 
được xoáy sâu hơn, tha thiết, diết da vô chừng. 
Lối diễn đạt kéo dài “dù có xa nhau đi chăng 
nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày” sau khi gây 
được cảm giác rất xa lại được phủ nhận bằng 
một kết luận đột ngột: “cũng nỏ xa” đã khiến 
cho ý nghĩa khẳng định được tăng lên, nhờ đó 
mà tấm chân tình sắt son kia dường như trở 
thành bất tử... 
Như vậy, cùng sử dụng những biểu tượng 
nghệ thuật truyền thống “muối mặn”, “gừng 
cay”, nhưng cách diễn đạt của bài ca dao xứ 
Nghệ rõ ràng có một sức tác động mạnh hơn 
so với bài ca dao xứ Bắc. Với câu thơ lục bát 
trải dài, ca dao Nghệ - Tĩnh đã tạo thêm cho ý 
thơ những chiều kích mới: chiều dài của thời 
gian, chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong 
chiều rộng nhập nhoè của ngữ nghĩa. Chính 
điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm lâu 
bền cho bài ca dao. Ở đây, chúng ta bắt gặp 
hiện tượng sáng tạo lại các thi liệu vay mượn. 
Ca dao Nghệ - Tĩnh đã sáng tạo lại các thi liệu 
“gừng cay”, “muối mặn” của ca dao Bắc Bộ theo 
cách thức của riêng mình. 
3.3. Giá trị biểu đạt của nghệ thuật sử 
dụng câu chữ trong thể tự do
Bên cạnh những ưu điểm, thơ lục bát có 
những hạn chế nhất định trong việc biểu 
hiện cái quyết liệt sôi nổi của hiện thực khách 
quan. Cuộc sống với tất cả những sự kiện bề 
bộn, những chất liệu phong phú và sắc thái đa 
dạng nhất cũng gặp khó khăn khi đưa vào thể 
lục bát hay song thất lục bát. Chính vì vậy mà 
có sự xuất hiện của thể thơ tự do trong thơ ca. 
So với các thể thơ truyền thống, thơ tự do có 
điều kiện thuận lợi và khả năng để bảo lãnh 
cảm hứng và chất liệu thi ca nói trên hơn. Và 
các tác giả bình dân xứ Nghệ đã tận dụng tính 
ưu việt này để sáng tạo những bài thơ mang 
phong cách phóng túng. Chẳng hạn như bài 
ca dao sau đây:
Cha mẹ có cản đường bắc
Thì ta rẽ ngoặt đường nam
Cha mẹ có cản đường nam
Thì ta rẽ sang đường bắc
Ví dù có trục trặc cả đường bắc lẫn đường nam
Thì xúm tay ta nhen lửa đốt cả xóm làng ta đi.
Tình yêu, nếu thuận buồm xuôi gió thì có 
lẽ khó thành thơ, hoặc chỉ thành thơ khi đôi 
lứa chưa thành gia thất. Tình yêu trắc trở với 
những vò xé con tim mới đem lại cho nhân loại 
những bài ca vĩnh hằng. Ca dao xứ Nghệ cũng 
vậy, những câu ca dao hay nhất là những câu 
nói lên tâm trạng của những người đang yêu 
trước những cản trở trên đường tình của họ. 
Đôi lứa trong bài ca dao này đang gặp trở ngại 
và là những trở ngại vô cùng to lớn. Thể tự do 
với 4 câu 6 chữ chia thành hai cặp, mỗi cặp nêu 
Số 28 - Tháng 6 - 201968
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lên một khó khăn và một cách vượt qua khó 
khăn: “cản đường bắc/ngoặt đường nam; cản 
đường nam/sang đường bắc”, hai trở ngại và 
hai cách khắc phục này không đi sâu vào tiểu 
tiết, đều tương đương về cường độ. Mỗi trở 
ngại dường như đang còn một lối thoát và đôi 
trai gái sẽ tìm được cách thoát bằng lối thoát 
còn lại đó. Đến khi không còn một lối thoát 
nào nữa, tình thế dường như đã bế tắc hoàn 
toàn, tác giả đã phải mượn đến biến thể dôi 
từ ở câu 6: “Ví dù có trục trặc cả đường bắc lẫn 
đường nam” để nói cho hết, cho rõ mức độ của 
sự bế tắc. Trước tình thế không còn lối thoát 
đó có lẽ nhiều người đã phải đành khoanh tay 
“chịu trận”, nhưng người con trai và người con 
gái được sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ này sẽ 
phá bung tất cả, đạp lên tất cả để đến bằng 
được với nhau. Và, họ đã mượn đến dạng biến 
thể dôi âm tiết của câu bát để nói lên cái quyết 
liệt của mình.
Bài ca dao đã thể hiện tình trạng bế tắc và 
cái quyết tâm vượt trở ngại theo mức độ tăng 
tiến. Số lượng âm tiết trong bài ca cũng được 
tăng lên theo mức độ của trở ngại và quyết 
tâm; phối hợp với các vần trắc, phối hợp với 
nét cường độ của từ ngữ (cản, cản, trục trặc; 
đường bắc, đường nam, cả đường bắc đường 
nam; rẽ ngoặt, rẽ sang, nhen lửa đốt cả xóm 
làng; ta, ta, xúm tay ta) phù hợp với sự tăng 
tiến của mức độ quyết tâm, bài ca dao với thể 
tự do này đã nói lên được tính quyết liệt rất 
đặc trưng cho con người của xứ miền Trung 
khắc nghiệt.
Kết luận
Tuy chỉ khảo sát và phân tích trong một 
phạm vi hạn hẹp, nhưng ít nhiều đã cho thấy 
được phong cách nghệ thuật của người dân 
xứ Nghệ trong sáng tạo thơ ca. Đó là sự đột 
phá khi sử dụng thể thơ, sự biến đổi khá sinh 
động về số lượng âm tiết. Nhìn chung, hình 
thức câu thơ của ca dao - dân ca xứ Nghệ tỏ 
ra phóng túng hơn hẳn so với ca dao - dân 
ca đồng bằng Bắc Bộ. Tuy óng ả, mẫu mực, 
nhưng do ít có sự biến động về thể thơ, câu 
chữ, cho nên thơ ca bình dân đồng bằng Bắc 
Bộ ít nhiều giảm thiểu khả năng tạo sinh. Ai 
đó đã nói rằng: “Thơ như thỏi nước đá chạm 
vào ngũ quan của độc giả”. Ca dao - dân ca xứ 
Nghệ cũng có thể ví như vậy bởi ấn tượng mà 
nó đem lại cho cảm giác của chúng ta là rất 
đặc biệt. Cái xù xì, gân guốc, rắn rỏi, mạnh 
mẽ của câu chữ (và cả của những yếu tố thi 
luật khác nữa như vần, nhịp) đã khiến cho 
sự phô diễn của người xứ Nghệ có thể không 
được khéo léo, có thể thô, cứng, nhưng nó lại 
đạt tới sự xúc cảm nhanh nhất, mạnh nhất. 
Dáng nét đặc biệt đó, chỉ có thể là sản phẩm 
của một vùng đất luôn có những va đập dữ 
dội và khốc liệt, buộc con người luôn phải 
kiên cường, quyết liệt vươn lên.
 H.T.T.H
(ThS., Khoa Du lịch, Trường ĐHVHHN) 
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ 
Tĩnh, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
2. Nguyễn Nhã Bản (1993), “Bàn thêm về hình 
thức của hát Dặm Nghệ Tĩnh”, Tạp chí Văn hóa dân 
gian, số 1, tr.41-44.
3. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1962), 
Hát Dặm Nghệ Tĩnh, tập 1 - 2, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội.
4. Ninh Viết Giao và tập thể tác giả (1996), Kho 
tàng ca dao xứ Nghệ, Nxb. Nghệ An, Nghệ An.
5. Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu (1976), 
Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty Văn hoá Hà Bắc.
6. Vĩnh Long (1984), “Hát Dặm Nghệ Tĩnh”, Tạp 
chí Văn hóa dân gian, số 4, tr.38-43.
7. Đặng Văn Lung, Vương Anh (1988), Đẻ đất 
đẻ nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Lạc Nam (1996), Tìm hiểu các thể thơ, Nxb. 
Văn học, Hà Nội.
9. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các 
thể thơ và sự phát triển của hình thức thơ ca trong 
văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nhóm Lam Sơn (1963), Dân ca Thanh Hoá, 
Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
 Ngày nhận bài: 16 - 4 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 6 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019

File đính kèm:

  • pdfthe_tho_va_nghe_thuat_su_dung_cau_chu_trong_ca_dao_dan_ca_xu.pdf