Thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại bệnh viện y dược cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động của người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ sau can thiệp giáo dục sức khỏe năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh trước sau cho 50 người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2020 về kiến thức phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ. Kết quả: Sau can thiệp giáo dục, kiến thức về phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ của người chăm sóc chính có cải thiện rõ rệt, cụ thể: Điểm trung bình kiến thức của người chăm sóc chính tại các thời điểm ngay sau can thiệp (T2) và trước khi ra viện (T3) lần lượt tăng lên đạt 7,48 ± 2,43 điểm và 9,18 ± 2,83 so với 5,88 ± 2,41 điểm ở thời điểm trước can thiệp (p < 0,001).="" tỷ="" lệ="" người="" chăm="" sóc="" chính="" có="" kiến="" thức="" ở="" mức="" độ="" đạt="" tăng="" lên="" đạt="" 64%="" tại="" thời="" điểm="" t2="" và="" 76%="" tại="" thời="" điểm="" t3="" so="" với="" 38%="" ở="" thời="" điểm="" trước="" can="" thiệp.="" kết="" luận:="" kiến="" thức="" về="" phục="" hồi="" chức="" năng="" vận="" động="" cho="" người="" bệnh="" đột="" quỵ="" của="" người="" chăm="" sóc="" chính="" trong="" nghiên="" cứu="" còn="" nhiều="" hạn="" chế="" trước="" trước="" can="" thiệp="" và="" đã="" được="" cải="" thiện="" rõ="" rệt="" sau="" can="" thiệp="" giáo="">

pdf 8 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại bệnh viện y dược cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại bệnh viện y dược cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ

Thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại bệnh viện y dược cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ
87
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CHO 
NGƯỜI CHĂM SÓC CHÍNH NGƯỜI BỆNH ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN 
Y DƯỢC CỔ TRUYỀN VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TỈNH PHÚ THỌ 
Nguyễn Thị Mai Hương1b, Ngô Huy Hoàng2, Nguyễn Thị Dung2b,
Đặng Thị Hân2, Lại Thị Thanh Xuân2b
1Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến 
thức về phục hồi chức năng vận động của 
người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ 
não tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục 
hồi chức năng tỉnh Phú Thọ sau can thiệp 
giáo dục sức khỏe năm 2020. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 
can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh 
trước sau cho 50 người chăm sóc chính 
người bệnh đột quy ̣ tại Bệnh viện Y dược 
cô ̉ truyền va ̀ Phục hồi chức năng tỉnh Phu ́ 
Tho ̣ từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2020 về 
kiến thức phục hồi chức năng vận động 
cho người bệnh đột quỵ. Kết quả: Sau can 
thiệp giáo dục, kiến thức về phục hồi chức 
năng cho người bệnh đột quỵ của người 
chăm sóc chính có cải thiện rõ rệt, cụ thể: 
Điểm trung bình kiến thức của người chăm 
sóc chính tại các thời điểm ngay sau can 
thiệp (T2) và trước khi ra viện (T3) lần lượt 
tăng lên đạt 7,48 ± 2,43 điểm và 9,18 ± 2,83 
so với 5,88 ± 2,41 điểm ở thời điểm trước 
can thiệp (p < 0,001). Tỷ lệ người chăm sóc 
chính có kiến thức ở mức độ đạt tăng lên 
đạt 64% tại thời điểm T2 và 76% tại thời 
điểm T3 so với 38% ở thời điểm trước can 
thiệp. Kết luận: Kiến thức về phục hồi chức 
năng vận động cho người bệnh đột quỵ của 
người chăm sóc chính trong nghiên cứu 
còn nhiều hạn chế trước trước can thiệp và 
đã được cải thiện rõ rệt sau can thiệp giáo 
dục.
Từ khóa: Phục hồi chức năng vận động, 
người bệnh đột quỵ, người chăm sóc chính, 
can thiệp giáo dục sức khoẻ.
CHANGES IN THE KNOWLEGE OF MOTOR REHABILITATION FOR 
STROKE PATIENTS AMONG CAREGIVERS AT PHU THO TRADITIONAL 
MEDICINE AND FUNCTIONAL REHABILITATION HOSPITAL.
ABSTRACT
Objective: To evaluate changes 
in the knowledge of motor functional 
rehabilitation of family caregivers of 
patients with stroke at Phu Tho Provincial 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Mai Hương
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 01/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
Traditional Medicine and Functional 
Rehabilitation Hospital after a health 
educational intervention. Method: 
The one group pre-test and post-test 
educational intervention was conducted 
with a convenient sample of 50 family 
caregivers who were responsible for 
taking care of stroke patients from January 
to May 2020 on the knowledge of motor 
rehabilitation for stroke patients. Results: 
After the intervention, the caregiver’s 
88
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
knowledge of rehabilitation for stroke 
patients was significantly improved. The 
mean scores of knowledge right after the 
intervention (T2) and before the discharge 
day of patients (T3) increased up to 7.48 
± 2.43 points and 9.18 ± 2.83 points 
compared to 5.88 ± 2.41 points at the time 
before the intervention (p < 0.001). The 
percentage of caregivers with the good 
level of knowledge increased up to 64% 
at T2 and 76% at T3 in comparision with 
38% at the time before the intervention. 
Conclusion: The knowledge of 
rehabilitation for stroke patients of the 
caregivers within this study was limited, 
then had been improved significantly after 
the educational intervention.
Keywords: Motor rehabilitation, 
stroke patients, family caregivers, health 
educational intervention
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não là một trong các nguyên 
nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu trong 
các nguyên nhân tim mạch [1,2]. Trên toàn 
cầu, 15 triệu người bị đột quỵ não cấp tính 
mỗi năm và một phần ba trong số họ tử 
vong sau đột quỵ. Theo Tổ chức Y tế Thế 
giới, đột quỵ não hiện nay là nguyên nhân 
phổ biến đứng thứ hai và dự báo đến năm 
2030 sẽ trở thành một trong những nguyên 
nhân hàng đầu gây tử vong trên phạm vi 
toàn thế giới [3]. Với sự tiến bộ của y học, 
tuy tỷ lệ tử vong do đột quỵ ngày càng giảm 
nhưng số lượng người bệnh bị tàn tật do 
đột quỵ lại có xu hướng tăng. Mức độ di 
chứng phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm 
và cách thức người bệnh được phát hiện, 
chẩn đoán và can thiệp. 
Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế hạn 
hẹp nên cơ sở hạ tầng của đa số các 
bệnh viện còn thiếu thốn. Hầu hết các 
nghiên cứu về phòng ngừa và điều trị 
đột quỵ được thực hiện ở các nước phát 
triển, nhưng hơn 85% đột quỵ xảy ra ở 
các nước đang phát triển [2]. Các nghiên 
cứu cũng cho thấy kiến thức về đột quỵ 
của người dân cũng còn hạn chế. Hậu 
quả tỷ lệ tử vong và tàn tật của người 
bệnh đột quỵ còn cao [4]. Người bệnh sau 
đột quỵ thường có những di chứng năng 
nề, trở thành gánh nặng cho gia đình và 
xã hội [5]. Đặc biệt là các di chứng về vận 
động, các khiếm khuyết về chức năng vận 
động tay, chân làm cho họ trở nên phụ 
thuộc vào người khác trong các sinh hoạt 
hàng ngày. Vì vậy mà việc phục hồi chức 
năng cho người bệnh hết sức quan trọng, 
không chỉ trong thời gian tại Bệnh viện 
mà cần tiếp tục khi người bệnh về với gia 
đình. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng 
có tới 60 – 80% người tàn tật có thể phục 
hồi tại nhà sau khi ra viện. Phục hồi chức 
năng (PHCN) cho người bệnh đột quỵ đòi 
hỏi kiên trì và lâu dài, sau giai đoạn nằm 
viện, tiếp tục duy trì phục hồi chức năng 
cho người bệnh đóng vai trò quan trọng 
[6]. Vì vậy, người chăm sóc chính (NCSC) 
cho người bệnh cần có kiến thức để đạt 
được hiệu quả cao trong chăm sóc và 
hồi phục của người bệnh, giúp họ phòng 
tránh các thương tật thứ cấp. Với mong 
muốn trang bị kiến thức và kỹ năng cần 
thiết cho người chăm sóc chính người 
bệnh đột quỵ trong thời gian người bệnh 
nằm viện để những người này có thể tiếp 
tục duy trì việc phục hồi chức năng cho 
người bệnh sau khi ra viện, nghiên cứu 
này được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh 
giá sự thay đổi kiến thức về phục hồi chức 
năng vận động của người chăm sóc chính 
người bệnh đột quỵ não tại Bệnh viện Y 
dược cổ truyền và Phục hồi chức năng 
tỉnh Phú Thọ sau can thiệp giáo dục sức 
khỏe năm 2020.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người chăm sóc chính của người bệnh 
đột quỵ não có liệt vận động đang điều trị 
89
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục hồi 
chức năng tỉnh Phú Thọ. 
- Tiêu chuẩn lựa chọn: 
Người chăm sóc được xác định là người 
chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ 
(là người thường xuyên và dành nhiều thời 
gian nhất cho chăm sóc người bệnh hàng 
ngày như: vệ sinh cá nhân, tắm rửa, cho 
ăn, di chuyển, vận động trong giai đoạn tại 
bệnh viện cũng như khi người bệnh ra viện 
về gia đình). Đồng ý tham gia nghiên cứu 
và có khả năng tiếp thu, thực hiện các hoạt 
động can thiệp của nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: 
Người chăm sóc chính người bệnh đột 
quỵ đã tham một chương trình giáo dục sức 
khoẻ tương tự hoặc không tham gia đầy đủ 
các hoạt động của nghiên cứu.
2.2. Thiết kế nghiên cứu, thời gian và 
địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp một nhóm có so 
sánh trước sau được thực hiện từ tháng 01 
năm 2020 đến tháng 05 năm 2020 tại Bệnh 
viện Y dược cổ truyền và Phục hồi chức 
năng tỉnh Phú Thọ.
2.3. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện: Chọn toàn bộ 
những người chăm sóc chính đáp ứng 
tiêu chuẩn chọn mẫu. Trên thực tế, không 
phải người bệnh đột quỵ nào cũng có một 
người chăm sóc chính như đã đề cập và 
tham gia đầy đủ các hoạt động của nghiên 
cứu, do vậy cỡ mẫu thực tế mà nghiên 
cứu này có được trong khoảng thời gian 
từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2020 là 50 
người. 
2.4. Can thiệp giáo dục, công cụ đo 
lường và thu thập số liệu
Hướng dẫn trực tiếp cho từng người 
chăm sóc chính, nội dung hướng dẫn và bộ 
công cụ đánh giá được xây dựng dựa trên 
tài liệu “Phục hồi chức năng sau tai biến 
mạch máu não” của Bộ Y tế ban hành [6], 
đồng thời có tham khảo một số bộ công cụ 
trong các nghiên cứu tương tự về chăm sóc 
phục hồi chức năng người bệnh tai biến 
mạch máu não [7].
Bộ công cụ với các câu hỏi đánh giá 
kiến thức được sử dụng thông nhất cho tất 
cả các thời điểm đánh giá trước can thiệp 
(T1), ngay sau can thiệp (T2) và trước khi 
người bệnh ra viện (T3). 
2.5. Tiêu chí đánh giá
Người chăm sóc chính tham gia trả lời 
8 câu hỏi về kiến thức tương đương 14 
tiêu chí đánh giá, với mỗi ý trả lời đúng 
được 1 điểm, trả lời sai hoặc không biết 
được 0 điểm. Tính tổng điểm kiến thức và 
lấy điểm cắt 50% để phân loại kiến thức 
của NCSC. Cụ thể, tổng các tiêu chí đánh 
giá kiến thức từ câu 9 - câu 16 bao gồm 
14 tiêu chí. NCSC có tổng điểm kiến thức 
≥ 7 điểm thì được xếp vào nhóm có kiến 
thức đạt và ngược lại những NCSC có 
điểm kiến thức <7 điểm thì được xếp là 
kiến thức chưa đạt.
2.6. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập 2 lần độc 
và phân tích kết quả bằng phần mềm SPSS 
20.0. Tính tỷ lệ phần trăm và giá trị trung 
bình trước và sau can thiệp. Sử dụng các 
kiểm định thống kê để so sánh các tỷ lệ 
và các giá trị trung bình trước và sau can 
thiệp. Đánh giá sự thay đổi sau can thiệp 
giáo dục so với trước can thiệp dựa trên sự 
chênh lệch về các giá trị điểm trung bình và 
tỷ lệ phần trăm.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung về đối tượng 
nghiên cứu
Phân tích số liệu từ 50 người chăm sóc 
chính tham gia nghiên cứu chúng tôi thu 
được những kết quả như sau: tuổi trung 
bình 49,64 ± 8,66 tuổi, đa số là nữ (72%) 
và trình độ học vấn là trung học phổ thông 
(64%). 
90
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 1. Đặc điểm nhận thông tin về bệnh của người chăm sóc chính (n = 50)
Đặc điểm SL TL %
Đột quỵ não
Đã từng nghe 41 82,0
Chưa từng nghe 9 18,0
Nguồn thông tin
(nhiều lựa chọn)
Nhân viên y tế 23/41 56,1
Phương tiện truyền thanh 11/41 26,8
Sách, báo 15/41 36,6
Người thân 22/41 53,6
Khác 9/41 21,9
Theo kết quả bảng 1, có 41 người (82%) trả lời họ đã từng nghe về bệnh đột quỵ não 
và nguồn thông tin mà những người này nhận được phần lớn đến từ nhân viên y tế và từ 
người thân.
3.2. Kiến thức của NCSC về PHCN cho người bệnh đột quỵ
Bảng 2. Kiến thức về thời điểm tiến hành PHCN cho người bệnh (n = 50)
Thời điểm PHCN
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Ngay sau khi bị đột quỵ 22 44,0 31 62,0 44 88,0
Qua giai đoạn cấp 1 2,0 17 34,0 6 12,0
Không biết 23 46,0 0 0,0 0 0,0
Khác 4 8,0 2 4,0 0 0,0
Trước can thiệp (T1), 44% NCSC trả lời đúng về thời điểm tiến hành phục hồi chức 
năng cho bệnh nhân đột quỵ là ngay sau đột quỵ. Tỷ lệ trả lời đúng tăng lên đạt 62% ngay 
sau can thiệp (T2) và đạt 88% ở thời điểm trước khi ra viện (T3)
Bảng 3. Kiến thức về nội dung PHCN vận động cho người bệnh (n = 50)
Nội dung cần PHCN vận động 
 sau đột quỵ não
T1 T2 T3 
SL TL % SL TL % SL TL %
Giữ tư thế tốt và đúng để tránh cứng khớp và 
biến dạng khớp 20 40,0 28 56,0 36 72,0
Tập luyện để duy trì và tăng cường sức mạnh 
cơ 14 28,0 22 44,0 25 50,0
Sử dụng dụng cụ hỗ trợ giúp người bệnh độc 
lập tối đa trong sinh hoạt hàng ngày 37 74,0 38 76,0 31 62,0
Trả lời đúng ≥ 2 nội dung 19 38,0 32 64,0 34 68,0
Về các nội dung cần PHCN cho người bệnh đột quỵ, tỷ lệ NCSC trả lời đúng đều tăng ở 
các thời điểm sau can thiệp so với trước can thiệp. Đặc biệt tỷ lệ trả lời đúng từ 2 nội dung 
trở lên tăng lên 64% và 68% ở thời điểm T2 và T3 so với 38% ở thời điểm T1.
91
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 4. Kiến thức về tư thế tốt nhất cho người bệnh (n = 50)
Tư thế tốt nhất cho 
người bệnh
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Đặt NB ở tư thế nằm ngửa. 10 20,0 7 14,0 8 16,0
Đặt NB ở tư thế nghiêng bên liệt 16 32,0 23 46,0 34 68,0
Đặt NB ở tư thế nghiêng bên lành 8 16,0 9 18,0 8 16,0
Không biết 16 32,0 11 22,0 0 0,0
Tại thời điểm T1 chỉ có 32% NCSC trả lời đúng về tư thế tốt nhất cho người bệnh là đặt 
người bệnh ở tư thế nghiêng bên liệt. Sau can thiệp thì số người trả lời đúng tăng dần lên, 
ở thời điểm T2 đạt 46% và ở thời điểm T3 đạt 68%.
Bảng 5. Kiến thức về mục đích đặt tư thế đúng cho người bệnh (n=50)
Tư thế đúng của người bệnh 
nhằm mục đích
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Giảm bớt co cứng 18 36,0 16 32,0 34 68,0
Thuận tiện trong chăm sóc 29 58,0 43 86,0 31 62,0
Đề phòng loét 18 36,0 16 32,0 23 46,0
Không biết 6 12,0 2 4,0 2 4,0
Trả lời đúng ≥ 3 mục đích 1 2,0 6 12,0 10 20,0
Trước can thiệp chỉ có 1 người chăm sóc chính trả lời đúng cả 3 mục đích của tư thế 
đúng cho người bệnh đột quỵ, con số này đã tăng lên đến 6 người và 10 người ở ngay 
sau can thiệp giáo dục và trước khi ra viện.
Bảng 6. Thay đổi kiến thức trước và sau can thiệp 
 dựa trên điểm trả lời câu hỏi (n=50)
Điểm kiến thức
Thời điểm đánh giá
T1 T2 T3
Thấp nhất (Min) 3 3 4
Cao nhất (Max) 11 14 13
Trung bình (Mean ± SD) 5,88 ± 2,41 7,48 ± 2,43 9,18 ± 2,83
p (t-test) p(2-1) =0,000 p(3-1) = 0,000
Có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê điểm kiến thức của người chăm sóc chính sau can 
thiệp giáo dục và trước khi ra viện so với trước can thiệp (p < 0,001).
92
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Biểu đồ 1. Kết quả chung kiến thức về PHCN vận động 
cho người bệnh đột quỵ của NCSC (n = 50)
38 
64 
76 
62 
36 
1,8 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
T1 T2 T3
T
ỷ
 l
ệ
Đạt Không đạt 
Trước can thiệp, tỷ lệ NCSC có kiến thức đạt là 38%. Sau can thiệp tại thời điểm T2 tỷ 
lệ NCSC có kiến thức đạt là 64% và tại thời điểm T3 là 76%.
4. BÀN LUẬN
Trình độ học vấn của người chăm sóc 
chính phần lớn là trung học phổ thông trở 
lên chiếm 64%. Trình độ học vấn của các 
đối tượng đã đáp ứng được tiêu chuẩn 
lựa chọn và phù hợp với can thiệp truyền 
thông, giáo dục sức khoẻ bởi họ đều có khả 
năng đọc và viết thành thạo. Khi mà trình 
độ học vấn càng cao thì việc nhận thức về 
bệnh tật và hiểu biết về kỹ năng chăm sóc 
cho người bệnh sẽ tốt hơn.
Khi được hỏi về đột quỵ não thì có đến 
82% NCSC đã từng được nghe đến, chiếm 
tỉ lệ khá cao. Có được tỷ lệ này là nhờ phát 
triển của nguồn thông tin đại chúng với các 
phương tiện như panô, áp phích, tờ rơi, 
báo, tivi, đài,...và giáo dục sức khỏe trực 
tiếp như tổ chức nói chuyện, thảo luận 
nhóm, tư vấn về bệnh đột quỵ não để bổ trợ 
giúp truyền đạt thông tin và thay đổi nhận 
thức lẫn hành vi của cộng đồng về nhận 
biết, cách chăm sóc và phòng ngừa đột quỵ 
não được hiệu quả hơn. 
Trước can thiệp thì chỉ có 8% NCSC trả 
lời PHCN cho người bệnh sau ĐQN là rất 
quan trọng. Tỉ lệ này khá là thấp, có thể 
do NCSC chưa nhận thức đúng được vai 
trò của việc PHCN. Phục hồi chức năng 
đột quỵ là một quá trình có định hướng, 
mục tiêu nhằm giúp người khuyết tật đạt 
được mức độ hoạt động tối ưu về thể chất, 
nhận thức, cảm xúc, giao tiếp, xã hội và / 
hoặc chức năng của họ. Sau đột quỵ, bệnh 
nhân thường tiếp tục yêu cầu phục hồi 
chức năng đối với các tình trạng thiếu hụt 
dai dẳng liên quan đến co cứng, rối loạn 
chức năng chi trên và chi dưới, đau vai và 
trung tâm, di chuyển/ dáng đi, khó nuốt, 
thị lực và giao tiếp. Việc PHCN là rất quan 
trọng giúp NB độc lập trong sinh hoạt hàng 
ngày. Sau can thiệp thì 100% NCSC đã 
93
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
nhận thức được tầm quan trọng của việc 
PHCN. Qua đó thấy được việc can thiệp 
giáo dục sức khỏe tác động rất lớn đến 
kiến thức của NCSC, mang lại hiệu quả 
nhất định.
Việc phục hồi chức năng cần toàn diện, 
sớm và tuỳ thuộc vào giai đoạn tiến triển 
của bệnh. Ở giai đoạn cấp của bệnh, việc 
chăm sóc chiếm vị trí quan trọng, phục hồi 
chức năng cũng đồng thời phải tiến hành 
ngay. Khi hỏi NCSC về thời điểm nên tiến 
hành hồi phục chức năng cho người bệnh 
đột quỵ não, có 44 % NCSC trả lời đúng về 
thời điểm tiến hành PHCN là ngay sau khi 
bị đột quy. Sau can thiệp tỉ lệ NCSC ở thời 
điểm T2 tỉ lệ trả lời đúng đạt 62% và ở thời 
điểm T3 đạt 88%. Thực tế chăm sóc người 
bệnh đột quỵ trong giai đoạn cấp cho thấy 
còn nhiều bất cập, chẳng hạn: người bệnh 
đột quỵ thường được nằm tại giường quá 
lâu trong giai đoạn cấp với hầu như rất ít sự 
can thiệp chăm sóc về tư thế và vận động, 
và hậu quả của tình trạng này là việc xuất 
hiện các biến chứng trong nhiều trường 
hợp. Nguyên nhân của tình trạng này như 
đã được chỉ ra bởi các nghiên cứu trên thế 
giới đó là bao gồm: yêu cầu của chẩn đoán 
và điều trị từ bác sỹ trong những giờ đầu 
của đột quỵ, sự e ngại từ phía người bệnh 
và người nhà đối với việc thay đổi tư thế và 
vận động cho người bệnh.
Về nội dung PHCN cho người bệnh 
sau đột quỵ, trước can thiệp 74% NCSC 
cho rằng PHCN cho người bệnh sau đột 
quỵ chủ yếu giúp người bệnh độc lập tối 
đa trong sinh hoạt hằng ngày. Tỷ lệ NCSC 
trả lời đúng hai nội dung còn thấp, tại thời 
điểm T1 đạt 38%. Nguyên nhân do hậu 
quả nặng nề của đột quỵ để lại đó là trên 
hệ vận động có khoảng một phần ba số 
bệnh nhân bị đột quỵ có biểu hiện tàn tật 
dai dẳng sau đột quỵ ban đầu, với tình 
trạng suy giảm vận động chiếm phần lớn 
tình trạng tàn tật sau đột quỵ [8]. Nghiên 
cứu của Nguyễn Thành Chung về gánh 
nặng chăm sóc người bệnh đột quỵ tại gia 
đình cho thấy tỉ lệ phụ thuộc cá nhân của 
người bệnh trong hoạt động hàng ngày 
khá cao. Ở hoạt động ăn uống có 86,5% 
phụ thuộc ít và 6,2% phụ thuộc hoàn toàn. 
Ở việc tắm thì có 53,1% người bệnh cần 
sự hỗ trợ cho việc tắm. Chải đầu- đánh 
răng có 45,8 % cần sự hỗ trợ. Thay- mặc 
quần áo cho tỉ lệ cần sự hỗ trợ ít 83,3%, 
không tự thực hiện được 7,3% [9]. Do vậy 
mong muốn chung của NCSC hay người 
bệnh khi tập PHCN sau đột quỵ là để họ có 
thể độc lập tối đa trong các sinh hoạt hàng 
ngày, phục vụ được chính bản thân họ. Tuy 
vậy vẫn ít người biết được nội dung PHCN 
sau đột quỵ còn là tập luyện để duy trì và 
tăng cường sức mạnh cơ, giữ tư thế đúng 
để tránh cứng khớp và biến dạng khớp cho 
nên chỉ có 38% NCSC trả lời được từ hai 
ý trở lên trước can thiệp. Chính vì thế cần 
phổ biến và nhấn mạnh cho NCSC các nội 
dung này để hiểu rõ thêm. 
Khi tiến hành phỏng vấn NCSC về tư 
thế đúng tốt nhất, chỉ có 32% NCSC trả 
lời đúng, là tư thế đặt người bệnh ở tư thế 
nghiêng bên liệt. Lý giải cho điều này có 
thể vì theo thói quen mọi người thường đặt 
người bệnh nằm ngửa, hay nghiêng bên 
lành. Tuy vậy sau can thiêp tại thờii điểm T2 
có 46% trả lời đúng và tăng lên đạt 68% tại 
thời điểm T3. Điều này cho thấy việc tăng 
cường kiến thức cho NCSC về chăm sóc 
tư thế đúng của người bệnh là rất cần thiết, 
đặc biệt sau khi người bệnh rời khỏi bệnh 
viện và trở về nhà thì các nhân viên y tế 
rất cần cung cấp thông tin và hướng dẫn, 
hỗ trợ người bệnh và người nhà trong việc 
chăm sóc PHCN tại nhà nhằm phục hồi sức 
khỏe của người bệnh và phòng ngừa biến 
chứng có thể xảy ra.
Một trong các thương tật thứ cấp hay 
gặp người bệnh ĐQN đó là tình trạng loét 
do đè ép (còn gọi là loét ép). Trong nghiên 
94
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
cứu của chúng tôi trước can thiệp có 64% 
NCSC trả lời không đúng về đặt tư thế đúng 
cũng nhằm mục đích đề phòng loét. Qua 
đây có thể thấy nhận thức đúng tư thế trong 
phòng chống loét do đè ép của NCSC chính 
còn khá thấp, cần tuyên truyền hướng dẫn 
NCSC nhiều hơn vì khi đặt tư thế đúng, 
thời gian xoay trở NB làm đúng có tác dụng 
phòng chống loét, giúp NB đỡ tốn kém về 
kinh tế và mau chóng phục hồi hơn. Mục 
đích đặt người bệnh đúng tư thế còn nhằm 
giảm bớt mẫu co cứng, thuận tiện chăm 
sóc. Trước can thiệp, chỉ có 2% NCSC 
trả lời đúng cả 3 ý này. Sau can thiệp tỷ lệ 
NCSC trả lời đúng cả 3 ý tăng lên 20%. Khi 
NCSC hiểu đúng mục đích, tầm quan trọng 
của việc đặt tư thế đúng họ sẽ chú ý nhiều 
hơn trong quá trình chăm sóc người bệnh. 
5. KẾT LUẬN
Trước can thiệp giáo dục, kiến thức về 
phục hồi chức năng cho người bệnh đột 
quỵ của người chăm sóc chính nhìn chung 
còn hạn chế. Tỷ lệ NCSC có kiến thức 
mức độ đạt chỉ chiếm 38%. Sau can thiệp 
giáo dục, kiến thức về phục hồi chức năng 
cho người bệnh đột quỵ của người chăm 
sóc chính có thay đổi rõ rệt. Tỷ lệ NCSC 
có kiến thức ở mức độ đạt tăng lên đạt 
64% tại thời điểm T2 và 76% tại thời điểm 
T3. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy 
tác dụng tích cực và sự cần thiết của việc 
giáo dục sức khoẻ qua hướng dẫn trực 
tiếp cho người chăm sóc chính, những 
kiến thức về phục hồi chức năng vận động 
cho người bệnh đột quỵ sẽ giúp ích cho 
người chăm sóc chính có thể tiếp tục thực 
hiện phục hồi chức năng cho người bệnh 
khi xuất viện về gia đình đặc biệt khi kết 
hợp cùng những hướng dẫn về thực hành 
chăm sóc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dalal P.M (2006). Burden of stroke: 
Indian perspective, International Journal of 
Stroke. 2006;1(3):164-166.
2. Kulshreshtha A., Anderson L.M., 
Goyal A et al (2012). Stroke in South Asia: a 
systematic review of epidemiologic literature 
from 1980 to 2010. Neuroepidemiology. 
38(3): 123-129
3. World Health Organization (2008). 
World Health Statistics 2008, World Health 
Organization.
4. Lê Văn Thính, Trần Viết Lực, 
Nguyễn Thị Xuyên và các cộng sự 
(2008). Tình hình và thực trạng chăm 
sóc đột quỵ trong các Bệnh viện Đa khoa 
từ tuyến tỉnh trở lên ở Việt Nam, Hội đột 
quỵ Việt Nam. 
c o m / u p l o a d / i m a g e s / 1 % 2 0 G s % 2 0
Th%2B%C2%A1nh%20chamsocdotqui.
pdf. Truy cập ngày 21-10-2019.
5. Nguyễn Văn Thông, Đinh Thị Hải Hà, 
Nguyễn Hồng Quân và các cộng sự (2008). 
Tình hình tử vong trong 10 năm (2003-2012) 
tại Trung tâm đột quỵ Bệnh viện TƯQĐ 108.
6. Nguyễn Thị Xuyên và Trần Quý 
Tường (2008). Tài liệu số 1: Phục hồi chức 
năng sau tai biến mạch máu não, 20 tài liệu 
kỹ thuật về phục hồi chức năng cho tuyến 
cộng đồng sử dụng, Nhà xuất bản Y học, 
Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Lan (2017). Thay đổi nhận 
thức và thực hành cho người chăm sóc 
chính người bệnh đột quỵ về phục hồi chức 
năng vận động tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Quảng Ninh năm 2017. Luận văn thạc sỹ 
điều dưỡng, Trường Đại học Điều dưỡng 
Nam Định.
8. Dimyan M.A. and Cohen L.G (2011). 
Neuroplasticity in the context of motor 
rehabilitation after stroke. Nature Reviews 
Neurology. 7(2): 76-85
9. Nguyễn Thành Chung (2016). Nghiên 
cứu gánh nặng chăm sóc người bệnh 
đột quỵ não tại gia đình ở tỉnh Nam Định 
năm 2016. Luận văn Thạc sĩ Điều dưỡng, 
Trường Đại Học Điều dưỡng Nam Định.

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_ve_phuc_hoi_chuc_nang_van_dong_cho_nguoi.pdf