Thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục trên một nhóm có đánh giá trước và sau được tiến hành trên 60 người bệnh sỏi hệ tiết niệu điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định từ 02/2020 đến 5/2020. Sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn dựa trên Hướng dẫn phòng tái phát sỏi hệ tiết niệu của Bộ y tế năm 2016 và nghiên cứu của Derek Bos năm 2014. Kết quả: Điểm trung bình kiến thức trong đánh giá trước can thiệp (T1) là 6,15 ± 1,84, trước khi người bệnh ra viện 1 ngày (T2) là 10,87 ± 1,66 và 1 tháng sau can thiệp (T3) là 9,75 ± 1,70 trên tổng 15 điểm của thang đo. Tăng điểm kiến thức ở những lần đánh giá sau can thiệp so với điểm kiến thức trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị p < 0,01.="" trước="" can="" thiệp,="" 20%="" người="" bệnh="" có="" kiến="" thức="" đạt="" và="" tăng="" lên="" thành="" 91,7%="" và="" 83,3%="" trong="" 2="" lần="" đánh="" giá="" sau="" can="" thiệp.="" kết="" luận:="" kiến="" thức="" về="" phòng="" tái="" phát="" sỏi="" hệ="" tiết="" niệu="" của="" 60="" người="" bệnh="" tham="" gia="" nghiên="" cứu="" còn="" hạn="" chế="" trước="" can="" thiệp="" và="" đã="" được="" cải="" thiện="" đáng="" kể="" sau="" can="" thiệp="" giáo="" dục.="" kết="" quả="" nghiên="" cứu="" cho="" thấy="" vai="" trò="" quan="" trọng="" của="" việc="" tư="" vấn,="" giáo="" dục="" sức="" khỏe,="" củng="" cố="" kiến="" thức="" thường="" xuyên="" trong="" dự="" phòng="" tái="" phát="" sỏi="" hệ="" tiết="" niệu="" cho="" người="">

pdf 9 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020

Thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020
111
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ PHÒNG TÁI PHÁT BỆNH CỦA NGƯỜI BỆNH SỎI 
HỆ TIẾT NIỆU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Phạm Thị Hằng1b, Lê Thanh Tùng1, Võ Thị Thu Hương1, 
Nguyễn Thị Huyền Trang1, Vũ Thị Én1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức 
về phòng tái phát bệnh của người bệnh sỏi 
hệ tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam 
Định năm 2020. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp 
giáo dục trên một nhóm có đánh giá trước 
và sau được tiến hành trên 60 người bệnh 
sỏi hệ tiết niệu điều trị nội trú tại Bệnh viện 
Đa khoa tỉnh Nam Định từ 02/2020 đến 
5/2020. Sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế 
sẵn dựa trên Hướng dẫn phòng tái phát sỏi 
hệ tiết niệu của Bộ y tế năm 2016 và nghiên 
cứu của Derek Bos năm 2014. Kết quả: 
Điểm trung bình kiến thức trong đánh giá 
trước can thiệp (T1) là 6,15 ± 1,84, trước 
khi người bệnh ra viện 1 ngày (T2) là 10,87 
± 1,66 và 1 tháng sau can thiệp (T3) là 9,75 
± 1,70 trên tổng 15 điểm của thang đo. 
Tăng điểm kiến thức ở những lần đánh giá 
sau can thiệp so với điểm kiến thức trước 
can thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị 
p < 0,01. Trước can thiệp, 20% người bệnh 
có kiến thức đạt và tăng lên thành 91,7% và 
83,3% trong 2 lần đánh giá sau can thiệp. 
Kết luận: Kiến thức về phòng tái phát sỏi 
hệ tiết niệu của 60 người bệnh tham gia 
nghiên cứu còn hạn chế trước can thiệp và 
đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp 
giáo dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy vai 
trò quan trọng của việc tư vấn, giáo dục 
sức khỏe, củng cố kiến thức thường xuyên 
trong dự phòng tái phát sỏi hệ tiết niệu cho 
người bệnh.
Từ khóa: Kiến thức, sỏi hệ tiết niệu, 
phòng bệnh tái phát.
CHANGESIN THE PATIENTS’ KNOWLEDGEABOUTPREVENTION OF 
RECURRENT URINARY STONES AT NAM DINH GENERAL HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT 
Objective: To determine changes in 
the patients’ knowledge about prevention 
of recurrent urinary stones at Nam Dinh 
General Hospital in 2020. Method: 
An educational intervention study was 
performed among 60 patients with urinary 
stones from February 2020 to May 2020 
in Nam Dinh General Hospital. The self-
completed questionnaire based on the 
Derek Bos 2014 study was used to evaluate 
of patients’ knowledge before and after. 
Results: The mean scores of patients’ 
knowledge before the intervention, the day 
before discharge and one month later were 
6,15 ± 1,84 points, 10,87 ± 1,66 points and 
9,75 ± 1,70 points, respectively (p values 
of 0.01). The percentages of patients who 
had the good level of knowledge before 
the intervention, the day before discharge 
and one month later, respectively were 
20%, 91,7% and 83,3%. Conclusion: The 
knowledge of 60 patients about prevention 
Người chịu trách nhiệm: Phạm Thị Hằng
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 01/10/2020
Ngày duyệt bài: 12/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
112
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
of recurrent urinary stones within the 
study was limited before the educational 
intervention then improved significantly 
after the intervention. The study shows 
the importance and nescessary of patient 
health education.
Keywords: Knowledge, urinary stones, 
recurrent prevention.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi hệ tiết niệu là một bệnh khá phổ biến 
ở khắp nơi trên thế giới nhưng sự phân bố 
không đồng đều ở các quốc gia. Trên thế 
giới có khoảng 2-14% dân số có sỏi hệ tiết 
niệu. Ở các nước Châu Á tỷ lệ sỏi hệ tiết 
niệu chiếm 2-5% dân số và lên tới 15% dân 
số ở các nước phương Tây [1]. Việt Nam 
là một nước nằm trong khu vực vành đai 
sỏi của thế giới nên tỷ lệ sỏi hệ tiết niệu 
cao, tỷ lệ người bệnh sỏi hệ tiết niệu chiếm 
khoảng 1-3% dân số và là bệnh lý hay gặp 
nhất trong chuyên khoa tiết niệu (chiếm 40-
60% các bệnh tiết niệu nói chung) [2].
Sỏi hệ tiết niệu nguy hiểm không phải 
bởi bệnh không thể chữa được hay tỷ lệ 
tử vong cao mà bởi bệnh rất dễ tái phát, 
rất dễ biến chứng. Theo nghiên cứu của 
Safarinejad RM và cộng sự tại Iran thì tỷ 
lệ tái phát trung bình tích lũy là 16% sau 
1 năm, 32% sau 5 năm và 53% sau 10 
năm [3]. Kết quả nghiên cứu của Đặng 
Tiến Trường năm 2013 chỉ ra rằng yếu tố 
làm tăng nguy cơ tái phát sỏi hệ tiết niệu 
bao gồm ăn nhiều đạm động vật, ăn nhiều 
canxi, ăn nhiều purin, ăn nhiều oxalate, ăn 
nhiều lipid, uống nước không theo định 
mức và lạm dụng corticoid [4]. Từ đó cho 
thấy người bệnh có vai trò rất quan trọng 
trong công tác phòng bệnh tái phát khi họ 
có kiến thức đúng và đầy đủ về các biện 
pháp phòng tái phát bệnh. Tuy nhiên, kiến 
thức của người bệnh sỏi hệ tiết niệu trong 
lĩnh vực này còn hạn chế. Theo nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Thu Hương (2018) tại Nam 
Định chỉ có 30,4% người bệnh sỏi hệ tiết 
niệu có kiến thức đúng về hạn chế thức ăn 
giàu đạm; 39,2% kiến thức đúng về ăn hạn 
chế muối và 49,2% kiến thức đúng về chế 
độ tập luyện thể dục thể thao [5].
Ngoài ra, hoạt động Truyền thông - Giáo 
dục sức khỏe là một trong những nhiệm vụ 
quan trọng hàng đầu trong chăm sóc sức 
khỏe cộng đồng, nhằm thay đổi kiến thức, 
thái độ và thực hành của con người, góp 
phần giúp mọi người chủ động trong chăm 
sóc và bảo vệ sức khỏe. Tuy nhiên, hiện 
nay công tác truyền thông GDSK chưa cao 
vì: Hình thức, phương pháp truyền thông 
chưa bài bản; Cán bộ y tế chưa được bồi 
dưỡng nhiều về phương pháp tổ chức và 
hạn chế nguồn nhân lực. 
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu nhằm mục tiêu: Đánh giá 
sự thay đổi kiến thức về phòng tái phát bệnh 
của người bệnh sỏi hệ tiết niệu tại Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
can thiệp trên một nhóm có đánh giá trước 
và sau can thiệp 
2.2. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong thời 
gian từ tháng 02 đến tháng 5 năm 2020 trên 
60 người bệnh sỏi hệ tiết niệu điều trị nội trú 
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả người bệnh 
được chẩn đoán có sỏi hệ tiết niệu; Những 
người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu và 
có khả năng giao tiếp.
Tiêu chuẩn loại trừ: Những người bệnh 
đã từng tham gia một chương trình giáo 
dục có nội dung về kiến thức phòng tái phát 
sỏi hệ tiết niệu.
2.3. Mẫu và phương pháp chọn mẫu: 
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ 
mẫu
Trong đó:
- n: số người bệnh tham gia nghiên cứu
n = 
 Ǧ √ Ǧ Ǧ √ Ǧ 
 Ǧ 
 =
113
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
- p0: tỷ lệ người bệnh có kiến thức đạt 
trước can thiệp. Lấy p0 = 0,4 [5].
- p1: tỷ lệ người bệnh có kiến thức đạt 
sau can thiệp. Lấy p1 = 0,6.
Thay vào công thức trên có n = 52. Cộng 
thêm 10% sai số nên lấy n = 57
Chọn mẫu cho nghiên cứu: Sử dụng 
phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Trong 
khoảng thời gian từ 02/2020 đến 5/2020 có 
60 người bệnh đủ tiêu chuẩn lựa chọn tham 
gia vào nghiên cứu.
2.4. Quy trình can thiệp
Các bước tiến hành
- Đánh giá thực trạng kiến thức của đối 
tượng nghiên cứu (đánh giá lần 1: T1) bằng 
bộ câu hỏi phỏng vấn được thiết kế sẵn 
dựa trên Hướng dẫn phòng tái phát sỏi hệ 
tiết niệu của Bộ y tế năm 2016 và nghiên 
cứu của Derek Bos năm 2014, được thực 
hiện vào thời điểm sau khi người bệnh vào 
viện 1 ngày, trước khi tiến hành GDSK.
- Can thiệp giáo dục sức khỏe cho từng 
đối tượng nghiên cứu vào thời điểm ngay 
sau đánh giá lần 1. Đối tượng nghiên cứu 
còn thiếu, yếu ở khâu nào về phòng tái phát 
bệnh sẽ được tư vấn trực tiếp và phát tờ rơi 
kèm theo.
- Đánh giá lại kiến thức của đối tượng 
nghiên cứu sau can thiệp (đánh giá lần 2: 
T2) sử dụng cùng bộ câu hỏi, được tiến 
hành trước khi người bệnh ra viện 1 ngày.
- Đánh giá lại kiến thức của đối tượng 
nghiên cứu (đánh giá lần 3: T3) sử dụng 
cùng bộ câu hỏi, được tiến hành 1 tháng 
sau can thiệp.
Nội dung can thiệp: Giáo dục sức khỏe 
cho người bệnh có sỏi hệ tiết niệu kiến thức 
về phòng tái phát bệnh theo hướng dẫn của 
Bộ Y Tế (2016) bao gồm: Kiến thức chung 
về bệnh. Kiến thức phòng tái phát sỏi hệ 
tiết niệu.
Người can thiệp: Chủ đề tài nghiên cứu 
và cộng sự (5 điều dưỡng của khoa Ngoại 
Thận - tiết niệu đã được tập huấn kỹ về 
cách thức lấy số liệu và nội dung can thiệp 
giáo dục sức khỏe).
2.5. Công cụ và phương pháp thu 
thập số liệu 
- Bộ công cụ được nhà nghiên cứu 
xây dựng, phát triển dựa trên Hướng dẫn 
phòng tái phát sỏi hệ tiết niệu của Bộ Y Tế 
năm 2016 và đề tài nghiên cứu của tác giả 
Derek Bos cùng cộng sự năm 2014 [1]. 
- Bộ công cụ gồm 4 phần:
+ Phần 1: Thông tin chung về đối tượng 
nghiên cứu gồm 7 câu hỏi nhằm mục đích 
tìm hiểu các thông tin cá nhân của đối 
tượng nghiên cứu. 
+ Phần 2: Kiến thức chung về sỏi hệ tiết 
niệu gồm 5 câu hỏi liên quan đến nguyên 
nhân gây bệnh, triệu chứng, biến chứng...
của sỏi hệ tiết niệu. 
+ Phần 3: Kiến thức phòng tái phát sỏi 
hệ tiết niệu gồm 15 câu hỏi liên quan đến 
những loại thực phẩm mà người bệnh sỏi 
hệ tiết niệu nên, không nên sử dụng; những 
hành động mà người bệnh nên, không nên 
làm. 
2.6. Tiêu chí đánh giá
- Đối tượng nghiên cứu tham gia trả lời 
phiếu điều tra với mỗi câu trả lời đúng được 
1 điểm, trả lời sai hoặc không biết được 0 
điểm. Phiếu điều tra gồm 20 câu hỏi liên 
quan đến kiến thức của người bệnh. Trong 
đó có 3 câu hỏi nhiều lựa chọn, mỗi nội 
dung NB trả lời đúng được 1 điểm. Tổng 
điểm của 3 câu hỏi nhiều lựa chọn là 12 
điểm. Tổng điểm kiến thức tối đa 29 điểm. 
- Áp dụng phân loại kiến thức trong 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hương 
(2018), phân loại kiến thức của người bệnh 
gồm 2 mức: đạt và không đạt [5].
+ Kiến thức mức độ đạt khi người bệnh 
đạt ≥50% tổng số điểm (≥15 điểm).
+ Kiến thức mức độ không đạt khi người 
bệnh đạt <50% tổng số điểm (<15 điểm).
2.7. Phương pháp phân tích số liệu: 
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0.
114
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3. KẾT QUẢ 
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới tính
Tuổi
(năm)
Giới tính
Tổng
Nam Nữ
SL TL % SL TL % SL TL %
< 20 0 0,0 0 0,0 0 0,0
20 - 39 4 6,7 3 5,0 7 11,7
40 - 59 25 41,7 8 13,3 33 55,0
≥ 60 13 21,6 7 11,7 20 33,3
Tổng 42 70,0 18 30,0 60 100,0
Trong số 60 người bệnh tham gia nghiên cứu, người bệnh nam chiếm 70%. Người 
bệnh trong độ tuổi từ 40 đến 59 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,0%.
3.2. Kết quả kiến thức về phòng tái phát bệnh của người bệnh
Đánh giá kiến thức của người bệnh về phòng tái phát sỏi tiết niệu được thực hiện trước 
can thiệp giáo dục (T1), sau can thiệp (T2) vào 01 ngày trước khi người bệnh ra viện và 
sau giáo dục sức khỏe 1 tháng (T3), các kết quả đánh giá được thể hiện trong các Bảng 
dưới đây.
Bảng 2. Kiến thức về sử dụng thức ăn giàu đạm và muối (n=60)
Nội dung kiến thức
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Chế độ ăn đạm
Trả lời đúng 32 53,3 49 81,7 49 81,7
Trả lời sai 28 46,7 11 18,3 11 18,3
Chế độ ăn muối
Trả lời đúng 41 68,3 54 90,0 52 86,7
Trả lời sai 19 31,7 6 10,0 8 13,3
Tại thời điểm đánh giá lần 1 có 53,3% NB trả lời cần hạn chế các thực phẩm giàu 
protein có nguồn gốc động vật và tăng lên 81,7% trong 2 lần đánh giá sau can thiệp. Có 
68,3% ĐTNC cho rằng NB sỏi hệ tiết niệu nên sử dụng ≤ 5g muối trong ngày và tỷ lệ này 
tăng lên 90,0% trong đánh giá ngay sau can thiệp; 86,7% trong đánh giá sau can thiệp 1 
tháng.
Bảng 3. Kiến thức về sử dụng thực phẩm giàu canxi 
và bổ sung canxi từ thuốc (n=60)
Nội dung kiến thức
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Chế độ ăn canxi
Trả lời đúng 26 43,3 47 78,4 45 75,0
Trả lời sai 34 56,7 13 21,6 15 25,0
Bổ sung canxi từ thuốc
Trả lời đúng 25 41,7 45 75,0 41 68,3
Trả lời sai 35 58,3 15 25,0 19 31,7
115
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Có 43,3% NB trả lời đúng về sử dụng thức ăn giàu canxi trong đánh giá trước can thiệp, 
tăng lên 78,4% và 75,0% trong 2 lần đánh giá sau can thiệp. Trước can thiệp có 58,3% 
cho rằng NB nên bổ sung canxi từ thuốc và giảm xuống 25,0% trong đánh giá ngay sau 
can thiệp; 31,7% trong đánh giá sau can thiệp 1 tháng.
Bảng 4. Kiến thức về sử dụng thực phẩm giàu oxalat và purine (n=60)
Nội dung kiến thức
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Sử dụng thực phẩm 
giàu oxalat
Trả lời đúng 1 1,7 39 65,0 33 55,0
Trả lời sai 59 98,3 21 35,0 27 45,0
Sử dụng thực phẩm 
giàu purine
Trả lời đúng 6 10,0 38 63,3 22 36,7
Trả lời sai 54 90,0 22 36,7 38 63,3
Trước can thiệp có 1,7% và 10,0% NB cho rằng nên hạn chế sử dụng các thực phẩm 
giàu oxalat, giàu purin. Ngay sau can thiệp con số này tăng lên thành 65,0% và 63,3%. 
Sau can thiệp 1 tháng tỷ lệ này là 55,0% và 36,7%.
Bảng 5. Kiến thức duy trì trọng lượng cơ thể và tập thể dục (n=60)
Nội dung kiến thức
T1 T2 T3
SL TL % SL TL % SL TL %
Duy trì trọng lượng 
cơ thể
Trả lời đúng 34 56,7 51 85,0 45 75,0
Trả lời sai 26 43,3 9 15,0 15 25,0
Luyện tập thể dục
Trả lời đúng 51 85,0 57 95,0 53 88,3
Trả lời sai 9 15,0 3 5,0 7 11,7
Có 56,7% NB lựa chọn việc duy trì trọng lượng cơ thể ở mức độ vừa phải tại thời điểm 
đánh giá lần 1 và tăng lên 85,0% trong đánh giá lần 2; 75,0% trong đánh giá lần 3. Trước 
can thiệp có 85,0% NB trả lời nên tập thể dục thường xuyên để phòng ngừa sỏi hệ tiết niệu 
tái phát. Sau can thiệp, tỷ lệ này tăng lên 95,0% và 88,3% trong 2 lần đánh giá.
Bảng 6. Điểm trung bình kiến thức về phòng tái phát bệnh (n=60)
Điểm đánh giá
Thấp nhất
(Min)
Cao nhất
(Max)
Trung bình
(± SD)
p
(t-test)
Trước can thiệp (T1) 2 11 6,15 ± 1,84
Sau can thiệp (T2) 7 14 10,87 ± 1,66 p(2-1)<0,01
Sau can thiệp 1 tháng (T3) 5 13 9,75 ± 1,70 p(3-1)<0,01
Điểm trung bình kiến thức phòng tái phát bệnh tăng từ 6,15 ± 1,84 thành 10,87 ± 1,66 
tại thời điểm đánh giá ngay sau can thiệp và 9,53 ± 1,70 tại thời điểm đánh giá sau can 
thiệp giáo dục 1 tháng. Sự thay đổi giữa ngay sau can thiệp và sau can thiệp 1 tháng so 
với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị p < 0,01.
116
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Biểu đồ 1. Phân loại kiến thức trước và sau can thiệp
Trước can thiệp có 20,0% NB có kiến thức đạt và tăng lên 91,7% tại thời điểm đánh giá 
ngay sau can thiệp; 83,3% tại thời điểm đánh giá lần 3.
20 
80 
91,7 
8,3 
83,3 
16,7 
0
20
40
60
80
100
Đạt Không đạt 
Trước can thiệp Trước ra viện Sau can thiệp 1 tháng 
Tỷ
 lệ
4. BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức về phòng bệnh tái phát 
của người bệnh sỏi hệ tiết niệu trước 
can thiệp
Trong điều trị sỏi hệ tiết niệu, ngoài việc sử 
dụng thuốc theo chỉ định của bác sỹ, người 
bệnh nên kết hợp với chế độ ăn uống, sinh 
hoạt hợp lý để đánh tan sỏi cũng như ngăn 
ngừa sỏi tái phát. Trong quá trình sống của 
con người, thức ăn là nguồn cung cấp năng 
lượng thiết yếu để phát triển cơ thể và duy trì 
năng lượng cho các hoạt động thể chất và trí 
tuệ. Sau một chu trình chuyển hóa, các chất 
dư thừa sẽ được chuyển đến thận để tái hấp 
thu, thanh lọc sau đó bài tiết ra ngoài dưới 
dạng nước tiểu. Tại đây, nếu nồng độ các 
khoáng chất khó tan quá cao trong khi thể 
tích nước tiểu giảm chính là điều kiện thuận 
lợi để lắng đọng và kết tinh tạo sỏi hệ tiết 
niệu. Và chính các thực phẩm bổ sung hàng 
ngày có ảnh hưởng rất lớn đến sự cân bằng 
nồng độ của các khoáng chất trong nước 
tiểu, từ đó gián tiếp thúc đẩy hoặc ức chế 
quá trình hình thành sỏi. Do đó, việc thiết 
lập một chế độ dinh dưỡng khoa học là chìa 
khóa giúp điều trị và phòng ngừa bệnh sỏi 
hệ tiết niệu. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế 
Việt Nam (2016) người bệnh cần ăn hạn chế 
muối và các thực phẩm giàu đạm động vật. 
Vì thực phẩm chứa nhiều muối và nhiều đạm 
sẽ làm giảm độ pH nước tiểu, kích thích sự 
bài tiết của chất canxi và cystine gây ra sỏi 
hệ tiết niệu.Ngoài ra, các thực phẩm này còn 
làm giảm bài tiết của chất citrat giúp ngăn 
chặn sự tạo thành sỏi. Mặt khác, thực phẩm 
ít muối và ít đạm động vật còn giúp chúng ta 
tránh các bệnh về tim mạch như: tăng huyết 
áp, thiểu năng động mạch vành[6]. Theo 
hướng dẫn của Hiệp hội tiết niệu châu Âu 
(2015) về phòng tái phát sỏi tiết niệu, người 
bệnh không nên ăn quá 5g muối/ngày. Nếu 
sử dụng nhiều sẽ làm thay đổi thành phần 
nước tiểu như tăng bài tiết canxi, citrate niệu 
giảm do mất bicarbonate, tăng nguy cơ hình 
thành tinh thể natri urate. Ngoài ra, người 
bệnh nên sử dụng hạn chế đạm động vật, 
khoảng 0.8-1g/kg cân nặng/ngày. Nếu sử 
dụng nhiều thực phẩm giàu đạm có nguồn 
gốc động vật sẽ làm giảm độ pH của nước 
tiểu, tăng uric niệu, từ đó làm tăng nguy cơ 
tạo sỏi [7]. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi có 68,3% người bệnh cho rằng nên sử 
dụng ≤ 5g muối/ngày và 53,3% NB cho rằng 
nên hạn chế protein động vật. Kết quả này 
cao hơn một số nghiên cứu trong và ngoài 
nước. Theo Nguyễn Thị Thu Hương (2018) 
117
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
có 39,2% người bệnh trả lời nên hạn chế ăn 
muối và 30,4% NB trả lời nên hạn chế thức 
ăn giàu đạm [5]. Theo Derek Bos (2014) có 
hơn 50,0% ĐTNC có kiến thức đúng về chế 
độ ăn hạn chế muối [1]. 
Canxi là một khoáng chất rất quan trọng 
đối với chức năng tế bào, tham gia vào quá 
trình xây dựng hệ xương răng chắc khỏe, sản 
xuất và bài tiết một số hormone, chức năng 
đông máu, hoạt động cơ bắp và cơ tim, dẫn 
truyền tế bào thần kinh. Khi cơ thể bị thiếu 
canxi, sẽ dẫn đến những rối loạn và bệnh tật 
như loãng xương, rối loạn chức năng cơ bắp, 
tim mạch và thần kinh. Thành phần chính của 
sỏi thận là canxi oxalat. Một số nghiên cứu 
đã phát hiện ra rằng lượng canxi trong chế 
độ ăn uống là một trong những yếu tố bảo 
vệ để chống lại sự hình thành sỏi [8]. Quan 
điểm trước đây, người bệnh sỏi hệ tiết niệu 
nên hạn chế thực phẩm giàu canxi. Nhưng 
hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng 
nếu hạn chế quá mức những thực phẩm này 
sẽ gây mất cân bằng trong việc hấp thụ chất 
calcium, khiến cho cơ thể tái hấp thụ nhiều 
chất oxalat từ ruột và sẽ tạo ra sỏi hệ tiết 
niệu. Do đó người bệnh nên sử dụng điều 
độ thực phẩm giàu canxi. Theo các chuyên 
gia, khi sử dụng lượng canxi khoảng 800 - 
1.300mg/ngày sẽ làm giảm sự bài tiết chất 
oxalat trong nước tiểu. Tuy nhiên, người 
bệnh nên sử dụng canxi chứa trong thực 
phẩm và không nên sử dụng thuốc để bổ 
sung canxi khi không có chỉ định của bác sỹ 
[9]. Theo nghiên cứu của Qaseem A (2014) 
tại Hoa Kỳ về chế độ ăn phòng tái phát sỏi hệ 
tiết niệu cho kết quả như sau: Có 20% người 
bệnh bị tái phát sỏi trong số những người 
bệnh có chế độ ăn với lượng canxi bình 
thường, hạn chế protein động vật và hạn chế 
muối; 38,3% người bệnh tái phát sỏi trong 
số những người bệnh có chế độ ăn chỉ kiểm 
soát lượng canxi; tỷ lệ người bệnh có sỏi 
canxi oxalate tái phát ở nhóm thực hiện chế 
độ ăn đa thành phần với lượng canxi bình 
thường (1200mg/ngày) thấp hơn nhóm thực 
hiện chế độ ăn ít canxi (400mg/ngày) [10]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 43,3% 
NB trả lời đúng về sử dụng thực phẩm giàu 
canxi và 25,0% NB cho rằng không nên bổ 
sung canxi từ thuốc khi không cần thiết. Kết 
quả này cao hơn NC của Nguyễn Thị Thu 
Hương (2018) với 23,3% NB trả lời đúng về 
chế độ ăn thực phẩm giàu canxi [5]. Sự khác 
biệt này có thể do trong NC của chúng tôi 
có số NB >60 tuổi cao hơn NC của Nguyễn 
Thị Thu Hương là 33,3% so với 27,9%. Mà 
ở người cao tuổi có nhiều lý do khiến cho 
sự hấp thu canxi giảm, sự bài tiết canxi lại 
tăng lên làm cho tổng lượng canxi của cơ 
thể giảm. Thiếu canxi sẽ dẫn đến bệnh loãng 
xương, mật độ xương giảm, xương xốp giòn, 
dễ bị gãy... ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống 
của người bệnh. Do đó người cao tuổi luôn ý 
thức được việc bổ sung canxi từ thực phẩm 
để giúp xương chắc khỏe hơn [11].
Ngoài việc thay đổi chế độ ăn uống, 
người bệnh sỏi hệ tiết niệu cũng cần phải 
thay đổi lối sống để phòng sỏi tái phát. Theo 
Bộ Y tế Việt Nam (2016), người bệnh nên 
tập thể dục thường xuyên (ít nhất 150 phút/
tuần) vào buổi sáng, giúp loại bỏ các chất 
không cần thiết ra khỏi cơ thể như là natri và 
chuyển hoá canxi vào trong xương giúp giảm 
nguy cơ hình thành sỏi. Đồng thời không nên 
vận động, làm việc quá sức, không nên thức 
khuya mà thay vào đó là một chế độ ngủ nghỉ 
hợp lý. Duy trì trọng lượng cơ thể (BMI) vừa 
phải (nếu BMI quá dư sẽ làm tăng lượng 
acid uric và giảm độ pH của nước tiểu dẫn 
đến dễ hình thành sỏi thận) [6]. Theo Đặng 
Tiến Trường (2011), ở nhóm bệnh, số người 
có mức độ vận động ít và trung bình (40/200) 
cao hơn so với nhóm chứng (18/200) với 
p<0,05; OR = 2,5 cho thấy người có mức 
độ vận động ít, nguy cơ mắc bệnh sỏi hệ 
tiết niệu cao gấp 2 lần so với nhóm người 
có mức độ vận động nhiều [9]. Theo Lê Thị 
Hương (2014) có mối liên quan chặt chẽ 
giữa luyện tập thể dục với nguy cơ mắc bệnh 
sỏi thận. Người không có thói quen luyện tập 
thể dục hàng ngày thì có nguy cơ mắc bệnh 
sỏi thận cao hơn gấp 1,3 lần so với những 
người có thói quen này. Theo một số nghiên 
cứu trên thế giới, béo phì và tăng cân đều 
118
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
liên quan với nguy cơ mắc sỏi thận. Chỉ 
số BMI cao và vòng bụng lớn là hai yếu tố 
nguy cơ bị sỏi thận. Các nhà nghiên cứu cho 
rằng có thể có một liên kết giữa các mô mỡ, 
đề kháng insulin và thành phần nước tiểu.
Những người có kích thước cơ thể lớn hơn 
có thể bài tiết nhiều canxi và axit uric trong 
nước tiểu, làm tăng nguy cơ hình thành sỏi 
thận[12]. Trong NC của chúng tôi có 85% NB 
cho rằng nên tập thể dục thường xuyên và 
56,7% NB cho rằng cần duy trì trọng lượng 
cơ thể ở mức độ vừa phải. Kết quả này cao 
hơn NC của Nguyễn Thị Thu Hương (2018) 
với 49,2% NB cho rằng nên thường xuyên 
tập thể dục những môn có cường độ thấp 
như đi bộ, đạp xe[5].
4.2. Thay đổi kiến thức về phòng tái 
phát bệnh sau can thiệp
Trước can thiệp, điểm trung bình kiến thức 
phòng tái phát bệnh của người bệnh tương 
đối thấp là 6,15 ± 1,84, sau can thiệp điểm 
này tăng lên thành 10,87 ± 1,66 tại thời điểm 
đánh giá lần 2 và 9,53 ± 1,70 tại thời điểm 
đánh giá lần 3. Sự thay đổi giữa ngay sau can 
thiệp và sau can thiệp 1 tháng so với trước 
can thiệp có ý nghĩa thống kê với các giá trị p 
< 0,01. Cụ thể là: Trước can thiệp có 53,3% 
NB cho rằng nên hạn chế sử dụng các thực 
phẩm giàu đạm động vật. Sau can thiệp tỷ lệ 
này tăng lên đáng kể với 81,7% ở cả 2 lần 
đánh giá. Trong NC này có 68,3% NB có kiến 
thức đúng về chế độ ăn muối. Sau can thiệp, 
con số này tăng lên rất cao với 90,0% trong 
đánh giá ngay sau can thiệp và 86,7% trong 
đánh giá sau can thiệp 1 tháng. Số người 
bệnh có kiến thức về sử dụng các thực phẩm 
giàu oxalat và purine rất thấp lần lượt là 1,7% 
và 10,0%. Sau can thiệp tỷ lệ này tăng lên rất 
nhiều với 65% và 63,3% trong đánh giá lần 
2; 55% và 36,7% trong đánh giá lần 3. Trước 
can thiệp, chỉ có 43,3% NB có chế độ ăn thực 
phẩm giàu canxi hợp lý. Sau can thiệp, tỷ lệ 
này được cải thiện đáng kể với 78,4% trong 
đánh giá lần 2 và 75,0% trong đánh giá lần 3. 
Khi hỏi về cách duy trì trọng lượng cơ thể và 
luyện tập thể dục, có lần lượt 56,7% và 85% 
trả lời đúng. Ngay sau can thiệp, tỷ lệ này lần 
lượt là 85,0% và 95,0%. Sau can thiệp giáo 
dục 1 tháng, tỷ lệ này vẫn còn khá cao với 
75,0% và 88,3%.
Tuy nhiên sự thay đổi kiến thức giữa 
nhóm đến tái khám được phỏng vấn trực 
tiếp tại bệnh viện với nhóm được phỏng vấn 
tại nơi sinh sống và qua điện thoại, zalo là 
khác nhau. Trong số 48 người bệnh đến tái 
khám có 43 người bệnh có kiến thức đạt 
chiếm 89,6%. Với 12 người bệnh không đến 
tái khám, có 4/5 người bệnh có kiến thức 
đạt khi được phỏng vấn trực tiếp tại nơi sinh 
sống chiếm 80,0% và 3/7 người bệnh có 
kiến thức đạt khi được phỏng vấn qua điện 
thoại, zalo chiếm 42,9%. 
Nhìn chung, kiến thức của NB sau can 
thiệp đã tăng lên ở tất cả các khía cạnh. Điều 
đó chứng tỏ can thiệp giáo dục sức khỏe đã 
có hiệu quả bước đầu và qua đó thấy được 
sự cần thiết của tư vấn, GDSK cho người 
bệnh trong thời gian họ nằm viện. Thật 
vậy, theo Thông tư số 07/2011/TT-BYT về 
“Hướng dẫn công tác chăm sóc người bệnh 
trong bệnh viện” thì một trong những nhiệm 
vụ chuyên môn chăm sóc của Điều dưỡng 
là tư vấn, giáo dục sức khỏe, hướng dẫn tự 
chăm sóc, theo dõi, phòng bệnh trong thời 
gian người bệnh nằm viện và sau khi ra viện. 
Nội dung chăm sóc người bệnh được Thông 
tư 07/2011/TT-BYT quy định dựa trên cơ 
sở tham khảo một số lý thuyết điều dưỡng 
thịnh hành, trong đó có lý thuyết Tự chăm 
sóc của Dorothea Orem. Theo lý thuyết này, 
người điều dưỡng cần đưa ra những hành 
động chăm sóc để thỏa mãn nhu cầu chăm 
sóc của người bệnh và những hành động 
chăm sóc này phụ thuộc vào nhu cầu của 
mỗi người. Mặt khác, người điều dưỡng cần 
nhận định mức độ hạn chế tự chăm sóc của 
người bệnh để phát hiện nhu cầu chăm sóc 
của họ mà đáp ứng. Nhân viên y tế cần hiểu 
các thành phần tạo nên sự chăm sóc y tế bao 
gồm: Con người là đối tượng chăm sóc, bao 
gồm cả thể chất, tinh thần, niềm tin, yếu tố xã 
hội và kiến thức y học của mỗi cá nhân, gia 
đình hoặc cộng đồng. Môi trường tác động 
lên con người bao gồm cả yếu tố bên trong 
119
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
của mỗi người và yếu tố bên ngoài tác động 
nên tình trạng sức khỏe của mỗi người. Sức 
khỏe: là tình trạng khỏe mạnh hoặc ốm đau 
mà mỗi con người trải qua. Chăm sóc điều 
dưỡng là những hành động, những đặc tính 
và thái độ của người chăm sóc. Khi chăm 
sóc người bệnh, người điều dưỡng cần nhận 
định người bệnh và phân cấp chăm sóc, mỗi 
người bệnh thuộc 1 trong 3 cấp độ sau: Phụ 
thuộc hoàn toàn: Điều dưỡng phải thực hiện 
các hoạt động chăm sóc, điều trị, hỗ trợ toàn 
bộ cho người bệnh. Phụ thuộc một phần: 
Điều dưỡng thực hiện các hoạt động điều trị 
là chính, hỗ trợ những hoạt động chăm sóc 
mà người bệnh không tự chăm sóc được. Tự 
chăm sóc: Người bệnh tự chăm sóc nhưng 
vẫn cần sự hỗ trợ trong điều trị, chăm sóc 
khi cần và họ cần được hướng dẫn, giáo dục 
sức khỏe để tự chăm sóc và phòng ngừa 
biến chứng, phòng ngừa mắc bệnh khác [13].
5. KẾT LUẬN
Thực trạng kiến thức về phòng tái phát 
bệnh của NB sỏi hệ tiết niệu còn thấp với 
20% NB có kiến thức đạt.
Sau can thiệp có sự cải thiện rõ rệt trong 
kiến thức của NB về phòng tái phát sỏi hệ tiết 
có ý nghĩa thống kê với các giá trị p < 0,01 
với số NB có kiến thức đạt tăng lên 91,7% và 
83,3% trong 2 lần đánh giá. Điểm trung bình 
kiến thức phòng tái phát bệnh tăng từ 6,15 ± 
1,84 (trên tổng điểm 15) thành 10,87 ± 1,66 
tại thời điểm đánh giá ngay sau can thiệp và 
9,53 ± 1,70 tại thời điểm đánh giá sau can 
thiệp giáo dục 1 tháng (các giá trị p < 0,01).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Derek Bos et al (2014). Knowledge, 
attitudes, and practice patterns among 
healthcare providers in the prevention of 
recurrent kidney stones in Northern Ontario, 
Original Research, December/Volume 8/
Issue 11-12.
2. Nguyễn Thị Ngọc (2016). Nghiên cứu 
tình hình mắc sỏi hệ tiết niệu ở người trưởng 
thành tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí 
Minh năm 2016, Luận án chuyên khoa cấp 
II, Trường Đại học Y dược Huế.
3. Safarinejad R. M. (2007). Adult 
urolithias is in a population-based study in 
Iran: prevalence, incidence, and associated 
risk factors, Urol Res, (35), pp.73-82.
4. Đặng Tiến Trường, Nguyễn Duy Bắc, 
Trần Văn Hinh (2013). Mối liên quan của chế 
độ ăn và thói quen sử dụng một số thuốc với 
nguy cơ bệnh sỏi hệ tiết niệu.
5. Nguyễn Thị Thu Hương (2018). Thực 
trạng kiến thức về phòng tái phát sỏi hệ tiết 
niệu của người bệnh tại Bệnh viện Đa khoa 
tỉnh năm 2018, Đề tài cơ sở, Trường Đại học 
Điều dưỡng Nam Định.
6. Bộ Y tế (2016). Phòng ngừa sỏi hệ tiết 
niệu tái phát, <https://suckhoedoisong.vn/
phong-ngua-soi-tiet-nieu-tai-phat-n115067.
html>, truy cập ngày 10/10/2019.
7. European Urological Association 
(2015). Guidelines on urolithiasis.
8. Mathew D.S (2014). Calcium intake 
and urinary stone disease. Transl Androl 
Urol. 2014 Sep; 3(3): 235–240.
9. Đặng Tiến Trường (2011). Mối liên 
quan giữa chế độ sinh hoạt, lao động và 
một số bệnh với nguy cơ bệnh sỏi hệ tiết 
niệu qua nghiên cứu bệnh chứng. Tạp chí 
Y - Dược quân sự, số 5, tr. 92-98.
10. Qaseem A et al (2014). Dietary and 
pharmacologic management to prevent 
recurrent nephrolithiasis in adults: a clinical 
practice guideline from the American 
College of Physicians.Ann Intern Med. Nov 
4;161(9):659-67. doi: 10.7326/M13-2908.
11. Judith A. Beto (2015). The Role of 
Calcium in Human Aging. Clin Nutr Res. 
2015 Jan; 4(1): 1–8.
12. Ghazaleh A. A. L., Budair Z. (2013), “The 
Relation between StoneDisease and Obesity 
in Jordan”, Saudi Journal of Kidney Diseases 
andTransplantation, 24(3), pp.610-614]
13. Lương Ngọc Khuê và Phạm Đức Mục 
(2014). Tài liệu đào tạo liên tục chăm sóc 
người bệnh toàn diện. Nhà xuất bản Y học, 
Hà Nội, 5 - 6

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_ve_phong_tai_phat_benh_cua_nguoi_benh_soi.pdf