Thay đổi nồng độ cortisol niệu ở trẻ em trong cơn hen cấp điều trị bằng Corticosteroid

Corticosteroid là thuốc thiết yếu trong điều trị và dự phòng hen phế quản ở trẻ em. Bên cạnh hiệu quả điều trị,

thuốc có thể gây những tác dụng không mong muốn khi dùng liều cao và kéo dài. Nhằm đánh giá ảnh hưởng của

corticosteroid khi điều trị trẻ trong cơn hen cấp, chúng tôi tiến hành khảo sát sự biến đổi nồng độ cortisol niệu ở

trẻ trong cơn hen cấp mức độ trung bình được điều trị bằng corticosteroid đường khí dung hoặc toàn thân. Đây là

nghiên cứu mô tả tiến cứu có so sánh trước sau. Mẫu nước tiểu để định lượng cortisol và creatinin niệu được thu

thập ngay khi trẻ vào viện và 8h sáng ngày thứ 2 sau nhập viện. 41 trẻ nhập viện vì cơn hen cấp mức độ trung bình

được chia thành hai nhóm: nhóm khí dung budesonide và nhóm tiêm tĩnh mạch methylprednisolon. Kết quả nghiên

cứu cho thấy nhóm khí dung budesonide không có sự thay đổi về tỷ số cortisol/creatinin niệu sau 2 ngày điều trị:

172,10 umol/umol so với 97,26 umol/umol khi nhập viện (p = 0,18). Tuy nhiên, nhóm tiêm methylprednisolon có sự

giảm tỷ số cortisol/creatinin niệu sau 2 ngày điều trị: 89,52 umol/umol so với 361,00 umol/umol với (p = 0,015). Sử

dụng corticosteroid khí dung ít làm thay đổi nồng độ cortisol hơn so với sử dụng corticosteroid đường toàn thân.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi nồng độ cortisol niệu ở trẻ em trong cơn hen cấp điều trị bằng Corticosteroid", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi nồng độ cortisol niệu ở trẻ em trong cơn hen cấp điều trị bằng Corticosteroid

Thay đổi nồng độ cortisol niệu ở trẻ em trong cơn hen cấp điều trị bằng Corticosteroid
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019140
THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ CORTISOL NIỆU Ở TRẺ EM 
TRONG CƠN HEN CẤP ĐIỀU TRỊ BẰNG CORTICOSTEROID
Đinh Thị Hoa, Nguyễn Thị Diệu Thúy
Trường Đại học Y Hà Nội
Corticosteroid là thuốc thiết yếu trong điều trị và dự phòng hen phế quản ở trẻ em. Bên cạnh hiệu quả điều trị, 
thuốc có thể gây những tác dụng không mong muốn khi dùng liều cao và kéo dài. Nhằm đánh giá ảnh hưởng của 
corticosteroid khi điều trị trẻ trong cơn hen cấp, chúng tôi tiến hành khảo sát sự biến đổi nồng độ cortisol niệu ở 
trẻ trong cơn hen cấp mức độ trung bình được điều trị bằng corticosteroid đường khí dung hoặc toàn thân. Đây là 
nghiên cứu mô tả tiến cứu có so sánh trước sau. Mẫu nước tiểu để định lượng cortisol và creatinin niệu được thu 
thập ngay khi trẻ vào viện và 8h sáng ngày thứ 2 sau nhập viện. 41 trẻ nhập viện vì cơn hen cấp mức độ trung bình 
được chia thành hai nhóm: nhóm khí dung budesonide và nhóm tiêm tĩnh mạch methylprednisolon. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy nhóm khí dung budesonide không có sự thay đổi về tỷ số cortisol/creatinin niệu sau 2 ngày điều trị: 
172,10 umol/umol so với 97,26 umol/umol khi nhập viện (p = 0,18). Tuy nhiên, nhóm tiêm methylprednisolon có sự 
giảm tỷ số cortisol/creatinin niệu sau 2 ngày điều trị: 89,52 umol/umol so với 361,00 umol/umol với (p = 0,015). Sử 
dụng corticosteroid khí dung ít làm thay đổi nồng độ cortisol hơn so với sử dụng corticosteroid đường toàn thân.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Cơn hen cấp, budesonide, methylprednisolon, cortisol niệu
Hen phế quản (HPQ) là một trong những 
bệnh lý hô hấp mạn tính phổ biến nhất ở trẻ em 
[1]. Corticosteroid là thuốc chủ yếu trong điều 
trị và dự phòng hen phế quản. Corticosteroid 
có nhiều dạng như dạng tiêm tĩnh mạch, 
dạng uống, dạng khí dung, dạng bôi ngoài da. 
Cortiosteroid được sử dụng rộng rãi trong điều 
trị và dự phòng hen phế quản, tuy nhiên bên 
cạnh tác dụng điều trị, thuốc cũng gây ra nhiều 
tác dụng không mong muốn, nhất là khi dùng 
kéo dài hoặc liều cao và trên đối tượng nhạy 
cảm là trẻ em và trẻ sơ sinh. Ảnh hưởng chủ 
yếu của corticosteroid là lên sự tăng trưởng, 
chậm phát triển chiều cao, rối loạn chuyển 
hóa xương, chức năng tuyến thượng thận, và 
nấm miệng [2]. Năm 1972, corticosteroid dạng 
hít lần đầu tiên được giới thiệu và cho thấy là 
một loại thuốc có tiềm năng thay thế dần cho 
corticosteroid đường toàn thân [3]. Tuy nhiên, 
các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cả hai dạng này 
đều có thể gây ra tác dụng không mong muốn 
là ức chế trục dưới đồi - tuyến yên – tuyến 
thượng thận, đặc biệt khi sử dụng với liều cao 
[4]. Corticosteroid dạng xịt, khí dung được cho 
rằng an toàn hơn dạng uống, tiêm do thuốc có 
hiệu quả tại chỗ cao, ít ảnh hưởng toàn thân 
vì có ái lực cao với biểu mô đường hô hấp và 
được thải trừ nhanh chóng qua gan. Sử dụng 
corticosteroid đường toàn thân có thể gây ảnh 
hưởng đến chức năng tuyến thượng thận và 
làm trẻ chậm phát triển. Cortisol là hormone 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Diệu Thúy, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 09/08/2019
Ngày được chấp nhận: 10/09/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 141
đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động 
chuyển hóa của tế bào do tuyến thượng thận 
sản xuất ra. Cortisol được bài xuất chủ yếu qua 
thận, 90 - 95% cortisol trong máu ở dạng liên 
hợp với các albumin, chỉ có 5 – 10% ở dạng tự 
do có hoạt tính sinh học và được lọc qua nước 
tiểu vì vậy nồng độ cortisol trong máu có mối 
tương quan chặt chẽ với nồng độ cortisol trong 
nước tiểu. Khi cơ thể được nhận một lượng 
lớn cortisol ngoại sinh sẽ làm thay đổi bài tiết 
cortisol thông qua điều hòa trục dưới đồi - tuyến 
yên - thượng thận, khi ngừng cung cấp đột ngột 
có thể gây suy thượng thận cấp. Trên thế giới 
đã có những nghiên cứu về sự thay đổi nồng 
độ cortisol máu ở bệnh nhân cơn hen cấp điều 
trị bằng corticosteroid [5; 6]. Tuy nhiên nồng độ 
cortisol thay đổi trong ngày, vì thế để đánh giá 
sự thay đổi nồng độ cortisol, thường dựa vào 
chỉ số cortisol/ creatinin niệu vì cortisol đa số 
gắn với albumin. Ở trẻ em, xét nghiệm máu 
là một thủ thuật gây đau và xâm nhập, ngược 
lại nồng độ cortisol trong nước tiểu phản ánh 
gián tiếp, chính xác sự thay đổi nồng độ cortisol 
trong máu [7; 8]. 
Theo phác đồ xử trí và điều trị cơn hen cấp 
ở trẻ em, khi cơn hen cấp mức độ nhẹ điều 
trị ngoại trú bằng khí dung salbutamol. Ở cơn 
hen cấp mức độ nặng cần có sự phối hợp giữa 
khí dung salbutamol với corticosteroid đường 
toàn thân và tại chỗ. Với cơn hen cấp mức độ 
trung bình trên lâm sàng có thể lựa chọn khí 
dung salbutamol kết hợp corticoisteroid tại chỗ 
hoặc đường toàn thân. Tuy nhiên đường dùng 
corticosteroid khác nhau có thể gây các tác 
dụng không mong muốn khác nhau. Với mục 
tiêu đánh giá sự ảnh hưởng của corticosteroid 
trong điều trị cơn hen cấp, chúng tôi tiến hành 
khảo sát sự biến đổi nồng độ cortisol niệu ở trẻ 
có cơn hen cấp mức độ trung bình được điều 
trị bằng corticosteroid đường toàn thân hoặc 
đường tại chỗ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các trẻ có cơn hen cấp điều trị nội trú tại 
bệnh viện Nhi Trung ương.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Trẻ từ 12 tháng-15 tuổi
- Bệnh nhân được chẩn đoán xác định hen 
theo GINA 2018 [9]
- Bệnh nhân có cơn hen phế quản cấp được 
phân loại mức độ trung bình được điều trị bằng 
corticosteroid đường toàn thân hoặc khí dung.
[8]
- Điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương
- Bệnh nhân và gia đình đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân cơn hen cấp mức độ trung bình 
tiến triển thành cơn hen cấp nặng 
- Bệnh nhân hen phế quản mắc thêm các 
bệnh nặng khác như: tim bẩm sinh; thấp tim, 
suy thận...
- Bệnh nhân hen phế quản nhập viện vì các 
nguyên nhân khác như: tràn dịch màng phổi; 
tràn khí màng phổi; dị vật đường thở; viêm phổi.
- Bệnh nhân đã sử dụng corticosteroid 
đường toàn thân hay khí dung trước khi nhập 
viện trong vòng 3 ngày.
2. Phương pháp
Thời gian nghiên cứu: Từ 06/2018 đến 
05/2019
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận 
tiện, có 41 trẻ có cơn hen cấp mức độ trung 
bình đủ tiêu chuẩn được mời tham gia nghiên 
cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu có so sánh trước 
sau
Tất cả trẻ vào viện vì cơn hen cấp tại khoa 
Cấp cứu chống độc và khoa Miễn dịch - Dị ứng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019142
– Khớp Bệnh viện Nhi Trung ương có đủ tiêu 
chuẩn được mời vào nghiên cứu sẽ trải qua các 
bước:
Bác sỹ trực tiếp hỏi bệnh sử, tiền sử, khám 
lâm sàng, đánh giá mức độ nặng của cơn hen 
cấp theo thang điểm PAS (pediatric asthma 
score) [10].
Những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn vào 
nghiên cứu sẽ được chia thành 2 nhóm: Nhóm 
1 sử dụng budesonide khí dung và nhóm 2 sử 
dụng methylprednislon tĩnh mạch. Sơ đồ điều 
trị như sau:
- Nhóm 1: Ventolin (salbutamol) khí dung 
liều 0,15 mg/kg/ liều x 3 liều cách nhau 20 phút 
+ Budesonide khí dung liều 500 mcg/liều x 3 
liều cách nhau 20 phút.
- Nhóm 2: Ventolin (salbutamol) khí 
dung 0,15 mg/kg/ liều x 3 liều cách 20 phút 
+Methylprednisolon 2mg/kg/ ngày tiêm tĩnh 
mạch chậm.
Thu thập 2 mẫu nước tiểu ở các thời điểm:
+ Mẫu 1: Ở thời điểm trẻ mới nhập viện, 
chưa dùng corticosteroid (T0)
+ Mẫu 2: 8h sáng ngày thứ 2 sau khi trẻ 
nhập viện (T1).
+ Định lượng cortisol và creatinin niệu ở 2 
thời điểm T0 và T1
3. Xử lý số liệu
Sau khi thu thập, số liệu được nhập và xử lý 
theo chương trình SPSS 20.0, với p < 0,05 là 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
4. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân và người nhà tham gia nghiên 
cứu một cách tự nguyện. Nghiên cứu được 
thông qua Hội đồng Đạo đức trong Nghiên cứu 
Y sinh học của Bệnh viện Nhi Trung ương ngày 
30/5/2018 số 2017/BVNTW-VNCSKTE. 
III. KẾT QUẢ 
Có 41 trẻ nhập viện vì cơn hen cấp mức độ trung bình tại bệnh viện Nhi trung ương từ tháng 6 
năm 2018 đến tháng 5 năm 2019 đồng ý tham gia nghiên cứu. 18 bệnh nhân (43,9%) nhóm khí dung 
budesonide và 23 bệnh nhân (56,1%) nhóm tiêm methylprednisolon hoàn thành quá trình theo dõi.
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Budesonide khí dung
(n, %)
Methylprednisolon 
tiêm tĩnh mạch (n, %)
p
Tuổi 5,5 5 0,86
Giới (nữ) 6 (33,3) 5 (21,7) 0,40
Số lần nhập viện trong năm 0,88 0,87 0,96
Tiền sử gia đình mắc hen
Bố mẹ
Anh/chị/em
9(50)
3(16,7)
10 (43,5)
3 (13,0) 0,86
Tiền sử dị ứng bản thân 11 (61,1) 10 (43,5) 0,26
Sống với người hút thuốc lá 6 (33,3) 9 (39,1) 0,65
Nhịp tim 118,0 ±21,5 117,0 ± 17,5 0,79
SpO2 95,27 ±1,12 94,13 ± 1,84 0,07
Nhiệt độ 36,9 ± 0,36 37,0 ± 0,4 0,54
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 143
Budesonide khí dung
(n, %)
Methylprednisolon 
tiêm tĩnh mạch (n, %)
p
Điểm PAS lúc vào viện 9,88 ± 0,75 10,30 ± 0,92 0,09
Dự phòng hen bằng corticosteroid 2 (11,1) 6 (26,1) 0,23
Dự phòng hen bằng montelukast 6(33,3) 10 (43,5) 0,51
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về độ tuổi, giới, tiền sử gia đình và bản thân giữa hai nhóm 
hen phế quản. Độ nặng của cơn hen cấp (SpO2, điểm PAS) là tương đồng giữa hai nhóm.
2. Sự thay đổi nồng độ cortisol niệu ở bệnh nhân hen phế quản cấp điều trị bằng 
corticosteroid
Biểu đồ 1. Biến đổi tỉ số cortisol/creatinin niệu ở nhóm bệnh nhân 
tiêm methylprednisolon 
Tỉ số cortisol/creatinin niệu ở nhóm cơn hen cấp trung bình tiêm methylprednisolon sau 2 ngày 
nhập viện là 89,52 umol/umol, giảm so với khi vừa nhập viện là 361,00 umol/umol; sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p = 0,015
Biểu đồ 2. Biến đổi tỉ số cortisol/creatinin niệu ở nhóm bệnh nhân 
khí dung budesonide
Tỉ lệ cortisol/ creatinin niệu ở nhóm cơn hen cấp trung bình khí dung budesonide sau 2 ngày nhập 
viện là 97,26 umol/umol so với 172,10 umol/umol khi nhập viện, sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê với p = 0,18.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019144
IV. BÀN LUẬN
Năm 2017, Saito và cộng sự đã tiến hành so 
sánh hiệu quả điều trị và tác dụng không mong 
muốn của corticosteroid đường hít liều cao trong 
điều trị cơn hen cấp ở trẻ dưới 3 tuổi tại 3 bệnh 
viện tại Nhật Bản [5]. 51 trẻ nhập viện vì cơn hen 
cấp mức độ trung bình được chia làm 2 nhóm 
ngẫu nhiên. Một nhóm sử dụng budesonide khí 
dung, một nhóm sử dụng methylprednisolon tiêm 
tĩnh mạch. Mẫu cortisol máu được thu thập lúc 
nhập viện và trong suốt 4 ngày sau đó. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy có sự giảm đáng kể nồng độ 
cortisol ở nhóm dùng corticosteroid đường toàn 
thân, hậu quả của ức chế tuyến thượng thận ở 
nhóm này trong khi nồng độ cortisol không thay 
đổi ở nhóm khí dung budesonide.
Tuy nhiên, định lượng cortisol máu là một thủ 
thuật xâm lấn, gây đau cho bệnh nhân, nhất là 
trẻ nhỏ. Thu thập nước tiểu là một kỹ thuật dễ 
thực hiện, không gây đau cho bệnh nhân. Hơn 
nữa, nồng độ cortisol máu thay đổi trong ngày 
nên nồng độ cortisol niệu cũng biến đổi theo. 
Do phần lớn cortisol gắn với albumin nên tỷ lệ 
cortisol bài tiết qua nước tiếu thường song hành 
với creatinin, là chất chuyển hóa của albumin. 
Phần lớn budesonide hít vào phổi được hấp 
thụ, chuyển hóa nhanh và mạnh trong gan. 
Hai chất chuyển hóa chủ yếu, tạo nên qua sự 
biến đổi sinh học là 16α-hydroxyprednisolon 
và 6β-hydroxybudesonide, thời gian bán 
thải là 2 giờ, và tồn tại trong nước tiểu đến 
12 giờ [11; 12]. Methylprednisolone liên kết 
với protein huyết tương, chủ yếu là globulin. 
Chỉ corticosteroid tự do có tác dụng và được 
chuyển hóa. Ở người, methylprednisolone 
được chuyển hóa ở gan thành các chất 
chuyển hóa không hoạt động; những chất 
chính là 20α-hydroxymethylprednisolone và 
20β-hydroxymethylprednisolone được bài tiết 
qua nước tiểu. Thời gian bán hủy trung bình 
của methylprednisolone là 1,8 đến 5,2 giờ. Thời 
gian bán thải trừ trung bình dao động từ 2,4 đến 
3,5 giờ ở người trưởng thành khỏe mạnh bình 
thường và không phụ thuộc vào đường dùng. 
Chính vì vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, xét 
nghiệm cortisol niệu sẽ không bị ảnh hưởng bởi 
phản ứng chéo của các chất chuyển hóa này với 
cortisol nội sinh.
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành 
thu thập nước tiểu và sử dụng chỉ số cortisol/
Bảng 2. Tỉ số cortisol/creatinin niệu khi nhập viện theo điều trị dự phòng
Dự phòng
Corticosteroid dạng hít
(umol/umol)
Dự phòng
Montelukast
(umol/umol)
Dự phòng chung
(umol/umol)
Có
Trung vị
Min - max
165,66
4,92-1249,36
282,17
4,92-2380,04
261,20
4,92-2380,04
Không
Trung vị
Min - max
206,92
9,27-2380,04
222,27
9,27-1946,82
210,32
9,27-1946,82
P 0,21 0,44 0,98
Tỉ số cortisol/creatinin niệu ở trẻ có cơn hen cấp mức độ trung bình không có sự khác biệt có giữa 
nhóm có dự phòng và không dự phòng (p = 0,98), dù là dự phòng bằng corticosteroid dạng hít (p = 
0,21) hay montelukast (p = 0,44).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 145
creatinin niệu do chỉ số này tương quan chặt chẽ 
với nồng độ cortisol máu [7; 8]. Tại thời điểm 8h 
sáng ngày thứ 2 sau khi nhập viện, nhóm khí 
dung budesonide gồm 18 bệnh nhân cho thấy 
sự thay đổi nồng độ cortisol/ creatinin niệu không 
đáng kể so với khi vào viện (p > 0,05). Ngược lại, 
ở 23 bệnh nhân nhóm tiêm corticosteroid toàn 
thân có sự giảm đáng kể chỉ số này so với thời 
điểm trước dùng thuốc (p < 0,05). Đồng thời, tại 
thời điểm nhập viện, không có sự khác biệt về chỉ 
số cortisol/creatinin niệu giữa nhóm có dự phòng 
corticosteroid dạng xịt so với nhóm không dự 
phòng (p > 0,05), giữa nhóm dùng montelukast 
dự phòng và nhóm không dự phòng (p > 0,05). 
Điều này cho thấy corticosteroid dạng xịt ít gây 
ảnh hưởng đến nồng độ cortisol máu. 
Trong khi việc sử dụng corticosteroid đường 
toàn thân kéo dài đã được chứng minh gây ra 
nhiều tác dụng không mong muốn như ảnh 
hưởng đến chuyển hóa đường, calci, chức năng 
tuyến thượng thận, việc dùng corticosteroid 
đường toàn thân ngắn ngày cũng có thể gây 
ra một vài tác dụng bất lợi. Đã có một số báo 
cáo về các trường hợp lo lắng, trầm cảm, suy 
giảm trí nhớ, và rối loạn phát triển xương. Tuyến 
thượng thận giảm bài tiết cortisol theo cơ chế 
điều hòa ngược được ghi nhận ở bệnh nhân 
điều trị bằng liệu pháp corticosteroid toàn thân, ít 
xảy ra ở bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp 
corticosteroid khí dung hoặc dạng hít. Trong cơn 
hen cấp, liệu pháp khí dung budesonide liều cao 
trong khoảng thời gian từ 3 - 5 ngày dường như 
ít có tác dụng không mong muốn toàn thân. Tuy 
nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi không 
xác định được chức năng tuyến thượng thận có 
thực sự bị suy không vì các đánh giá, kiểm tra 
chức năng tuyến thượng thận không được thực 
hiện. Các triệu chứng của suy tuyến thượng 
thận như giảm hoạt động, các triệu chứng tiêu 
hóa, sốt không rõ nguyên nhân hoặc triệu chứng 
hạ đường huyết không quan sát thấy trong cả 
2 nhóm. Do đó, cả hai liệu pháp corticosteroid 
khí dung liều cao và liệu pháp corticosteroid toàn 
thân trong thời gian ngắn (3 - 5 ngày) được cho 
rằng không có khả năng dẫn đến suy thượng 
thận cấp.
V. KẾT LUẬN
 Trẻ có cơn hen cấp mức độ trung bình, sử 
dụng corticosteroid khí dung cho thấy ít biển đổi 
nồng độ cortisol hơn so với đường toàn thân. 
Bác sĩ lâm sàng cân nhắc lựa chọn con đường 
sử dụng corticosteroid phù hợp để vừa đạt 
được hiệu quả điều trị, vừa hạn chế tối đa tác 
dụng không mong muốn.
Corticosteroid là thuốc được khuyến 
cáo trong điều trị cơn hen cấp. Ở trẻ có cơn 
hen cấp mức độ trung bình, ưu tiên sử dụng 
corticosteroid tại đường hô hấp giúp làm giảm 
các tác dụng toàn thân không mong muốn.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến 
ban lãnh đạo và các cán bộ nhân viên khoa 
Miễn dịch – Dị ứng – Khớp và khoa Cấp cứu – 
Chống độc - Bệnh viện Nhi trung ương đã giúp 
đỡ trong quá trình thu thập số liệu và hoàn thiện 
nghiên cứu này. Đặc biệt, chúng tôi xin gửi lời 
cảm ơn sâu sắc đến các bệnh nhân, gia đình 
bệnh nhân đã phối hợp tham gia trong suốt quá 
trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anwar K.A.S.K. (2007). Evidence-
Based Selection of Inhaled Corticosteroid 
for Treatment of Chronic Asthma. Journal of 
Asthma, 44(1), 1-12.
2. Heffler E. (2018). Inhaled Corticosteroids 
Safety and Adverse Effects in Patients with 
Asthma. J Allergy Clin Immunol Pract, 6(3), 
776-781.
3. Clark T.J. (1972). Effect of beclomethasone 
dipropionate delivered by aerosol in patients 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019146
with asthma. Lancet, 1(7765), 1361-1364.
4. Kowalski M.L. (2016). Adrenal 
suppression by inhaled corticosteroids in 
patients with asthma: A systematic review and 
quantitative analysis. Allergy Asthma Proc, 
37(1), 9-17.
5. Saito M., Kikuchi Y., Kawarai L.A. (2017). 
High-dose nebulized budesonide is effective for 
mild asthma exacerbations in children under 
3 years of age. Eur Ann Allergy Clin Immunol, 
49(1), 22-27.
6. Yanagida M. (2015). Budesonide inhalation 
suspension versus methylprednisolone for 
treatment of moderate bronchial asthma 
attacks. World Allergy Organ J, 8(1), 14.
7. Wilson A.M., Lipworth B.J. (1999). 24 
hour and fractionated profiles of adrenocortical 
activity in asthmatic patients receiving inhaled 
and intranasal corticosteroids. Thorax, 54(1), 
20-6.
8. Fowler S.J. (2001). Dose-response for 
adrenal suppression with hydrofluoroalkane 
formulations of fluticasone propionate and 
beclomethasone dipropionate. Br J Clin 
Pharmacol, 52(1), 93-5.
9. Global Initiative for Asthma (GINA) 
(2018). Pocket Guide for Asthma Management 
and Prevention.
10. Kelly C.S. (2000). Improved outcomes 
for hospitalized asthmatic children using a 
clinical pathway. Ann Allergy Asthma Immunol, 
84(5), 509-516.
11. Ahmet A., Kim H., Spier S. (2011). 
Adrenal suppression: A practical guide to 
the screening and management of this 
under-recognized complication of inhaled 
corticosteroid therapy. Allergy Asthma Clin 
Immunol, 7, 13.
12. Deventer K. (2006). Detection of 
budesonide in human urine after inhalation by 
liquid chromatography-mass spectrometry. J 
Pharm Biomed Anal, 42(4), 474-9.
Summary
URINARY CORTISOL LEVEL IN CHILDREN WITH ACUTE ASTHMA 
ATTACKS TREATED WITH CORTICOSTEROIDS
Corticosteroids are essential drugs for the treatment and prevention of asthma in children. In 
addition to the therapeutic effects, the drugs may cause adverse drug reactions (ADRs) when 
taking in high and prolonged doses. In order to assess the effects of corticosteroids in children 
with acute asthma, we investigated the changes in urinary cortisol levels in children with moderate 
asthma attacks. This was a prospective descriptive study. Urinary samples were collected 
immediately upon admission and at 8a.m on the second day after admission for measurement 
of cortisol and creatinine. 41 hospitalized children with moderate acute asthma attacks were 
divided in two groups: nebulized budesonide group and intravenous methylprednisolone group. 
In the budesonide group, there was no change in urinary cortisol/creatinine ratio after 2 days of 
treatment (97.26 umol/umol compared to 172.10 umol/umol at the admission time (p = 0.18)). 
In the methylprednisolone group, there was a decrease in urinary cortisol/creatinine ratio after 2 
days of treatment (89.52 umol/umol compared to 361.00 umol/umol (p = 0.015)). In conclusion, 
nebulized corticosteroid is less likely to alter the cortisol levels than the intravenous corticosteroid.
Keywords: Acute asthma attacks, budesonide, methylprednisolone urinary cortisol

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_nong_do_cortisol_nieu_o_tre_em_trong_con_hen_cap_di.pdf