Thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định

Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá những thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch trước và sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục trên một nhóm có so sánh trước và sau can thiệp, sử dụng thang đo tuân thủ điều trị của Donald được thực hiện với 102 người bệnh tim mạch đang dùng thuốc chống đông kháng vitamin K điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Kết quả: Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch còn hạn chế với điểm trung bình chỉ đạt 3,84 ± 1,98 điểm trên tổng 8 điểm của thang đo. Ngay sau can thiệp và 1 tháng sau can thiệp, kiến thức về tuân thủ của người bệnh đã được cải thiện với điểm trung bình kiến thức lần lượt là 7,56 ± 0,82 điểm và 7,09 ± 1,09 điểm so với 3,84 ± 1,98 điểm (p<0,01). các="" tỷ="" lệ="" người="" bệnh="" theo="" mức="" độ="" kiến="" thức="" “kém”,="" “trung="" bình”="" và="" “tốt”="" về="" tuân="" thủ="" trước="" can="" thiệp="" lần="" lượt="" là="" 23,5%,="" 51,0%="" và="" 25,5%="" đã="" thay="" đổi="" theo="" hướng="" tích="" cực="" hơn="" ngay="" sau="" can="" thiệp="" và="" 1="" tháng="" sau="" can="" thiệp="" với="" không="" còn="" người="" bệnh="" ở="" mức="" độ="" kém,="" mức="" độ="" tốt="" lần="" lượt="" là="" 95,1%="" và="" 86,3%.="" kết="" luận:="" kiến="" thức="" về="" tuân="" thủ="" điều="" trị="" thuốc="" chống="" đông="" kháng="" vitamin="" k="" của="" người="" bệnh="" tim="" mạch="" trong="" nghiên="" cứu="" còn="" nhiều="" hạn="" chế="" trước="" can="" thiệp="" và="" đã="" được="" cải="" thiện="" rõ="" rệt="" sau="" can="" thiệp="" giáo="" dục="" sức="">

pdf 10 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định

Thay đổi kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K của người bệnh tim mạch điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định
216
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ THUỐC CHỐNG ĐÔNG 
KHÁNG VITAMIN K CỦA NGƯỜI BỆNH TIM MẠCH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH
Tống Thị Ánh1b, Ngô Huy Hoàng2, Nguyễn Thị Mai Hương3b 
Đặng Thị Hân2, Nguyễn Thị Dung2b
1Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, 
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
3Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá 
những thay đổi kiến thức về tuân thủ điều 
trị thuốc chống đông kháng vitamin K của 
người bệnh tim mạch trước và sau can 
thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 
can thiệp giáo dục trên một nhóm có so 
sánh trước và sau can thiệp, sử dụng thang 
đo tuân thủ điều trị của Donald được thực 
hiện với 102 người bệnh tim mạch đang 
dùng thuốc chống đông kháng vitamin K 
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Nam Định năm 2020. Kết quả: Trước can 
thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức về tuân 
thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin 
K của người bệnh tim mạch còn hạn chế 
với điểm trung bình chỉ đạt 3,84 ± 1,98 điểm 
trên tổng 8 điểm của thang đo. Ngay sau 
can thiệp và 1 tháng sau can thiệp, kiến 
thức về tuân thủ của người bệnh đã được 
cải thiện với điểm trung bình kiến thức lần 
lượt là 7,56 ± 0,82 điểm và 7,09 ± 1,09 điểm 
so với 3,84 ± 1,98 điểm (p<0,01). Các tỷ lệ 
người bệnh theo mức độ kiến thức “Kém”, 
“Trung bình” và “Tốt” về tuân thủ trước can 
thiệp lần lượt là 23,5%, 51,0% và 25,5% 
đã thay đổi theo hướng tích cực hơn ngay 
sau can thiệp và 1 tháng sau can thiệp với 
không còn người bệnh ở mức độ kém, mức 
độ tốt lần lượt là 95,1% và 86,3%. Kết luận: 
Kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống 
đông kháng vitamin K của người bệnh tim 
mạch trong nghiên cứu còn nhiều hạn chế 
trước can thiệp và đã được cải thiện rõ rệt 
sau can thiệp giáo dục sức khỏe.
Từ khóa: Tuân thủ điều trị, thuốc chống 
đông kháng vitamin K.
CHANGES IN THE KNOWLEDGE OF COMPLIANCE TO VITAMIN K ANTICOAGULATION
THERAPY IN OUTPATIENTS WITH CARDIOVASCULAR DISEASE
IN NAM DINH GENERAL HOSPITAL
ABSTRACT
Objective: To describe the actual 
knowledge of compliance to vitamin K 
anticoagulation therapy in out-patients 
with cardiovascular disease and to assess 
changes before and after patient educational 
intervention in 2020. Method: The one 
group pre-test and post-test educational 
intervention was conducted among 102 
out-patients with cardiovascular disease 
undergoing vitamin K anticoagulation 
therapy. The Donald scale to measure 
medication adherence was used to 
assess the knowledge before and after 
the educational intervention. Results: 
Before the health educational intervention, 
Người chịu trách nhiệm: Tống Thị Ánh
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 13/10/2020
Ngày duyệt bài: 25/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
217
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
the participated patients’ knowledge of 
compliance to vitamin K anticoagulation 
therapy was limited with the mean score of 
only 3.84 ± 1.98 points of the 8 point-scale, 
then increased to 7.56 ± 0.82 points right 
after the intervention and remained at 7.09 
± 1.09 points one month later, the difference 
in scores after and before the intervention 
were statistically significant with p values 
of 0.01. The percentages of patients with 
the knowledge of “Poor”, “Average” and 
“Good” levels were 23.5%, 51.0% and 
25.5% before the intervention. Immediately 
after the intervention and 1 month after the 
intervention, the percentage of patients 
with the good level of knowledge increased 
to 95.1% and 86.3%, respectively and no 
patient with the poor level of knowledge 
right after and one month later the 
intervention. Conclusion: The knowledge 
of cardiovascular disease patients’ 
adherence to vitamin K anticoagulant 
therapy within the study was limited then 
improved significantly after the educational 
intervention.
Keywords: Therapeutic compliance, 
vitamin k anticoagulants.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tần suất các dạng bệnh van tim được 
dự đoán ngày càng tăng [1], rung nhĩ được 
dự đoán sẽ ảnh hưởng đến hơn 8 triệu 
người ở Hoa Kỳ vào năm 2050 và 17,9 triệu 
ở Châu Âu vào năm 2060 [(2]. Rung nhĩ 
ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn 
thế giới không được điều trị, làm tăng nguy 
cơ và mức độ nghiêm trọng của đột quỵ, 
suy tim và tử vong [3]. Việt Nam là nước 
có tỷ lệ bệnh van tim khá cao và số lượng 
người bệnh (NB) phẫu thuật thay van tim 
ngày càng nhiều. Trong điều kiện nước ta 
hiện nay, thay van tim bằng van cơ học vẫn 
là lựa chọn chủ yếu [4, 5]. Dịch tễ học cho 
thấy những bệnh lý tim mạch cần sử dụng 
thuốc chông đông ngày càng tăng.
Thuốc chống đông kháng vitamin K 
(AVK) đã và đang được sử dụng rộng rãi 
nhằm mục đích dự phòng và điều trị bệnh 
lý huyết khối gây tắc mạch trong các bệnh 
như rung nhĩ, huyết khối tĩnh mạch và 
thuyên tắc phổi hay các bệnh van tim (6). 
Việc điều trị AVK gặp phải hai trở ngại chính 
là giới hạn dược lý của điều trị hẹp và hiệu 
quả của thuốc bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu 
tố như: mức độ nhạy cảm với thuốc của 
từng người bệnh, chế độ ăn, sự tuân thủ 
điều trị, tương tác thuốc, các bệnh nội khoa 
phối hợp (suy gan, suy thận) [7],[8].
Xét nghiệm INR (International normalized 
ratio: tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế) là chỉ số tin 
cậy nhất để đánh giá hiệu quả điều trị của 
AVK. Mục tiêu điều trị là đảm bảo ngưỡng 
INR từ 2-3 hoặc từ 3-4 tùy từng trường 
hợp. Nếu INR dưới ngưỡng mục tiêu điều 
trị (INR <2,0) thì NB có nhiều nguy cơ hình 
thành huyết khối, nếu INR cao hơn ngưỡng 
mục tiêu điều trị (INR >3,5) thì có nguy cơ 
gây biến chứng chảy máu. Huyết khối - tắc 
mạch do sử dụng thuốc chống đông không 
đạt ngưỡng dự phòng huyết khối hoặc sử 
dụng các chất làm giảm tác dụng chống 
đông của thuốc và biến chứng chảy máu 
là hậu quả chính liên quan đến AVK và là 
nguyên nhân chính gây bệnh tật, tàn phế 
hoặc dẫn đến tử vong ở nhóm NB sử dụng 
thuốc này. Tỷ lệ huyết khối xảy ra từ 0,01-
2,04/100 người bệnh/năm và biến chứng 
chảy máu là 0,1-6,2/100 người bệnh/năm 
[9]. Theo cơ quan sức khỏe quốc gia Anh, 
AVK là một trong năm nhóm thuốc có liên 
quan tới tai biến tử vong cần được quan 
tâm đến mức độ an toàn cho người bệnh 
[10]. 
Theo nghiên cứu của Shah Ebrahim 
và cộng sự (2011) thì biện pháp can thiệp 
thông qua giáo dục sức khỏe có thể cải 
thiện điều trị, giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim 
mạch [11]. Nghiên cứu của Jean-François 
Chenot cho thấy thực tế có một lỗ hổng 
kiến thức nghiêm trọng ở NB sử dụng thuốc 
chống đông [12]. Tại Việt Nam, chưa tìm 
218
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
thấy nghiên cứu can thiệp giáo dục nhằm 
cải thiện kiến thức tuân thủ điều trị thuốc 
chống đông cho người bệnh tim mạch 
được công bố chính thức. Một số nghiên 
cứu được công bố gần đây tập trung vào 
việc đánh giá thực trạng và tìm hiểu mối 
liên quan với kiến thức về tuân thủ điều trị 
thuốc chống đông kháng vitamin K [13], 
[14]. Vì thế, có một nhu cầu cấp thiết về 
nghiên cứu tác động của các can thiệp cụ 
thể để cải thiện sự tuân thủ điều trị ở NB 
sử dụng thuốc chống đông [15]. Với mong 
muốn đóng góp một phần vào cải thiện 
tuân thủ sử dụng thuốc chống đông kháng 
vitamin K, đảm bảo hiệu quả và an toàn sử 
dụng thuốc cho người bệnh, nghiên cứu 
này được thực hiện nhằm mục tiêu: Mô tả 
thực trạng và đánh giá những thay đổi kiến 
thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông 
kháng vitamin K của người bệnh tim mạch 
trước và sau can thiệp giáo dục sức khỏe 
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 
2020
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là người bệnh từ 
đủ 18 tuổi trở lên được chẩn đoán mắc một 
số bệnh lý tim mạch (thay van tim nhân tạo, 
hẹp van 2 lá, rung nhĩ, huyết khối tĩnh mạch 
sâu) được chỉ định dùng thuốc chống đông 
kháng vitamin K đang điều trị ngoại trú tại 
Phòng khám nội tim mạch Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Nam Định.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Người bệnh từ 
đủ 18 tuổi trở lên, có thời gian điều trị thuốc 
chống đông kháng vitamin K ngoại trú từ 1 
tháng trở lên tính đến thời điểm nghiên cứu 
và đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Người bệnh có khả năng tham gia chương 
trình giáo dục sức khoẻ và trả lời các câu 
hỏi phỏng vấn.
Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh đến 
tái khám nhưng có tình trạng bệnh phải 
chuyển vào điều trị nội trú. Người bệnh đã 
từng tham gia một chương trình giáo dục 
sức khoẻ có nội dung tương tự hoặc không 
tham gia đủ các hoạt động của nghiên cứu 
can thiệp giáo dục sức khỏe và các lần 
đánh giá trong nghiên cứu 
2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu 
và thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe 
một nhóm có so sánh trước sau được thực 
hiện từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 08 
năm 2020 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam 
Định. 
2.3. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Công thức cỡ mẫu được áp dụng cho 
nghiên cứu can thiệp 
 ( )√ ( ) ( )√ ( ) 
( ) 
 Trong đó:
n là cỡ mẫu cho nghiên cứu. 
Z(1-α): Là giá trị Z thu được từ bảng tương 
ứng với giá trị α . 
Với lực mẫu là 90% (β = 0,1), mức ý nghĩa 
95% (α = 0,05), tương đương Z(1-α)=1,65, 
Z(1-β)=1,29. p0: Là tỷ lệ người bệnh tuân thủ 
điều trị tốt trước can thiệp. 
Theo nghiên cứu mô tả của Lê Thị Thủy, 
tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị là 42,2% 
(14). Do đó lấy p0 = 0,422. 
p1: Là tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị 
tốt sau can thiệp. 
Do chưa có nghiên cứu can thiệp cải 
thiện tuân thủ sử dụng thuốc chống đông 
trong nước để tham khảo, sau khi tổng quan 
một số nghiên cứu can thiệp thuộc lĩnh vực 
điều trị bệnh tim mạch. Kết quả tham khảo 
cho thấy nghiên cứu gần đây nhất “Đánh 
giá thay đổi kiến thức và thực hành tuân thủ 
điều trị tăng huyết áp của người cao tuổi 
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh năm 
2018 sau can thiệp giáo dục” của Nguyễn 
Thị Thu Thủy có sự tương đồng về thiết kế 
nghiên cứu và phương pháp tiến hành với 
tỷ lệ tuân thủ điều trị tăng lên 15,87% sau 
219
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
can thiệp (16). Nghiên cứu này chúng tôi hy 
vọng đạt được tỷ lệ cải thiện sau can thiệp 
tương tự nên lấy p1= p0+ 0,1587 = 0,5807. 
Thay các giá trị vào công thức, tính được 
n = 83 người bệnh. Để dự phòng mất đối 
tượng tham gia nghiên cứu sau một tháng, 
chúng tôi dự định lấy mẫu tăng thêm 20%. 
Do đó cỡ mẫu dự kiến cần lấy là: 83 + 83 x 
20% = 99,6 làm tròn thành 100 người bệnh.
Trong thời gian thu thập số liệu 3 tháng 
(từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2020) đã có 
102 người bệnh đáp ứng tiêu chuẩn lựa 
chọn, nên cỡ mẫu thực tế là 102 người.
2.4. Can thiệp giáo dục, công cụ đo 
lường và tiêu chí đánh giá
Nội dung can thiệp giáo dục sức khỏe 
được xây dựng dựa trên tài liệu hướng dẫn 
NB sử dụng thuốc chống đông nhóm đối 
kháng vitamin K của Viện Tim mạch Quốc 
gia Việt Nam [17], sách “tương tác thuốc 
và chú ý khi chỉ định” của Nhà xuất bản Y 
học [18], khuyến cáo của hội tim mạch Hoa 
Kỳ [19] và có xin ý kiến các bác sỹ chuyên 
khoa tim mạch. 
Bộ công cụ được xây dựng trên cơ sở 
bộ công cụ đã được phổ biến rộng rãi từ 
nghiên cứu mô tả “Thực trạng và một số 
yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị bằng 
thuốc chống đông kháng vitamin K ở bệnh 
nhân thay van tim cơ học tại Viện tim mạch 
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Phước 
[13], nhóm nghiên cứu đã xin ý kiến góp ý 
của thầy hướng dẫn và các bác sỹ chuyên 
khoa tim mạch, điều chỉnh phần thông tin 
chung và một số từ ngữ cho phù hợp với 
đối tượng và địa bàn nghiên cứu. Sau khi 
xây dựng bộ công cụ, nội dung can thiệp 
giáo dục sức khỏe được điều tra thử trên 
30 NB (không thuộc mẫu nghiên cứu chính 
thức) trước khi sử dụng và sử dụng thống 
nhất cho tất cả các thời điểm đánh giá 
trước can thiệp, ngay sau can thiệp và sau 
can thiệp 1 tháng. 
Tiêu chí đánh giá: Người bệnh tham gia 
nghiên cứu trả lời 8 câu hỏi về kiến thức với 
mỗi ý trả lời đúng được 1 điểm, trả lời sai 
hoặc không biết được 0 điểm. Mức độ kiến 
thức được xếp loại dựa trên tỷ lệ số câu trả 
lời đúng trên tổng số câu hỏi [14]: Kém (< 
33%), Trung bình (33 - 67%) và Tốt (>67%)
2.5. Phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập 2 lần độc 
lập và phân tích kết quả bằng phần mềm 
SPSS 20.0. Sử dụng các kiểm định thống 
kê để so sánh các tỷ lệ phần trăm và các 
giá trị trung bình trước và sau can thiệp.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung về đối tượng 
nghiên cứu
Bảng 1. Một số đặc điểm nhân khẩu 
học của người bệnh (n= 102)
Đặc điểm nhân khẩu học SL TL %
Tuổi 18 - 39 tuổi 2 2,0
- Trung bình: 
63,93 ± 11,26 40 - 59 tuổi 26 25,5
- Trẻ nhất: 33 
- Già nhất: 89 ≥ 60 tuổi 74 72,5
Học vấn
Tiểu học 13 12,7
THCS 52 51,0
THPT 33 32,4
Trung cấp 2 2,0
Cao đẳng 2 2,0
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 
63,93 ± 11,26 tuổi. Trong số 102 người bệnh 
tham gia nghiên cứu, người cao tuổi (≥ 60 
tuổi) chiếm đa số (72,5%). Người bệnh có 
học vấn bậc trung học cơ sở chiếm 51% và 
trung học phổ thông chiếm 32,4%. 
3.2. Thực trạng kiến thức về tuân thủ 
điều trị và những thay đồi sau can thiệp 
Nghiên cứu sử dụng cùng một bộ công cụ 
và tiêu chí để đánh giá kiến thức về tuân thủ 
điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K 
của người bệnh tham gia nghiên cứu tại các 
thời điểm Trước can thiệp giáo dục sức khoẻ 
(T1), Ngay sau can thiệp (T2) và Sau can 
thiệp 1 tháng (T3). Các kết quả được trình 
bày trong các Bảng và Biểu đồ dưới đây.
220
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Kiến thức về tuân thủ điều trị theo từng nội dung (n=102)
Nội dung kiến thức
Người bệnh trả lời đúng
Trước
 can thiệp
Ngay sau 
can thiệp
Sau can thiệp 
1 tháng
SL TL % SL TL % SL TL %
Loại thuốc mà người bệnh đang dùng 61 59,8 91 89,2 83 81,4
Mục đích sử dụng thuốc chống đông 95 93,1 102 100,0 96 94,1
Mục đích của xét nghiệm PT-INR 75 73,5 95 93,1 87 85,3
Giá trị INR an toàn (Chỉ số chuẩn hóa 
quốc tế) 39 38,2 97 95,1 89 87,3
Loại thực phẩm giàu vitamin K 44 43,1 98 96,1 92 90,2
Hậu quả nếu bỏ hoặc quên liều thuốc 18 17,6 97 95,1 92 90,2
Hầu hết các nội dung kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông của người bệnh 
tim mạch còn hạn chế trước can thiệp và đều được cải thiện đáng kể ngay sau can thiệp 
và còn duy trì ở tỉ lệ cao sau can thiệp 1 tháng.
13,7 
23,5 
11,8 
51 
6,9 5,9 
87,3 
0 9,8 
9,8 
80,4 
0 0
20
40
60
80
100
Nguy cơ bị huyết 
khối 
Biến chứng chảy 
máu 
Cả 2 hậu quả Không biết
T1 T2 T3
Biểu đồ 1. Kiến thức về hậu quả của dùng thuốc không đúng (n = 102)
Trước can thiệp, đa số người bệnh (51,0%) không biết rằng sử dụng thuốc chống đông 
không đúng theo chỉ định của bác sỹ (liều không đủ) dẫn đến nguy cơ bị huyết khối (không 
có tác dụng phòng ngừa huyết khối), hoặc (liều cao hơn mức cho phép) có thể gây biến 
chứng chảy máu, tỷ lệ NB biết được cả hai hậu quả này khá thấp chỉ 11,8%. Ngay sau 
can thiệp (T2) và sau can thiệp 1 tháng (T3), các tỷ lệ người bệnh biết được một và/hoặc 
hai hậu quả của việc sử dụng thuốc chống đông không đúng liều đều tăng lên đáng kể và 
không có người nào không biết về hậu quả của dùng thuốc chống đông không đúng liều 
yêu cầu.
221
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Kiến thức về các biểu hiện để phát hiện sớm các biến chứng khi sử 
dụng thuốc chống đông kháng vitamin K (n=102)
Các biểu hiện
Người bệnh trả lời đúng
Trước 
can thiệp
Ngay sau 
can thiệp
Sau can 
thiệp 1 tháng
SL TL % SL TL % SL TL %
Chảy máu cam, chân răng 43 42,16 101 99,02 101 99,02
Đau đầu kéo dài, dữ dội hoặc đau bụng 4 3,92 68 66,67 62 60,78
Kinh nguyệt nhiều hoặc kéo dài một 
cách bất thường 26 25,49 64 62,75 60 58,82
Sưng nề, đau các khớp 4 3,92 41 40,2 36 35,29
Nước tiểu đỏ hoặc sẫm màu 9 8,82 66 64,71 65 63,73
Xuất huyết dưới da 13 12,75 78 76,47 80 78,43
Tất cả các ý trên 4 3,92 26 25,49 23 22,55
Không biết 54 52,4 0 0,0 0 0,0
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh không biết các biểu hiện để phát hiện sớm các biến 
chứng chiếm tỷ lệ không nhỏ là 52,4 %. Ngay sau can thiệp, kiến thức về các biểu hiện 
để phát hiện sớm các biến chứng của NB có sự thay đổi đáng kể, không còn NB không 
biết bất kỳ một trong các biểu hiện để phát hiện sớm các biến chứng và giảm nhẹ sau can 
thiệp 1 tháng nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với trước can thiệp.
Bảng 4. Kết quả chung kiến thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng 
vitamin K dựa trên điểm trả lời các câu hỏi (n=102)
Thời điểm đánh giá
Điểm đạt của người bệnh
p
(t-test)Thấp nhất
(Min)
Cao nhất
(Max)
Trung bình
( X ± SD)
Trước can thiệp (T1) 1 8 3,84 ± 1,98
Ngay sau can thiệp (T2) 5 8 7,56 ± 0,82 p(2-1) < 0,01
Sau can thiệp 1 tháng (T3) 5 8 7,09 ± 1,09 p(3-1) < 0,01
Tăng điểm kiến thức cả hai ở thời điểm ngay sau can thiệp (T2) và sau can thiệp 1 
tháng (T3) so với mức điểm kiến thức trước can thiệp (T1) có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
222
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
4. BÀN LUẬN
ĐTNC trong nghiên cứu của chúng tôi 
tập trung chủ yếu ở nhóm người cao tuổi 
(≥60 tuổi) chiếm 72,5%. Những người cao 
tuổi phải đối mặt với tình trạng lão hóa 
và suy giảm chức năng của các cơ quan, 
hệ cơ quan trong đó có hệ tim mạch; tuổi 
cao cũng là một trong những yếu tố nguy 
cơ xảy ra biến chứng chảy máu cho NB 
khi sử dụng thuốc chống đông [20], [21]. 
Phân bố nhóm tuổi trong nghiên cứu của 
chúng tôi khác với nghiên cứu của Nguyễn 
Ngọc Phước (2013) và Lê Thị Thủy (2014) 
có kết quả phân bố độ tuổi tập trung chủ 
yếu ở nhóm từ 40 - 59 tuổi với tỉ lệ lần lượt 
là 68,8% và 69,0% [13], [14]. Lý giải có 
sự khác biệt này là do cách lựa chọn đối 
tượng nghiên cứu của chúng tôi là tất cả 
những người bệnh dùng thuốc chống đông, 
còn nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phước 
(2013) và Lê Thị Thủy (2014) chỉ lựa chọn 
người bệnh sau thay van tim.
Trong nhiên cứu này, người bệnh có 
học vấn bậc trung học cơ sở và trung học 
phổ thông chiếm phần lớn. Nghiên cứu của 
Hasan S.S và các cộng sự năm 2011 đã chỉ 
ra có mối tương quan thuận giữa trình độ 
học vấn của NB và kiến thức của họ [22]. 
Trình độ họ vấn thấp thì thường thiếu kiến 
thức về dự phòng các bệnh lý trong đó có 
tim mạch và không có điều kiện kinh tế để 
kiểm tra sức khỏe thường xuyên và cũng là 
nguyên nhân khiến tỷ lệ NB không TTĐT là 
rất cao.
Trước can thiệp, nội dung về kiến thức 
mà NB còn hạn chế nhất là kiến thức về 
hậu quả nếu bỏ hoặc quên liều thuốc (tỷ lệ 
NB trả lời đúng chỉ chiếm 17,6%). Kết quả 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng 
với nghiên cứu của Lê Thị Thủy (2014) là 
54,5% [14]. Điều này cho thấy NB dùng 
thuốc chống đông kháng vitamin K còn chủ 
quan trong việc tuân thủ điều trị. Tỷ lệ người 
bệnh có kiến thức về giá trị INR an toàn 
chỉ có 38,2% NB trả lời đúng, thấp hơn so 
với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phước 
(2013) là 52,5% [13] và Lê Thị Thủy (2014) 
Biểu đồ 2. Kết quả phân loại kiến thức về tuân thủ điều trị (n=102) 
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh có kiến thức mức “Kém”, mức “Trung bình” và “Mức 
tốt” lần lượt là 23,5%, 51,0% và 25,5%. Ngay sau can thiệp và sau can thiệp 1 tháng, tỷ 
lệ người bệnh có kiến thức ở mức tốt tăng cao lần lượt là 95,1% và 86,3%. Sự khác biệt 
so với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị p < 0,01. Tại cả 2 thời điểm ngay 
sau can thiệp và sau can thiệp 1 tháng không còn người bệnh nào có kiến thức tuân thủ 
điều trị chung ở mức kém.
23,5 51 
4,9 
13,7 
25,5 
95,1 
86,3 
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Trước can thiệp 
Ngay sau can thiệp 
Sau can thiệp 1 tháng 
p(2-1) < 0,01 & p(3-1): < 0,01; [c2] 
Kém Trung bình Tốt 
Tỷ lệ
223
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
là 50,7% [14]. Lý giải về sự khác biệt này 
do nghiên cứu của chúng tôi khác nhau về 
đối tượng nghiên cứu. Ngay sau can thiệp, 
tỷ lệ NB trả lời đúng các nội dung kiến thức 
về tuân thủ điều trị thuốc chống đông đã 
được cải thiện một cách rõ rệt và giảm nhẹ 
sau 1 tháng nhưng vẫn cao hơn rất nhiều 
so với trước can thiệp
Tìm hiểu về kiến thức về hậu quả của 
dùng thuốc chống đông kháng vitamin K 
không đúng liều. Trước can thiệp, đa số 
người bệnh (51,0%) không biết rằng sử 
dụng thuốc chống đông không đúng theo 
chỉ định của bác sỹ (liều không đủ) dẫn đến 
nguy cơ bị huyết khối (không có tác dụng 
phòng ngừa huyết khối), hoặc (liều cao 
hơn mức cho phép) có thể gây biến chứng 
chảy máu. Tỷ lệ NB không biết về hậu quả 
của dùng thuốc chống đông kháng vitamin 
K không đúng liều cao hơn rất nhiều so 
với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phước 
(2013) là 37,6% [13] và Lê Thị Thủy (2014) 
là 28,7% [14]. Ngay sau can thiệp (T2) và 
sau can thiệp 1 tháng (T3), các tỷ lệ người 
bệnh biết được một và/hoặc hai hậu quả 
của việc sử dụng thuốc chống đông không 
đúng liều đều tăng lên đáng kể và không có 
người nào không biết về hậu quả của dùng 
thuốc chống đông không đúng liều yêu cầu.
Bảng 3.3 cho thấy trước can thiệp, tỷ 
lệ người bệnh không biết kiến thức về các 
biểu hiện để phát hiện sớm các biến chứng 
khi sử dụng thuốc chống đông chiếm tỷ 
lệ không nhỏ là 52,4 %. Tỉ lệ người bệnh 
không biết kiến thức về các biểu hiện để 
phát hiện sớm các biến chứng khi sử dụng 
thuốc chống đông của chúng tôi cao hơn so 
với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phước 
(2013) là 40,1% bởi đối tượng và địa điểm 
nghiên cứu của chúng tôi khác nhau. Ngay 
can thiệp, kiến thức về các biểu hiện để 
phát hiện sớm các biến chứng khi sử dụng 
thuốc chống đông của NB có sự thay đổi 
đáng kể: Không còn NB không biết bất kỳ 
một trong các biểu hiện để phát hiện sớm 
các biến chứng và giảm nhẹ sau can thiệp 
1 tháng nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với 
trước can thiệp.
Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến 
thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông 
kháng vitamin K của người bệnh tim mạch 
còn hạn chế với điểm trung bình chỉ đạt 
3,84 ± 1,98 trên tổng 8 điểm. Ngay sau can 
thiệp, điểm trung bình kiến thức đạt 7,56 
± 0,82 điểm và sau can thiệp 1 tháng đạt 
7,09 ± 1,09 điểm. Tăng điểm kiến thức cả 
hai ở thời điểm ngay sau can thiệp (T2) 
và sau can thiệp 1 tháng (T3) so với mức 
điểm kiến thức trước can thiệp (T1) có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi có điểm tương đồng với 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thủy [16], 
tại thời điểm T1 điểm trung bình về kiến 
thức đạt 4,88 ± 1,75, điểm trung bình tăng 
lên 9,34 ± 1,03 tại thời điểm T2, sau can 
thiệp 4 tuần điểm trung bình có giảm một 
chút so với thời điểm T2 còn 9,04 ± 1,39 
nhưng vẫn tăng so với thời điểm trước can 
thiệp. Nghiên cứu của chúng tôi giống nhau 
ở điểm ngay sau khi can thiệp thì điểm kiến 
thức tăng rõ rệt nhưng sau một thời gian (1 
tháng) thì giảm nhẹ. Lý giải cho điều này có 
thể là do ĐTNC của chúng tôi phần đa đều 
là người cao tuổi dễ quên nếu việc thực 
hiện GDSK không được diễn ra thường 
xuyên và đều đặn. 
Can thiệp GDSK theo nhóm nhỏ của 
chúng tôi đã giúp NB tham gia vào nghiên 
cứu có được những thay đổi kiến thức nhất 
định. Kết quả tại biểu đồ 3.2 đã chỉ ra: Trước 
can thiệp, tỷ lệ người bệnh có kiến thức ở 
mức “Kém”, mức “Trung bình” và “Mức tốt” 
lần lượt là 23,5%, 51,0% và 25,5%. Tỷ lệ 
NB có kiến thức ở mức độ tốt trong nghiên 
cứu của chúng tôi tương tự với tỷ lệ NB có 
kiến thức ở mức độ tốt trong nghiên cứu của 
Lê Thị Thủy (2014) là 29,9% [14]. Điều này 
chứng tỏ kiến thức của NB về TTĐT thuốc 
chống đông còn rất hạn chế, cần thường 
xuyên TT - GDSK để nâng cao kiến thức 
cho NB, giúp cho người bệnh khắc phục 
tâm lý chủ quan không điều trị hoặc không 
224
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
tích cực điều trị khi bệnh chưa nặng. Tỷ lệ 
người bệnh có kiến thức ở mức độ tốt trong 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn rất nhiều 
so với nghiên cứu của Imran.F.K tại Qatar 
(2010) có kiến thức tốt đạt 56,42% [23] hay 
nghiên cứu của Jean-François Chenot và 
các cộng sự (2014) đạt 56% tốt đến xuất 
sắc, trung bình 36%, kém 8% [12]. Lý giải 
cho sự khác biệt này có thể là do cỡ mẫu 
khác nhau, địa điểm nghiên cứu khác nhau 
và trình độ học vấn của NB nghiên cứu của 
chúng tôi khác nhau.
Hiệu quả của TT – GDSK đã được 
chứng minh bởi ngay sau can thiệp và sau 
can thiệp 1 tháng, tỷ lệ người bệnh có kiến 
thức ở mức tốt tăng cao lần lượt là 95,1% 
và 86,3%. Sự khác biệt so với trước can 
thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị p 
< 0,01. Tại cả 2 thời điểm ngay sau can 
thiệp và sau can thiệp 1 tháng không còn 
người bệnh nào có kiến thức tuân thủ điều 
trị chung ở mức kém. Điều này thể hiện 
năng lực của nhóm nghiên cứu trong tư 
vấn, GDSK và can thiệp kiến thức về tuân 
thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin 
K là có ý nghĩa.
5. KẾT LUẬN
Trước can thiệp giáo dục, kiến thức về 
tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng 
vitamin K của NB tim mạch nhìn chung còn 
hạn chế. Tỷ lệ người bệnh có kiến thức ở 
mức “Tốt”, mức “Trung bình” và “Kém” lần 
lượt là 25,5%, 51,0% và 23,5% trước can 
thiệp. Ngay sau can thiệp giáo dục, kiến 
thức về tuân thủ điều trị thuốc chống đông 
kháng vitamin K của người bệnh tim mạch 
có sự thay đổi rõ rệt. Tỷ lệ NB có kiến thức 
ở mức tốt tăng lên đạt 95,1% tại thời điểm 
T2 và 86,3% tại thời điểm T3. Tại cả 2 thời 
điểm ngay sau can thiệp và sau can thiệp 
1 tháng không còn người bệnh nào có kiến 
thức tuân thủ điều trị chung ở mức kém. Kết 
quả nghiên cứu bước đầu cho thấy hiệu 
quả và sự cần thiết của việc thường xuyên 
giáo dục sức khoẻ trong việc nâng cao kiến 
thức cho người bệnh tim mạch về tuân thủ 
điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. d’Arcy J, Prendergast B, Chambers 
J et al (2011). Valvular heart disease: the 
next cardiac epidemic. BMJ Publishing 
Group Ltd.
2. Rahman F, Kwan GF, Benjamin 
EJ (2014). Global epidemiology of 
atrial fibrillation. Nature Reviews 
Cardiology;11(11):639.
3. Morillo CA, Banerjee A, Perel P et 
al (2017). Atrial fibrillation: the current 
epidemic. Journal of geriatric cardiology: 
JGC;14(3):195.
4. Nguyễn Văn Phan (2008). Tổng quan 
điều trị bệnh lý van tim. Y học Việt Nam; tập 
356:49-55.
5. Nguyễn Lân Việt (2007). Thực hành 
bệnh tim mạch. Nhà xuất bản y học:374-92
6. Ageno W, Gallus AS, Wittkowsky A 
et al (2012). Oral anticoagulant therapy: 
antithrombotic therapy and prevention of 
thrombosis: American College of Chest 
Physicians evidence-based clinical practice 
guidelines. Chest. 2012;141(2):e44S-e88S.
7. Ansell J, Hirsh J, Hylek E et al 
(2008). Pharmacology and management 
of the vitamin K antagonists: American 
College of Chest Physicians evidence-
based clinical practice guidelines. Chest. 
2008;133(6):160S-98S.
8. Rubboli A, Becattini C, Verheugt FW 
(2011). Incidence, clinical impact and risk of 
bleeding during oral anticoagulation therapy. 
World journal of cardiology; 3(11):351.
9. Koertke H, Zittermann A, Tenderich G 
et al (2007). Low-dose oral anticoagulation 
in patients with mechanical heart valve 
prostheses: final report from the early 
self-management anticoagulation trial II. 
European heart journal; 28(20):2479-84.
10. Keeling D, Baglin T, Tait C et al 
(2011). Guidelines on oral anticoagulation 
with warfarin–fourth edition. British journal 
of haematology;154(3):311-24.
225
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
11. Ebrahim S, Taylor F, Ward K et al 
(2011). Multiple risk factor interventions 
for primary prevention of coronary heart 
disease. Cochrane Database of Systematic 
Reviews.
12. Chenot J-F, Hua TD, Abed MA et 
al (2014). Safety relevant knowledge of 
orally anticoagulated patients without self-
monitoring: a baseline survey in primary 
care. BMC family practice;15(1):104.
13. Nguyễn Ngọc Phước (2013). Thực 
trạng và một số yếu tố liên quan đến tuân 
thủ điều trị thuốc chống đông kháng vitamin 
K ở bệnh nhân thay van tim cơ học tại Viện 
tim mạch Việt Nam: Trường Đại học Y tế 
Công cộng.
14. Lê Thị Thủy (2014). Kiến thức và 
tuân thủ điều trị thuốc chống đông kháng 
vitamin k ở bệnh nhân sau mổ thay van tim 
cơ học tại trung tâm tim mạch - Bệnh viện 
E. Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ, Trường đại 
học Y tế Công cộng.
15. Shehab A, Bhagavathula AS, Abebe 
TB et al (2019). Patient adherence to 
Novel Oral Anticoagulants (NOACs) for the 
treatment of atrial fibrillation and occurrence 
of associated bleeding events: a systematic 
review and meta-analysis. Current vascular 
pharmacology.
16. Nguyễn Thị Thu Thủy (2018). Đánh 
giá thay đổi kiến thức và thực hành tuân 
thủ điều trị tăng huyết áp của người cao 
tuổi tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh 
năm 2018 sau can thiệp giáo dục. Luận văn 
Thạc sỹ điều dưỡng, Trường Đại học Điều 
dưỡng Nam Định.
17. Hội tim mạch quốc gia Việt Nam 
(2020). Thuốc chông đông đường uống: 
Thuốc chống đông đối kháng vitamin K. 
 truy cập 10/8/2020
18. Bộ Y tế (2015). Tương tác thuốc và 
chú ý khi chỉ định. Hà Nội: Nhà xuất bản y 
học. p.869-82
19. Kandola A (2019). What to know 
about the warfarin diet. https://www.
medicalnewstoday.com/articles/324419.
php.
20. Hughes M, Lip G (2007). Risk 
factors for anticoagulation-related bleeding 
complications in patients with atrial 
fibrillation: a systematic review. QJM: 
An International Journal of Medicine; 
100(10):599-607.
21. World Health Organization (2003). 
Adherence to long-term therapies: 
evidence for action. https://www.who.int/
chp/knowledge/publications/adherence_
report/en/ accessed 10/8/2020
22. Hasan SS, Shamala R, Syed IA et 
al (2011). Factors affecting warfarin-related 
knowledge and INR control of patients 
attending physician-and pharmacist-
managed anticoagulation clinics. Journal of 
pharmacy practice; 24(5):485-93.
23. Khudair IF, Hanssens YI (2010). 
Evaluation of patients’ knowledge on 
warfarin in outpatient anticoagulation clinics 
in a teaching hospital in Qatar. Saudi Med 
J; 31(6):672-7.

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_ve_tuan_thu_dieu_tri_thuoc_chong_dong_kha.pdf