Thay khớp gối điều trị ung thư xương vùng lồi cầu xương đùi ở trẻ em nhân 2 trường hợp

Phẫu thuật bảo tồn chi thể bằng phẫu thuật thay khớp, sau khi điều trị hóa chất ung thư xương thành công

là một tiến bộ thành công trong y học. Trong nghiên cứu này chúng tôi báo cáo 02 trường hợp thay khớp gối

nhân tạo (loại mô đun bản lề chuôi dài) ở bệnh nhân u xương bằng đường mổ dưới cơ rộng trong. Mục đích

của phẫu thuật là lấy bỏ triệt để khối u tránh tái phát, khôi phục chức năng khớp gối và chiều dài chi. Theo

dõi sau phẫu thuật sau 6 tháng, chức năng của khớp gối tốt, tầm vận động cải thiện nhiều, điểm KSS (Knee

Society Score) và KFS (Knee Function Score) đều lớn hơn 60, chiều dài chi phục hồi tốt. Qua nghiên cứu chúng

tôi nhận thấy cắt bỏ toàn bộ khối u đến tổ chức lành là cần thiết, đường mổ dưới cơ rộng trong có ưu điểm

tốt để mở rộng phẫu trường can thiệp, lấy hết khối u trong phẫu thuật thay khớp. Khớp nhân tạo bản lề chuôi

dài cho phép phục hồi đoạn xương mất, phần mềm lớn, giúp chức năng khớp gối sau mổ đạt hiệu quả tối ưu.

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thay khớp gối điều trị ung thư xương vùng lồi cầu xương đùi ở trẻ em nhân 2 trường hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay khớp gối điều trị ung thư xương vùng lồi cầu xương đùi ở trẻ em nhân 2 trường hợp

Thay khớp gối điều trị ung thư xương vùng lồi cầu xương đùi ở trẻ em nhân 2 trường hợp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
43TCNCYH 128 (4) - 2020
Địa chỉ liên hệ: Trần Trung Dũng
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 24/4/2020
Ngày được chấp nhận: 09/6/2020
THAY KHỚP GỐI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ XƯƠNG 
VÙNG LỒI CẦU XƯƠNG ĐÙI Ở TRẺ EM NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP
và hạn chế việc cắt cụt chi thể trong ung thư 
xương, tăng kết quả sau điều trị. Phẫu thuật 
bảo tồn tái tạo chi thể trong ung thư xương đã 
trải qua một quá trình phát triển, ngày nay nó 
đã là một trong những phương pháp điều trị 
phẫu thuật được ưu tiên nhất chỉnh hình hài 
lòng nhất hiện nay trên thế giới.
Điều trị ngoại khoa ung thư xương từ trước 
tới nay vẫn là phẫu thuật loại bỏ khối u và cắt 
cụt chi, thường được chỉ định khi không kiểm 
soát được sự tái phát của khối u mặc dù đã 
điều trị hóa chất và xạ trị, hoặc là u ác tính còn 
khu trú. Phương pháp cắt cụt kinh điển thường 
để lại một di chứng nặng nề về mặt tâm sinh lý 
và chức năng chi thể sau cắt cụt, ảnh hưởng 
rất lớn tới cuộc sống của người bệnh,đặc biệt 
là những bệnh nhân trẻ tuổi còn cả một cuộc 
đời ở phía trước. Trên thế giới, việc ứng dụng 
khoa học kỹ thuật thiết kế và sản xuất các loại 
khớp gối để phục vụ cho y học đã được các 
nhà khoa học chú ý tới, việc sử dụng khớp gối 
bản lề cho bệnh nhân có chỉ định thay khớp 
ung thư xương là một bệnh hiếm gặp trong 
ung thư, tuy nhiên mức độ ác tính thường cao, 
mặc dù bệnh nhân được điều trị sớm, hóa chất, 
xạ trị và tiến hành phẫu thuật cắt cụt nhưng tỷ 
lệ sống trên 5 năm cũng chỉ là 20%. Đặc biệt 
bệnh hay gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi, đang độ 
tuổi phát triển nên việc cân nhắc phương án 
điều trị gặp rất nhiều khó khăn. Từ những năm 
1970, sự phát triển và thành công của điều 
trị hóa chất và xạ trị trong ung thư đã là động 
lựcực cho phương pháp điều trị ngoại khoa bảo 
tồn tái tạo chi thể phát triển. Marcove, Ỉrancis và 
Enneking1–3 đã là những người tiên phong trong 
lĩnh vực này. Các Bác sĩ phẫu thuật viên này đã 
kết hợp phẫu thuật với hóa trị liệu trước và sau 
phẫu thuật, do đó việc phẫu thuật loại bỏ khối u 
tối thiểu sẽ an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân 
Trần Trung Dũng1, , Phạm Sơn Tùng2, Nguyễn Trần Quang Sáng3, 
Nguyễn Hữu Viện², Lê Văn Nam2
¹Trường Đại học Y Hà Nội, 
²Bệnh viện Xanh Pôn,
 ³Bệnh viện K Trung Ương
Từ khóa: ung thư xương, u xơ sụn nhày, thay khớp gối toàn phần, Megaprosthesis. 
Phẫu thuật bảo tồn chi thể bằng phẫu thuật thay khớp, sau khi điều trị hóa chất ung thư xương thành công 
là một tiến bộ thành công trong y học. Trong nghiên cứu này chúng tôi báo cáo 02 trường hợp thay khớp gối 
nhân tạo (loại mô đun bản lề chuôi dài) ở bệnh nhân u xương bằng đường mổ dưới cơ rộng trong. Mục đích 
của phẫu thuật là lấy bỏ triệt để khối u tránh tái phát, khôi phục chức năng khớp gối và chiều dài chi. Theo 
dõi sau phẫu thuật sau 6 tháng, chức năng của khớp gối tốt, tầm vận động cải thiện nhiều, điểm KSS (Knee 
Society Score) và KFS (Knee Function Score) đều lớn hơn 60, chiều dài chi phục hồi tốt. Qua nghiên cứu chúng 
tôi nhận thấy cắt bỏ toàn bộ khối u đến tổ chức lành là cần thiết, đường mổ dưới cơ rộng trong có ưu điểm 
tốt để mở rộng phẫu trường can thiệp, lấy hết khối u trong phẫu thuật thay khớp. Khớp nhân tạo bản lề chuôi 
dài cho phép phục hồi đoạn xương mất, phần mềm lớn, giúp chức năng khớp gối sau mổ đạt hiệu quả tối ưu.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
44 TCNCYH 128 (4) - 2020
nhưng hệ thống dây chằng xung quanh đã 
mất chức năng là một trong những bước đột 
phá trong phẫu thuật thay khớp, sử dụng các 
khớp nhân tạo chuôi dài bản lề nhiều mô-đun 
là một trong những hệ thống đầu gối cố định 
mô đun đầu tiên, được giới thiệu lần đầu tiên 
vào năm 19824,5 và từ đó đến nay đã được sử 
dụng phổ biến trong phẫu thuật thay khớp, hay 
khớp nhân tạo chuôi dài bản lề có ghép xương 
đồng loại đã được sử dụng thường xuyên 
hơn trong ba thập kỷ qua. Trong báo cáo này, 
chúng tôi giới thiệu với 2 bệnh nhân được điều 
trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt khối ung 
thư xương, thay khớp gối nhân tạo bảo tồn tái 
tạo chi thể trong ung thư xương. Đây là phẫu 
thuật được thực hiện lần đầu tiên ở Việt Nam 
ở các bệnh nhân bị ung thư xương, và trên thế 
giới thì phẫu thuật này chỉ được thực hiện tại 
các trung tâm ung thư lớn ở các nước phát 
triển, mở ra tia hi vọng với các bệnh nhân bị 
ung thư nói chung, ung thư xương nói riêng để 
bảo tồn được chi thể, khôi phục lại chức năng 
các khớp và giúp các bệnh nhân sớm hòa nhập 
cộng đồng. Đây cũng là kinh nghiệm của nhóm 
nghiên cứu chúng tôi từ chẩn đoán, kế hoạch 
điều trị, phẫu thuật và theo dõi sau phẫu thuật 
đối với các bệnh nhân bị ung thư xương. một 
hướng đi mới với các phẫu thuật viên và người 
bệnh tại Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng 
y tế trong nước nói chung và chất lượng điều trị 
bệnh nhân nói riêng để người bệnh được tiếp 
cận với các phương pháp điều trị y học tiên tiến 
và hiệu quả trên thế giới. 
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
1. Ca bệnh 1
Bệnh nhân nam, 14 tuổi, tiền sử: không bị 
chấn thương và chưa phát hiện u xương, vào 
viện vì đau vùng gối phải âm ỉ liên tục ngày 
17/01/2019, bệnh nhân hạn chế vận động, đau 
mặt sau gối, đau cả khi vận động và nghỉ ngơi, 
qua thăm khám thấy lồi cầu trong gối phải có 
khối chắc, gây hạn chế vận động, biên độ vận 
động gối phải ROM 0°-5°-120°, điểm KSS 30 
điểm, KFS 35 điểm. Bệnh nhân được làm các 
xét nghiệm cận lâm sàng chẩn đoán,chụp phim 
Xquang: khối u xương ở lồi cầu trong đùi (P), 
có dấu hiệu thổi vỏ xương, cộng hưởng từ đùi 
phải: u đầu dưới xương đùi chưa xâm lấn ra 
phần mềm xung quanh, sinh thiết khối u và kết 
quả giải phẫu bệnh: osteosarcoma u, bệnh nhân 
điều trị hóa chất trước phẫu thuật, theo dõi sau 
3 tháng khối u khu trú nhỏ lại và vận động đỡ 
đau. Kiểm tra tình trạng toàn thân sau 3 tháng 
bệnh nhân ổn định, chụp xạ hình xương không 
phát hiện thấy di căn, bệnh nhân đã được phẫu 
thuật thay khớp gối nhân tạo có mô đun bản lề 
chuôi dài (Megaprothesis) với đường mổ dưới 
cơ rộng trong mở rộng. Kích thước khối u trước 
mổ chúng tôi đo trên phim MRI là 7,6 x 14,8 
Hình 1. Hình ảnh Xquang và ướm đo kích thước khối u trên phim cộng hưởng từ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
45TCNCYH 128 (4) - 2020
cm (Hình 1). Bệnh nhân được gây mê nội khí 
quản, đường mổ rạch da dài 18cm, chúng tôi 
phẫu tích lật cơ rộng trong ra trước ngoài, bộc 
lộ động mạch, tĩnh mạch và thần kinh khoeo, đi 
sát vào xương, bộc lộ khối u xương thành một 
khối. Chúng tôi quyết định cắt u xương đùi rộng 
rãi, tổng chiều dài đầu xa xương đùi kèm khối 
u cắt đi 20 cm được bù bằng khớp gối nhân tạo 
mô-đun bản lề chuôi dài để bù vào phần xương 
đùi bị cắt đi (Hình 2). 
Diễn biến sau phẫu thuật ổn định, không 
sốt sau mổ, sức khỏe toàn thân của bệnh nhân 
hồi phục nhanh. Vết mổ liền sẹo kỳ đầu, cắt 
chỉ sau 14 ngày, kiểm tra định kỳ sau 3 tháng, 
6 tháng, 9 tháng, thấy kết quả tốt, Xquang đùi 
phải (Hình 3) không thấy hình ảnh tái phát của 
khối u. ROM (-10)°-5°-90°, thang điểm KSS 70 
điểm, thang điểm KFS 65 điểm.
2. Ca bệnh 2
Bệnh nhân nữ, 16 tuổi, tiền sử: không bị 
chấn thương và phát hiện u xương trước đó, 
vào viện vì sưng và đau âm ỉ gối trái, bệnh 
diễn biến 1 năm nay. Bệnh nhân vào viện ngày 
20/9/2019, khám có khối chắc vùng mặt sau 
gối trái kích thước 11x 8cm, hạn chế vận động, 
tầm vận động ROM 5°-15°-100°, KSS 20 điểm, 
Hình 2. Hình ảnh phẫu tích trong mổ thay khớp gối chuôi dài 
Hình 3. Hình ảnh X quang sau mổ thay khớp gối mô đun bản lề chuôi dài 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
46 TCNCYH 128 (4) - 2020
KFS 20 điểm. Bệnh nhân được chụp phim 
Xquang, kết quả là u đầu dưới xương đùi (T), 
CTscaner và cộng hưởng từ đùi trái (Hình 4): u 
đầu dưới xương đùi (T) nghĩ nhiều đến u sụn, 
kết quả giải phẫu bệnh: u xơ sụn nhày, chụp 
xạ hình xương không phát hiện thấy di căn ra 
các bộ phận khác. Trường hợp này chúng tôi 
nhận định là u xương lành tính. Bệnh nhân 
hạn chế vận động khớp gối, đau nhiều khi vận 
động và có khả năng chuyển dạng thành ung 
thư. Ngày 28/9/2019, chúng tôi đã tiến hành 
phẫu thuật cắt đoạn đầu xa xương đùi và thay 
khớp gối nhân tạo mô-đun bản lề chuôi dài 
(Megaprothesis). Đo kích thước u trước mổ là 
8x6 cm. Bệnh nhân được gây mê nội khí quản 
đường mổ dưới cơ rộng trong, chúng tôi phẫu 
tích lật cơ rộng trong ra trước ngoài cùng với 
xương bánh chè, bộc lộ động mạch, tĩnh mạch 
và thần kinh, đi sát xương bộc lộ khối u, cắt 
khối u cùng với tổ chức lành cách khối u 4cm, 
tổng chiều dài phần cắt đầu xa xương đùi là 
12cm được bù bằng khớp gối nhân tạo mô đun 
bản lề chuôi dài (Hình 5). Sau phẫu thuật bệnh 
nhân ổn định, không có sốt sau mổ, sức khỏe 
toàn thân hồi phục nhanh. Vết mổ liền sẹo kỳ 
đầu, cắt chỉ sau 18 ngày. Kiểm tra định kỳ sau 
6 tháng kết quả tốt, ROM 0°-5°-90°, KSS 60 
điểm, KFS 65 điểm.
III. BÀN LUẬN
Về đường mổ trong thay khớp gối ở bệnh 
nhân ung thư u xương
Hiện nay có rất nhiều đường mổ trong thay 
khớp gối, nhưng phổ biến nhất vẫn là 3 đường 
mổ cơ bản7, đó là: đường qua cánh trong bánh 
chè, đường đi qua cơ rộng trong và đường dưới 
cơ rộng trong. Với đường mổ tiếp cận khớp gối 
qua cánh bánh chè trong, chúng ta phải rạch 
một phần gân tứ đùi để bộc lộ rõ đầu xa xương 
đùi, đường mổ này phù hợp cho ca phẫu thuật 
thay khớp gối với bệnh nhân bị thoái hóa đơn 
thuần, không cần cắt xương nhiều và phẫu 
Hình 4. Hình ảnh Xquang, Ctscaner, MRI khối u xơ sụn nhày xương đùi trái
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
47TCNCYH 128 (4) - 2020
trường không cần quá lớn, thứ nhất là do việc 
can thiệp vào xương đùi không cần quá cao lên 
phía trên, việc mở một phần gân tứ đầu đã đủ 
để phẫu thuật viên can thiệp cắt và lắp dụng 
cụ khớp gối, thứ hai việc mở dọc gân tứ đầu 
theo chiều dọc quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới việc 
phục hồi chức năng hệ thống duỗi gối sau phẫu 
thuật, nếu thứ ba việc kiểm soát mạch khoeo, 
thần kinh là tuyệt đối phải kiểm soát trong phẫu 
thuật thay khớp.
Tuy nhiên phẫu thuật thay khớp gối ở bệnh 
lý u xương lại khác1, thứ nhất là tầm quan trọng 
với một đường mổ u xương là việc đảm bảo 
mở rộng được đường mổ khi cần thiết để cắt 
u triệt để và tránh lây lan các tế bào u ra xung 
quanh. Thứ hai là ở bệnh lý u xương việc mở 
rộng trường mổ phải đảm bảo kiểm soát được 
mạch máu, thần kinh, nếu không kiểm soát 
được thì tai biến trong mổ rất dễ xảy ra. Thứ 3 
việc mở rộng trường mổ qua cánh trong bánh 
chè rất khó vì khi rạch mở lên cao gân tứ đầu 
đùi sẽ phải rạch cắt cơ thẳng đùi và cơ rộng 
giữa, việc cắt cơ này sẽ làm chảy máu trong 
mổ, ảnh hưởng đến hệ thống duỗi gối và gây 
xơ dính gây hạn chế phục hồi chức năng sau 
mổ và gây đau. Với đường mổ thay khớp gối ở 
bệnh nhân bị u xương quanh khớp gối: chúng 
tôi nhận thấy rằng đường mổ dưới cơ rộng 
trong là có nhiều ưu điểm nhất, thứ nhất việc 
mở rộng trường mổ theo đúng lớp giải phẫu sẽ 
giúp việc phẫu tích rõ ràng, ở đây trường mổ có 
thể mở rộng tùy theo kích thước của khối u mà 
không bị hạn chế hay gây tổn thương phức hợp 
duỗi gối. Thứ hai khi bóc tách cơ rộng trong và 
khối cơ khép, chúng ta có thể kiểm soát tốt bó 
mạch thần kinh đùi, tránh gây tổn thương các 
thành phần đó. Thứ 3 sau khi cắt khối u ở phía 
trên ta có thể lật khối u ra trước xuống dưới 
phẫu tích bóc tách sẽ thuận lợi hơn.
Lựa chọn phương án điều trị cho bệnh 
nhân
Với bệnh nhân thứ nhất báo cáo trên đây, 
đầu tiên khi xác định đây là bệnh nhân trẻ tuổi 
bị u xương (ác tính), lại phát hiện được ở giai 
đoạn sớm (chưa phát hiện thấy di căn ra các 
bộ phận khác), chúng tôi đã hội chẩn với các 
chuyên gia đầu ngành về ung bướu, chấn 
thương chỉnh hình, chuẩn đoán hình ảnh và 
giải phẫu bệnh. Giai đoạn đầu là điều trị xạ trị 
và hóa chất theo phác đồ ung thư xương EOI 
(European osteosarcoma Intergroup) để khối u 
khu trú lại thành một khối và kích thước nhỏ đi, 
sau đó sẽ đánh giá lại toàn trạng bệnh nhân và 
khối u. Nếu khối u vẫn tiếp tục phát triển cả về 
kích thước lẫn xâm lấn ra ngoài, tức là bệnh 
nhân không đáp ứng với hóa chất và xạ trị, thì 
việc cắt cụt là phương án được ưu tiên để bảo 
vệ tính mạng cho bệnh nhân. Còn nếu khối u 
đáp ứng với điều trị hóa chất và xạ trị, khu trú 
nhỏ lại và không phát hiện thấy di căn ra các 
Hình 5. Hình ảnh sau mổ thay khớp gối mô đun bản lề chuôi dài 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
48 TCNCYH 128 (4) - 2020
nơi khác, thì việc điều trị bảo tồn chi thể và thay 
khớp để khôi phục lại chức năng chi lại được ưu 
tiên hơn. Đối với bệnh nhân này, quá trình điều 
trị hóa chất và xạ trị thấy kết quả tốt, kích thước 
khối u nhỏ lại, toàn trạng bệnh nhân ổn định, 
nên chúng tôi quyết định lựa chọn phương án 
bảo tổn chi thể cho bệnh nhân. Với bệnh nhân 
thứ 2, vì kết quả giải phẫu bệnh là u xơ dạng 
nhầy, không cần phải điều trị hóa chất hay xạ trị 
trước mổ, mà tiến hành thay khớp luôn khi điều 
kiện cho phép, nên chúng tôi tiến hành phẫu 
thuật thay khớp bảo tồn chi thể cho bệnh nhân. 
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học và 
kỹ thuật, rất nhiều thế hệ khớp gối đã ra đời để 
phục vụ cho nhu cầu khớp da dạng cho bệnh 
nhân, từ khớp gối bảo tồn chéo sau hoặc không 
bảo tổn chéo sau, khớp gối bán phần hay toàn 
phần, khớp gối chuôi ngắn hay chuôi dài,. 
Chúng tôi nhận thấy ở bệnh nhân trẻ em với 
chiều cao còn phát triển, khớp nhân tạo chuôi 
dài bản lề nhiều mô đun là sự lựa chọn tốt cho 
các trường hợp điều trị bảo tổn chi thể trong 
u xương với phần khuyết hổng xương được 
thay thế ngay bởi các mô đun và khớp được cố 
định vững chắc ngay sau mổ giúp bệnh nhân 
đạt hiệu quả điều trị sớm, phục hồi chức năng 
nhanh và thẩm mỹ8. Khi chiều cao trẻ em tăng 
lên, xương đùi bên lành dài ra làm bên chân 
phẫu thuật ngắn lại tương đối, phẫu thuật viên 
sẽ phải giải quyết tốt vấn đề cân bằng chiều dài 
hai chân thì mới có thể giúp hiệu quả phục hồi 
chức năng và thẩm mỹ sau phẫu thuật tốt nhất. 
Ở trẻ em bất kỳ phẫu thuật cắt bỏ nào trong độ 
tuổi này sẽ gây ra sự khác biệt về chiều dài chi, 
từ sự phát triển liên tục của chi dưới đối nghịch 
dẫn đến rối loạn dáng đi, vẹo cột sống, biến 
dạng khung chậu, đau thắt lưng và ảnh hưởng 
thẩm mỹ ở chân bị rút ngắn9. Cắt bỏ hoàn toàn 
khối u, tránh sự khác biệt về chiều dài chi và 
kết quả chức năng gối tốt là những mục tiêu 
chính của phẫu thuật khối u ở trẻ em4. Khi chiều 
cao của bệnh nhân còn phát triển thì khớp nhân 
tạo chuôi dài bản lề nhiều mô đun còn cho thấy 
đây là một lựa chọn tốt khi bệnh nhân phát triển 
tăng chiều cao (chiều dài chân lành) thì ta có 
thể tăng chiều dài cho chân phẫu thuật bằng 
cách thêm mô đun thích hợp vào bộ khớp gối 
nhân tạo để tăng chiều dài chân phẫu thuật, 
làm cho chiều dài hai chân bằng nhau.
Phẫu thuật thay khớp gối ở bệnh nhân u 
xương.
Nguyên tắc phẫu thuật trong u xương là 
phải cắt u tối đa, do đó khi u xương xâm lấn 
vào phần mềm bác sĩ phẫu thuật bắt buộc phải 
can thiệp cắt bỏ khối u xương và phần mềm 
(dây chằng bên ngoài và dây chằng bên trong 
khớp gối). Việc lấy đi tổ chức u xương và phần 
mềm sẽ phải can thiệp rộng rãi, tổ chức cắt sẽ 
phải đảm bảo lấy được toàn bộ khối u, do đó 
sau bước cắt bỏ này, thường sẽ để lại khuyết 
hổng lớn và phần mềm sẽ bị tổn thương nhiều. 
Chúng tôi nhận thấy làm vững khớp gối sau mổ 
thay khớp nhân tạo với các ca bệnh này chỉ có 
thể giải quyết tốt nhất với khớp bản lề chuôi dài, 
loại khớp này sẽ giúp cố định vững chắc làm 
vững khớp ngay sau mổ giúp hiệu quả phục hồi 
nhanh chức năng khớp gối. Sau mổ, chức năng 
khớp gối tốt, đi lại gần như bình thường, tuy 
nhiên đây mới là những trường hợp đầu tiên 
chúng tôi phẫu thuật nên sẽ cần thời gian theo 
dõi thêm và kiểm soát các biến chứng xa sau 
phẫu thuật.
IV. KẾT LUẬN
Phẫu thuật bảo tổn chi thể và tiến hành thay 
khớp gối là bước đi mới trong điều trị ung thu 
xương. Đây là hai ca phẫu thuật đầu tiên được 
thực hiện thành công tại Việt Nam. Việc thực 
hiện thành công phẫu thuật hai bệnh nhân bị 
u xương này đã mở ra hi vọng cho các bệnh 
nhân ung thư nói chung, u xương nói riêng 
trong việc bảo tồn lại chi thể bị ung thư, nhất là 
những bệnh nhân bị ung thư xương thường rất 
trẻ tuổi. Qua nghiên cứu chúng tôi kết luận như 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
49TCNCYH 128 (4) - 2020
sau cPhẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối uu đến tổ 
chức lành là rất cần thiết, với đường mổ dưới 
cơ rộng trong có nhiều ưu điểm tốt để mở rộng 
trường can thiệp hếtphẫu trường khối u trong 
phẫu thuật thay khớp. Khớp nhân tạo bản lề 
chuôi dài có mô đun cho phép phục hồi mất 
đoạn xương, phần mềm lớn, gối vững chắc 
và có thể tăng thêm chiều dài chân giúp chức 
năng sau mổ đạt hiệu quả tối đa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Malawer MM, Wittig JC, Bickels 
J, Wiesel SW. In: Operative Techniques in 
Orthopaedic Surgical Oncology. ; 2016:235-
258. 
openreader?id=none&isbn=9781496344793. 
Accessed February 25, 2020.
2. Eckardt JJ, Eilber FR, Dorey FJ, Mirra 
JM. The uCLA experience in limb salvage 
surgery for malignant tumors. Orthopedics. 
1985;8(5):612-621.
3. Bacci G, Ferrari S, Bertoni F, et al. Long-
term outcome for patients with nonmetastatic 
osteosarcoma of the extremity treated at the 
istituto ortopedico rizzoli according to the istituto 
ortopedico rizzoli/osteosarcoma-2 protocol: an 
updated report. J Clin Oncol Off J Am Soc Clin 
Oncol. 2000;18(24):4016-4027. doi:10.1200/
JCO.2000.18.24.4016
4. Pala E, Trovarelli G, Angelini A, Maraldi 
M, Berizzi A, Ruggieri P. Megaprosthesis of the 
knee in tumor and revision surgery. Acta Bio 
Medica Atenei Parm. 2017;88(Suppl 2):129-
138. doi:10.23750/abm.v88i2-S.6523
5. Mittermayer F, Windhager R, 
Dominkus M, et al. Revision of the Kotz type 
of tumour endoprosthesis for the lower limb. 
J Bone Joint Surg Br. 2002;84(3):401-406. 
doi:10.1302/0301-620x.84b3.12204
6. Conrad Eu, ed. In: Orthopaedic 
Oncology: Diagnosis and Treatment. New York: 
Thieme; 2009:117.
7. Sanna M, Sanna C, Caputo F, Piu G, 
Salvi M. Surgical approaches in total knee 
arthroplasty. Joints. 2013;1(2):34-44.
8. Mirra JM, Picci P, Gold RH. In: Bone 
Tumors: Clinical, Radiologic, and Pathologic 
Correlations. Philadelphia: Lea & Febiger; 
1989:248-262.
9. Mavrogenis AF, Papagelopoulos 
PJ, Coll-Mesa L, et al. Expandable tumor 
prostheses in children. J BuON Off J Balk union 
Oncol. 2012;17(1):9-15.
10. Pala E, Henderson ER, Calabrò T, 
et al. Survival of current production tumor 
endoprostheses: complications, functional 
results, and a comparative statistical analysis. J 
Surg Oncol. 2013;108(6):403-408. doi:10.1002/
jso.23414.
Summary
TOTAL KNEE REPLACEMENT FOR OSTEOSARCOMA OF 
FEMORAL CONDYLAR IN CHILDRENS: 2 CASES REPORT
Limb salvage surgery in treating osteosarcoma after a complete response to neo-adjuvant 
chemotherapy is a critical medical achievement in Viet Nam. In this study, we reported 2 cases of bone 
cancer (Osteosarcoma, Chondromyxoid fibroma) treated by total knee replacement with constrained 
implant and long-stem long stemmegaprosthesis through subvastus incision. The objectives of 
surgery were to completely excise the tumor, prevent recurrence, and restore knee function and limb 
length. After 6 months of post-operative follow-upon, good knee function, and improved mobility are 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
50 TCNCYH 128 (4) - 2020
noted with , KSS (Knee Society Score) and KFS (Knee Function Score) are greater than 60, and limb 
length is well recovered. Through reseachanalysis, , we found that the removal of the entire tumor is 
necessary, the subvatus incision has a good advantage to expand the intervention field, and to remove 
all tumors in joint replacement surgery. Long-stem and constrain implant in total knee replacement 
allow for the restoration of lost bone loss, and a large soft tissue and optimal postoperative function.
Keywords: Bone tumor, Chondromyxoid fibroma, total knee replacement, Megaprosthesis.

File đính kèm:

  • pdfthay_khop_goi_dieu_tri_ung_thu_xuong_vung_loi_cau_xuong_dui.pdf