Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Can thiệp giáo dục có so sánh trước sau trên 70 người chăm sóc chính tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định về kiến thức chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà bằng bộ câu hỏi chuẩn bị trước tại 3 thời điểm: Trước can thiệp, ngay sau can thiệp 1 ngày và sau can thiệp 1 tháng.

Kết quả: Trước can thiệp điểm trung bình kiến thức chung về chăm sóc người bệnh TTPL tại nhà đạt 5,33 ± 1,13 điểm (thang điểm 10). Sau can thiệp 1 ngày điểm trung bình kiến thức chung đạt 9,29 ± 0,48 điểm (tăng 3,96 điểm). Sau can thiệp 1 tháng điểm trung bình kiến thức chung có giảm nhưng vẫn ở mức cao 8,73 ± 0,48 (tăng 3,4 điểm so với trước can thiệp). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.="">

Kết luận: Kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính trước can thiệp còn nhiều hạn chế nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp

pdf 10 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định năm 2020

Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định năm 2020
29
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT 
TẠI NHÀ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC CHÍNH SAU CAN THIỆP GIÁO DỤC 
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Dung1b, Lê Thanh Tùng1, Nguyễn Thị Thùy1b,
 Đinh Quốc Bảo1, Mai Thị Yến1b 
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
 TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức 
về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt 
tại nhà của người chăm sóc chính sau can 
thiệp giáo dục. Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Can thiệp giáo dục có so sánh 
trước sau trên 70 người chăm sóc chính tại 
Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định về kiến 
thức chăm sóc người bệnh tâm thần phân 
liệt tại nhà bằng bộ câu hỏi chuẩn bị trước 
tại 3 thời điểm: Trước can thiệp, ngay sau 
can thiệp 1 ngày và sau can thiệp 1 tháng. 
Kết quả: Trước can thiệp điểm trung bình 
kiến thức chung về chăm sóc người bệnh 
TTPL tại nhà đạt 5,33 ± 1,13 điểm (thang 
điểm 10). Sau can thiệp 1 ngày điểm trung 
bình kiến thức chung đạt 9,29 ± 0,48 điểm 
(tăng 3,96 điểm). Sau can thiệp 1 tháng 
điểm trung bình kiến thức chung có giảm 
nhưng vẫn ở mức cao 8,73 ± 0,48 (tăng 
3,4 điểm so với trước can thiệp). Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết 
luận: Kiến thức về chăm sóc người bệnh 
tâm thần phân liệt tại nhà của người chăm 
sóc chính trước can thiệp còn nhiều hạn 
chế nhưng đã được cải thiện đáng kể sau 
can thiệp. 
Từ khóa: Tâm thần phân liệt, kiến thức 
chăm sóc, người chăm sóc chính.
CHANGE IN KNOWLEDGE OF PRIMARY CAREGIVER CARE FOR 
SCHIZOPHRENIC PATIENTS AT HOME AFTER EDUCATIONAL INTERVENTION 
AT NAM DINH MENTAL HOSPITAL BY 2020
ABSTRACT
Objective: To evaluate the primary 
caregiver’s change in knowledge about 
care for schizophrenic patients at home 
after educational intervention. Method: 
Educational intervention with before 
and after comparison of over 70 primary 
caregivers at the Mental Hospital in Nam 
Dinh province on knowledge of caring 
for schizophrenic patients at home with a 
set of questions prepared in advance at 
3 times: Before intervention intervention, 
1 day after intervention and 1 month 
after intervention. Results: Before the 
intervention, the average score of general 
knowledge about caring for schizophrenia 
patients at home was 5.33 ± 1.13 points (on 
a scale of 10). After one day intervention, 
the average score of general knowledge 
was 9.29 ± 0.48 points (up 3.96 points). 
After the intervention 1 month, the average 
score of general knowledge decreased but 
remained high at 8.73 ± 0.48 (increasing 3.4 
points compared to before the intervention). 
The difference is statistically significant with 
p <0.001. Conclusion: Primary caregiver’s 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Dung
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 28/8/2020
Ngày duyệt bài: 15/9/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
30
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
knowledge about caring for schizophrenic 
patients at home before the intervention is 
still limited, but it has improved significantly 
after the intervention.
Keywords: Schizophrenia, care 
knowledge, primary caregiver.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh 
khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế 
giới. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 
bệnh TTPL chiếm khoảng từ 0,3% đến 1% 
dân số [1]. Tại Việt Nam theo điều tra dịch 
tễ lâm sàng, tỷ lệ người mắc bệnh TTPL là 
0,47% dân số [2]. 
Việc điều trị bệnh TTPL ngày nay chủ yếu 
là dựa vào cộng đồng nghĩa là người bệnh 
không cần phải nằm trong bệnh viện lâu 
dài mà có thể sinh hoạt bình thường tại gia 
đình, xã hội nhưng phải được tái khám định 
kỳ và dùng thuốc duy trì theo hướng dẫn 
của thầy thuốc [3]. Một trong những nguyên 
tắc quan trọng trong việc điều trị, chăm sóc 
bệnh TTPL là khuyến khích và hướng dẫn 
người chăm sóc chính cho người bệnh tâm 
thần phân liệt tham gia chủ động vào quá 
trình điều trị người thân mình nhằm mục 
tiêu là giảm tái phát, cải thiện các mặt chức 
năng tâm lý xã hội của người bệnh và giảm 
gánh nặng gia đình [4].
Vai trò của gia đình đối với người bệnh 
TTPL rất quan trọng. Đảng và Nhà nước ta 
cũng đã có nhiều chính sách liên quan đến 
vấn đề chăm sóc cho người bệnh tâm thần 
như: Nghị định số 136/2013/NĐ-CP của 
Chính phủ, Thông tư 115/2012/TTLT-BTC-
BLDTBXH, trong đó Quyết định số 1215/
QĐ-TTg năm 2011 của Thủ tướng Chính 
phủ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của gia 
đình trong vấn đề chăm sóc và phục hồi 
chức năng cho người bệnh tâm thần. Chủ 
đề của ngày Sức khỏe Tâm thần thế giới 
(10/10/2014) được Liên đoàn Sức khỏe 
Tâm thần Thế giới chọn là “Sống chung với 
tâm thần phân liệt”, trong đó nhấn mạnh 
đến vai trò của việc nhận thức của người 
chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt và vấn 
đề chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt 
[4, 5]. Nhưng trên thực tế nhiều trường hợp 
người nhà chưa nhận thức rõ về bệnh tâm 
thần phân liệt và tầm quan trọng của việc 
chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt 
tại nhà dẫn đến người bệnh không được 
chăm sóc cẩn thận, bỏ thuốc, bỏ nhà đi 
lang thang. Điều này là một mối nguy hiểm 
cho bản thân người bệnh tâm thần phân 
liệt, người nhà và xã hội [6].
Quá trình điều trị bệnh TTPL sẽ có 
hiệu quả hơn khi những người chăm sóc 
được trang bị kiến thức đầy đủ liên quan 
đến tâm thần phân liệt. Nếu người chăm 
sóc không có kiến thức và hỗ trợ đầy đủ, 
họ có thể không thể đảm nhận được trách 
nhiệm chăm sóc người bệnh, vì thế dẫn 
đến tình trạng tái phát nhiều hơn [7]. Do đó, 
việc nâng cao kiến thức về bệnh TTPL cho 
người chăm sóc về chăm sóc tại nhà là một 
vấn đề cấp thiết, vì vậy chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu: “Thay đổi kiến thức về chăm 
sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà 
của người chăm chính sau can thiệp giáo 
dục tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định 
năm 2020”. Với mục tiêu: Đánh giá sự thay 
đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm 
thần phân liệt tại nhà của người chăm sóc 
chính sau can thiệp giáo dục.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
70 Người chăm sóc chính của người 
bệnh tâm thần phân liệt đang điều trị tại 
bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định trong 
thời gian từ tháng 1/2020 – 5/2020. (Chúng 
tôi xác định người chăm sóc chính của 
người bệnh TTPL là thành viên trong gia 
đình người bệnh, thường xuyên trực tiếp 
đưa người bệnh đi khám bệnh định kỳ, trực 
tiếp đi lĩnh thuốc, cho người bệnh uống 
thuốc hàng ngày; có thời gian giúp người 
bệnh làm vệ sinh cá nhân hàng ngày, chịu 
trách nhiệm giám hộ cho người bệnh khi 
nằm viện, trên 18 tuổi, sống cùng nhà với 
người bệnh).
31
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.2. Thiết kế nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can 
thiệp giáo dục có so sánh trước sau tại các 
thời điểm T1, T2, T3.
Trong đó: 
T1: Đánh giá lần 1 được tiến hành ngay 
sau khi người bệnh nhập viện điều trị.
T2: Đánh giá lần 2 ngay sau khi người 
bệnh được can thiệp giáo dục (Sau lần 1 
một ngày).
T3: Đánh giá lần 3 được tiến hành sau 
can thiệp giáo dục 1 tháng (1 tháng ± 10 
ngày).
2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn 
mẫu 
Áp dụng công thức:
Trong đó:
- n là số người chăm sóc chính tham gia 
nghiên cứu.
- Z(1- α) là giá trị Z thu được từ bảng Z 
tương ứng với giá trị α. Với lực mẫu là 90% 
(β = 0,2), mức ý nghĩa 95% (α = 0,05), tương 
đương với Z(1 - α) = 1,65 và Z(1 - β) = 1,29.
- p0 là tỷ lệ người chăm sóc chính có kiến 
thức đạt trước can thiệp. Theo nghiên cứu 
của Đinh Quốc Khánh năm 2010 tỷ lệ này là 
50% [8]. Do đó chúng tôi lấy p0= 0,5.
- p1 là tỷ lệ người chăm sóc chính có kiến 
thức đạt sau can thiệp. Ước tính nghiên 
cứu của chúng tôi sau can thiệp tỷ lệ người 
chăn sóc chính có kiến thức đạt tăng lên 
20% do đó p1= 0,5 + 0,2 = 0,7.
Thay vào công thức trên tính được n = 
62. Dự phòng mất đối tượng nghiên cứu 
đánh giá sau 1 tháng chúng tôi lấy thêm 
10% cỡ mẫu, nên cỡ mẫu làm tròn là 70.
* Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu 
thuận tiện. Dựa vào tiêu chuẩn chọn mẫu, 
tiêu chuẩn loại, chúng tôi chọn đủ 70 người 
bệnh tham gia nghiên cứu thì dừng lại.
2.4. Công cụ nghiên cứu 
 Bộ công cụ nghiên cứu của chúng tôi 
tự xây dựng dựa trên: “Tài liệu hướng dẫn 
chẩn đoán, điều trị và quản lý một số rối 
loạn tâm thần tại cộng đồng” - Bệnh viện 
Tâm thần Trung ương I năm 2016 [9]; 
“Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, chăm sóc 
và quản lý người bệnh tâm thần tại cộng 
đồng” - Bộ Y Tế dự án bảo vệ sức khỏe tâm 
thần cộng đồng năm 2010 [2]; “Bệnh tâm 
thần phân liệt và những hiểu biết cơ bản 
về điều trị, chăm sóc, quản lý và phục hồi 
chức năng dựa vào cộng đồng” - Chương 
trình mục tiêu quốc gia về y tế, dự án bảo 
vệ SKTT cộng đồng năm 2012 [10].
Bộ câu hỏi nghiên cứu gồm 2 phần:
Phần 1: Thông tin cá nhân của người 
chăm sóc.
Phần 2: Kiến thức về chăm sóc người 
bệnh TTPL tại nhà của người chăm sóc 
chính. Phần này gồm 2 phần:
 + Kiến thức chung về bệnh 
 + Kiến thức về chăm sóc người bệnh 
TTPL tại nhà : Kiến thức về sử dụng thuốc; 
kiến thức xử trí và chăm sóc một số tình 
huống tại nhà; Kiến thức chăm sóc về vệ 
sinh, sinh hoạt, dinh dưỡng, giao tiếp, lao 
động tại nhà.
Bộ công cụ đã được gửi đến 3 chuyên 
gia là các bác sỹ có trình độ từ chuyên khoa 
1, thạc sỹ và có kinh nghiệm làm việc nhiều 
năm trong lĩnh chăm sóc sức khỏe tâm thần 
góp ý về sự phù hợp bộ công cụ với mục 
tiêu nghiên cứu. Thử nghiệm bộ công cụ 
được thực hiện 2 tuần trước khi tiến hành 
thu thập số liệu trên 20 NCS chính theo tiêu 
chuẩn lựa chọn (20 NCS chính này không 
tham gia vào đối tượng nghiên cứu được 
điều tra sau đó), phân tích hệ số Cronbach’s 
alpha được kết quả 0,89. 
32
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.5. Phương pháp thu thập số liệu.
Sử dụng phiếu phỏng vấn chuẩn bị trước 
phát cho NCS chính của người bệnh TTPL 
để họ tự điền với cùng một loại phiếu cho 
cả ba lần đánh giá: T1; T2; T3.
- Nội dung can thiệp: Nội dung giáo dục 
được xây dựng bao gồm các nội dung:
+ Kiến thức về bệnh TTPL: Khái niệm, 
đối tượng mắc bệnh, tuổi khởi phát 
bệnh, nguyên nhân, biểu hiện, thời gian 
điều trị.
+ Kiến thức chăm sóc người bệnh TTPL 
tại nhà: Kiến thức về sử dụng thuốc cho 
người bệnh TTPL tại nhà, kiến thức chăm 
sóc xử trí và chăm sóc một số tình huống 
tại nhà, kiến thức chăm sóc về vệ sinh, dinh 
dưỡng, phục hồi chức năng lao động và 
giao tiếp, sinh hoạt.
- Hình thức can thiệp: Truyền thông trực 
tiếp bằng tài liệu thiết kế phù hợp, tranh 
ảnh, hướng dẫn, giải đáp mọi thắc mắc cho 
người chăm sóc chính về bệnh tâm thần 
phân liệt.
- Thời gian can thiệp: 30 - 45 phút/ đối 
tượng.
2.6. Phương pháp phân tích số liệu
- Số liệu được nhập và phân tích bằng 
phần mềm SPSS 25.0.
- Đối với số liệu có phân phối chuẩn sử 
dụng Paired – Samples T Test để so sánh 
2 giá trị trung bình tại thời điểm trước và 
ngay sau can thiệp, so sánh 2 giá trị trung 
bình trước thời điểm can thiệp và sau can 
thiệp 1 tháng.
- Mọi sự khác biệt được xem là có ý 
nghĩa thống kê khi p < 0,05; với khoảng tin 
cậy 95%.
2.7. Thang đo và tiêu chuẩn đánh giá
* Thang đo: Dựa vào câu trả lời của NCS 
chính để đánh giá kiến thức của họ. Mỗi ý 
trả lời đúng của NCS chính được 1 điểm, 
trả lời không đúng hoặc không trả lời 0 điểm. 
Điểm kiến thức bằng điểm trung bình cộng 
các câu trả lời của NCS chính. Sau đó tính 
điểm dựa trên thang điểm 10. Điểm càng 
cao thì kiến thức càng tốt, và ngược lại.
Đánh giá sự thay đổi sau can thiệp so 
với trước can thiệp dựa trên mức chênh 
điểm trung bình trả lời các câu hỏi và sự 
khác biệt về tỷ lệ trả lời đúng đối với mỗi nội 
dung đánh giá.
3.KẾT QUẢ 
Bảng 1. Kiến thức về bệnh TTPL của đồi tượng nghiên cứu 
 trước và sau can thiệp (n=70)
Nội dung Điểm thấp nhất (Min)
Điểm cao 
nhất (Max)
Trung bình
(Mean ± SD)
(Thang điểm 10)
p (t-test)
Trước can thiệp (T1) 1,67 8,33 5,17 ± 1,89
p(2-1) < 0,001
p(3-1) < 0,001
Ngay sau can thiệp 
1 ngày (T2) 5,0 10 9,05 ± 1,19
Sau can thiệp 
1 tháng (T3) 6,67 10 8,21 ± 0,95
Nhận xét : Sau can thiệp điểm trung bình kiến thức về bệnh TTPL của ĐTNC tăng lên 
rõ rệt. Sau can thiệp 1 ngày điểm trung bình kiến thức của ĐTNC đạt 9,05 ± 1,19 điểm 
(tăng 3,89 điểm so với trước can thiệp). Sau can thiệp 1 tháng điểm trung bình kiến thức 
đạt 8,21 ± 0,95 điểm (tăng 3,04 điểm so với trước can thiệp). Sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001.
33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Kiến thức về sử dụng thuốc cho người bệnh tại nhà 
của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp giáo dục (n = 70)
Nội dung Thời điểm đánh giá
Trả lời đúng Giá trị p
Mcnemar - test)SL TL %
Cần đưa NB đi khám và lĩnh thuốc ít 
nhất 1 tháng/lần
T1 57 81,4
p(2-1)= 0,000
p(3-1) = 0,013T2 70 100
T3 66 94,3
Cần sử dụng thuốc đều hàng ngày 
theo đơn bác sỹ ngay cả khi hết triệu 
chứng bệnh
T1 39 55,7
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 65 92,9
T3 58 82,9
Cách đúng nhất cho NB TTPL uống 
thuốc 
T1 32 45,7
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 64 91,4
T3 49 70,0
Việc cần làm ngay sau khi NB uống 
thuốc
T1 27 38,6
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 57 81,4
T3 51 72,9
Xử lý của NCS khi NB quên uống 1 
liều thuốc
T1 29 41,4
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 58 82,9
T3 56 80,0
Xử lý khi NB gặp tác dụng phụ
T1 20 28,6
p(2-1) =0,000
p(3-1) = 0,000T2 62 88,6
T3 53 75,7
Nhận xét: Kiến thức về sử dụng thuốc của người chăm sóc chính có sự thay đổi đáng 
kể sau can thiệp.
 Trước can thiệp chỉ có 55,7% người chăm sóc chính trả lời đúng cần phải cho người 
bệnh TTPL uống thuốc đều đặn hằng ngày ngay cả khi hết triệu chứng bệnh. Sau can 
thiệp 1 ngày và 1 tháng tỷ lệ NCS chính trả lời đúng tăng lên lần lượt là 92,9 % và 82,9% 
( p < 0,001).
Trước can thiệp tỷ lệ người chăm sóc chính biết cách cho người bệnh TTPL uống thuốc 
đúng cách chỉ đạt 45,7%. Sau can thiệp 1 ngày tỷ lệ NCS chính trả lời đúng đã tăng lên 
91,4%; sau can thiệp 1 tháng tỷ lệ trả lời đúng là 70%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,001. Trước can thiệp chỉ có 28,6% NCS trả lời đúng cách xử lý khi người bệnh 
gặp tác dụng phụ của thuốc. Sau can thiệp 1 ngày tỷ lệ NCS trả lời đúng tăng lên gần 90%, 
sau 1 tháng tỷ lệ NCS trả lời đúng là 75,7 (p < 0,001).
34
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Kiến thức xử trí, chăm sóc 1 số tình huống tại nhà của ĐTNC
 trước và sau can thiệp giáo dục (n = 70)
Nội dung Thời điểm đánh giá
Trả lời đúng Giá trị p
Mcnemar - testSL TL %
Xử trí khi NB TTPL có biểu hiện tái 
phát các triệu chứng sau 1 thời gian
T1 36 51,4
p(2-1) = 0,000
p(3-1) = 0,000T2 68 97,1
T3 60 85,7
Kiểu tiếp cận phù hợp khi NB có 
hoang tưởng (ý nghĩ và hành vi bất 
thường)
T1 22 31,4
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 65 92,9
T3 44 62,9
Biện pháp đảm bảo an toàn ngăn 
ngừa thương tích khi chăm sóc NB 
TTPL
T1 44 62,9
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 69 98,6
T3 61 87,1
Xử trí khi người bệnh có ý tưởng tự 
sát
T1 42 60,0
p(2-1) =0,000
p(3-1)  ... p 1 tháng về cách xử trí khi 
NB có biểu hiện tái phát tăng từ lên 51,4% lên 85,7%. Xử trí khi NB có ý tưởng tự sát và 
khi người bệnh có hành vi kích động tại nhà đều đạt trên 90% sau can thiệp. Tỷ lệ người 
chăm sóc trả lời đúng về cách đảm bảo an toàn ngăn ngừa thương tích cho NB tại nhà 
tăng từ 62,9 lên 98,6% sau can thiệp 1 ngày và vẫn đạt ở mức khá cao 87,1% sau can 
thiệp giáo dục 1 tháng. 
Bảng 4. Khác biệt kiến thức chăm sóc về vệ sinh, dinh dưỡng, sinh hoạt, 
lao động, giao tiếp tại nhà của ĐTNC trước và sau can thiệp giáo dục (n = 70)
Nội dung Thời điểm đánh giá
Trả lời đúng Giá trị p
Mcnemar - testSL TL %
Cải thiện chức năng giao tiếp và hoạt 
động xã hội
T1 42 60,0
p(2-1)= 0,000
p(3-1) = 0,000T2 67 97,1
T3 67 95,6
Cải thiện chức năng lao động
T1 29 41,4
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 60 85,7
T3 54 77,1
Chăm sóc về sinh hoạt, vệ sinh của 
người bệnh
T1 39 55,7
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 66 94,3
T3 66 94,3
Hoạt động thể dục cần khuyến khích 
tham gia
T1 47 67,1
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,000T2 69 98,6
T3 69 98,6
Chế độ ăn phù hợp cho người bệnh 
TTPL
T1 59 85,3
p(2-1) =0,000
p(3-1) =0,02T2 70 100
T3 69 98,6
35
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Nhận xét: Sau can thiệp giáo dục, tỷ lệ người chăm sóc chính trả lời đúng về biện pháp 
cải thiện chức năng giao tiếp và hoạt động xã hội; hướng dẫn trong sinh hoạt vệ sinh hàng 
ngày cho người bệnh; khuyến kích người bệnh tham gia các bài tập thể dục nhẹ nhàng; 
chế độ ăn uống phù hợp đều đạt trên 90%. Tăng hơn đáng kể so với trước can thiệp. 
Tỷ lệ người chăm sóc trả lời đúng về cách cải thiện chức năng lao động cũng tăng 
từ 41,4% trước can thiệp lên 85,7% sau can thiệp 1 ngày và còn 77,1% sau can thiệp 1 
tháng. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Bảng 5. So sánh điểm TB kiến thức chung về chăm sóc người bệnh TTPL tại nhà 
của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp (n = 70)
Nội dung đánh giá
Thời 
điểm 
đánh giá
Điểm đạt
p (t – test)Thấp
nhất 
(Min)
Cao
nhất
(Max)
Điểm trung
bình 
(X ± SD)
Kiến thức chung về 
chăm sóc người bệnh 
TTPL tại nhà
T1 2,88 8,75 5,33±1,13
p(2-1)<0,001
p(3-1)< 0,001T2 7,89 10 9,29±0,48
T3 7,45 9,23 8,73±0,48
Nhận xét: Trước can thiệp điểm trung bình kiến thức chung về chăm sóc người bệnh 
TTPL tại nhà đạt 5,33±1,13 điểm (thang điểm 10). Sau can thiệp 1 ngày điểm trung bình 
kiến thức chung đạt 9,29±0,48 điểm (tăng 3,96 điểm). Sau can thiệp 1 tháng điểm trung 
bình kiến thức chung có giảm nhưng vẫn ở mức cao 8,73±0,48 (tăng 3,4 điểm so với 
trước can thiệp).
4. BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức về bệnh TTPL của 
người chăm sóc chính trước và sau can 
thiệp.
Kiến thức cơ bản về bệnh như bản chất 
bệnh TTPL, nguyên nhân, biểu hiện, dấu 
hiệu báo hiệu tái phát, thời gian điều trị.
là vấn đề rất quan trọng đối với người chăm 
sóc chính trong quá trình chăm sóc người 
bệnh TTPL tại nhà. Điều này giúp họ nhận 
thức đúng đắn về bệnh và định hướng trong 
việc phát hiện sớm các dấu hiệu phát bệnh, 
và phương pháp phòng tái phát trong quá 
trình chăm sóc bệnh tại nhà. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy có sự cải thiện rõ ràng về kiến 
thức bệnh TTPL của người chăm sóc chính 
sau can thiệp giáo dục. Trước can thiệp 
điểm trung bình kiến thức về bệnh của đối 
tượng nghiên cứu chỉ đạt 5,17 ± 1,89 (thang 
điểm 10). Kết quả này tương đương kết quả 
nghiên cứu của Đinh Quốc Khánh [8]. Sau 
can thiệp 1 ngày điểm trung bình kiến thức 
của ĐTNC đạt 9,05 ± 1,19 điểm (tăng 3,89 
điểm so với trước can thiệp). Sau can thiệp 
1 tháng điểm trung bình kiến thức đạt 8,21 ± 
0,95 điểm (tăng 3,04 điểm so với trước can 
thiệp). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,001. Có thể thấy đây là một 
nội dung quan trọng cần được giáo dục cho 
người chăm sóc chính.
4.2. Kiến thức về sử dụng thuốc tại 
nhà cho người bệnh TTPL của người 
chăm sóc chính trước và sau can thiệp.
Việc dùng thuốc cho người bệnh có vai 
trò rất quan trọng trong điều trị bệnh TTPL 
và ngăn ngừa tái phát. Do đặc thù của người 
bệnh TTPL cho nên việc uống thuốc của 
người bệnh phải được giám sát chặt chẽ, 
người chăm sóc phải đưa thuốc cho người 
bệnh và bảo người bệnh uống trước mặt. 
Qua khảo sát kiến thức về sử dụng 
thuốc tại nhà của người chăm sóc chính 
chúng tôi nhận thấy trước can thiệp giáo 
dục kiến thức về việc sử dụng thuốc của 
36
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
người chăm sóc chính chưa cao. Kết quả 
phân tích cho thấy trước can thiệp chỉ có 
55,7% người chăm sóc trả lời đúng là cần 
cho người bệnh uống thuốc đếu đặn hằng 
ngày tại nhà ngay cả khi hết triệu chứng 
bệnh. Vẫn còn 54,3% người chăm sóc chính 
chưa biết cách cho người bệnh TTPL uống 
thuốc đúng cách. Nghiên cứu của chúng 
tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của 
Lê Văn Cường khi khảo sát về thực trạng 
quản lý và chăm sóc người bệnh TTPL điều 
trị ngoại trú tại Nam Định cho kết quả đa 
số người chăm sóc vẫn chưa biết cách cho 
NB uống thuốc, chỉ có 45,5% người chăm 
sóc là cho NB uống thuốc đúng cách, việc 
quản lý thuốc tại nhà còn chưa chặt chẽ 
[11]. Sau khi nhận được can thiệp giáo 
dục 1 ngày 92,9% người chăm sóc chính 
nhận thức đúng cần phải cho người bệnh 
uống thuốc hàng ngày ngay cả khi hết triệu 
chứng bệnh; 91,4% người chăm sóc chính 
biết cách cho người bệnh uống thuốc đúng 
cách; 81,4% người chăm sóc nhận thức 
đúng việc cần thiết phải làm sau khi uống 
thuốc là phải kiểm tra xem người bệnh đã 
thực sự nuốt thuốc chưa. Sau can thiệp 
1 tháng tỷ lệ này có giảm hơn so với lần 
đánh giá sau can thiệp 1 ngày nhưng vẫn 
đạt mức tăng cao so với trước can thiệp 
với tỷ lệ lần lượt là 82,9% trả lời đúng cần 
phải cho người bệnh TTPL uống thuốc đều 
đặn hàng ngày ngay cả khi hết triệu chứng; 
70% biết cách cho NB tâm thần uống thuốc; 
và 72,9% nhận thức đúng về việc cần làm 
ngay sau khi cho NB uống. Sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết quả 
nghiên cứu này cho thấy hiệu quả của việc 
tư vấn giáo dục sức khỏe có ảnh hưởng lớn 
đến kiến thức về sử dụng thuốc tại nhà của 
người chăm sóc chính. Kết quả này cũng 
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Smith 
J.V, & Birchwood M.J và Koolaee A.K & 
Etemadi A là can thiệp giáo dục sẽ giúp cho 
nhận thức của người chăm sóc về thuốc 
tốt hơn [12, 13].
4.3. Kiến thức xử trí, chăm sóc 1 số 
tình huống tại nhà cho người bệnh TTPL 
của đối tượng nghiên trước và sau can 
thiệp giáo dục.
Trong chăm sóc người bệnh TTPL, việc 
người chăm sóc biết cách xử trí những tình 
huống tại nhà như những bất thường về 
hành vi, những kích động, hoang tưởng, ý 
tưởng và hành vi tự sát. là rất cần thiết 
để tránh được những nguy hiểm cho chính 
bản thân người bệnh và những người xung 
quanh NB, và đem lại những hiệu quả nhất 
định trong công tác điều trị và chăm sóc 
người bệnh. Điều này đòi hỏi người chăm 
sóc phải có những kiến thức nhất định về 
vấn đề này. 
Sau can thiệp giáo dục, kiến thức về 
xử trí, chăm sóc 1 số tình huống tại nhà 
cho người bệnh TTPL của người chăm sóc 
chính trước và sau can thiệp giáo dục có 
sự thay đổi rõ rệt. Tỷ lệ NCS chính trả lời 
đúng ở tất cả các câu hỏi đều tăng sau can 
thiệp giáo dục 1 ngày và 1 tháng. Các sự 
khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p 
< 0,001. Tỷ lệ người chăm sóc trả lời đúng 
sau can thiệp 1 tháng về cách xử trí khi NB 
có biểu hiện tái phát tăng từ lên 51,4% lên 
85,7%. Xử trí khi NB có ý tưởng tự sát và 
khi người bệnh có hành vi kích động tại nhà 
đều đạt trên 90% sau can thiệp. Tỷ lệ người 
chăm sóc trả lời đúng về cách đảm bảo an 
toàn ngăn ngừa thương tích cho NB tại nhà 
tăng từ 62,9 lên 98,6% sau can thiệp 1 ngày 
và vẫn đạt ở mức khá cao 87,1% sau can 
thiệp giáo dục 1 tháng. Sau can thiệp kiến 
thức về cách tiếp cận khi người bệnh có 
hoang tưởng (ý nghĩ và hành vi bất thường) 
có tăng lên từ 31,4% người trả lời đúng lên 
92,9% sau can thiệp 1 ngày, tuy nhiên mức 
tăng này bị giảm xuống chỉ còn 62,9% sau 
can thiệp 1 tháng. Điều này cho thấy việc 
can thiệp giáo dục để hướng dẫn cho người 
chăm sóc chính về cách xử trí và chăm sóc 
một số tính huống đem lại hiệu quả rất tích 
cực. Kết quả này của chúng tôi cũng tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của Koolaee 
37
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
A.K & Etemadi A là kỹ năng chăm sóc sẽ tốt 
lên, người chăm sóc sẽ đối phó tốt và quản 
lý tốt các hành vi của người bệnh khi nhận 
được can thiệp giáo dục [12].
4.4. Kiến thức chăm sóc về vệ sinh, 
dinh dưỡng, sinh hoạt, lao động, giao 
tiếp tại nhà cho người bệnh TTPL của 
ĐTNC trước và sau can thiệp.
Chăm sóc người bệnh TTPL tại nhà 
không phải chỉ dừng lại ở việc người chăm 
sóc đã cho NB uống thuốc đúng, đủ, đều 
đặn hằng ngày theo chỉ định của bác sĩ hay 
chưa mà người bệnh TTPL còn cần được 
hỗ trợ trong việc ăn uống, vệ sinh cá nhân 
để tránh bị mọi người xung quanh kỳ thị 
về vẻ bề ngoài của người bệnh. Ngoài ra 
một nội dung cũng rất quan trọng là phục 
hồi các chức năng tâm lý-xã hội cho bệnh 
nhân, hỗ trợ bệnh nhân trong các hoạt động 
lao động để bệnh nhân có thể tái hòa nhập 
cộng đồng một cách tốt nhất. 
Có thể thấy thông qua GDSK kiến thức 
của người chăm sóc chính về chế độ vệ 
sinh, lao động, dinh dưỡng, giao tiếp, thể 
dục thể thao cho người bệnh tại gia đình đã 
có sự cải thiện rõ ràng. Sau can thiệp giáo 
dục, tỷ lệ người chăm sóc chính trả lời đúng 
về biện pháp cải thiện chức năng giao tiếp 
và hoạt động xã hội; hướng dẫn trong sinh 
hoạt vệ sinh hàng ngày cho người bệnh; 
khuyến kích người bệnh tham gia các bài 
tập thể dục nhẹ nhàng; chế độ ăn uống phù 
hợp đều đạt trên 90% ở cả 2 thời điểm sau 
can thiệp 1 ngày và 2 tháng, cao hơn nhiều 
so với trước can thiệp. Tỷ lệ người chăm 
sóc trả lời đúng về cách cải thiện chức năng 
lao động cũng tăng từ 41,4% trước can 
thiệp lên 85,7% sau can thiệp 1 ngày và còn 
77,1% sau can thiệp 1 tháng. Sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
4.5. Kiến thức chung chăm sóc về chăm 
sóc người bệnh TTPL tại nhà của người 
chăm sóc chính trước và sau can thiệp.
Bảng 5 cho thấy trước can thiệp điểm 
trung bình kiến thức chung về chăm sóc 
người bệnh TTPL tại nhà đạt của người 
chăm sóc chính đạt 5,33±1,13 điểm (thang 
điểm 10). Sau can thiệp 1 ngày điểm trung 
bình kiến thức chung đạt 9,29±0,48 điểm 
(tăng 3,96 điểm). Sau can thiệp 1 tháng 
điểm trung bình kiến thức chung có giảm 
nhưng vẫn ở mức cao 8,73±0,48 (tăng 3.4 
điểm so với trước can thiệp với p <0,001. 
Điều này một lần nữa cho thấy hiệu quả 
của việc giáo dục sức khỏe về kiến thức 
chăm sóc người bệnh TTPL tại nhà cho 
người chăm sóc chính.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức về chăm sóc người bệnh TTPL 
tại nhà của người chăm sóc chính sau khi 
nhận được can thiệp có sự gia tăng đáng 
kể, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
< 0,001. Sau can thiệp 1 ngày điểm trung 
bình kiến thức chung là 9,29 ± 2,88 điểm; 
Sau can thiệp 1 tháng điểm trung bình kiến 
thức chung là 8,73 ± 0,48 điểm.
 Như vậy có thể thấy giáo dục sức khỏe 
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng 
cao kiến thức về chăm sóc người bệnh 
TTPL tại nhà cho người chăm sóc chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Tuấn Anh (2017). Bài giảng 
chăm sóc sức khỏe tâm thần. Trường Đại 
học Điều dưỡng Nam Định.
2. Thân Văn Quang (2010). Tài liệu 
hướng dẫn chẩn đoán, chăm sóc và quản 
lý người bệnh tâm thần tại cộng đồng. Nhà 
xuất bản Lao động.
3. Bùi Quang Huy (2012). Giáo trình 
điều dưỡng tâm thần. Nhà xuất bản Quân 
Đội, 48-51.
4. Federation for Mental Health 
World (2014), Living with Schizophrenia. 
Occoquan, VA 22125 USA.
5. Patterson J.E, Edwards T.M, Vakili 
S (2018). Global mental health: A call for 
increased awareness and action for family 
therapists. Family process, 57(1), 70-82.
6. Levey S, Howells K, Levey S (1995). 
Dangerousness, unpredictability and the 
fear of people with schizophrenia. Journal 
of Forensic Psychiatry, 6(1), 19-39. 
38
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
7. Daltio C, Attux C, Ferraz M et al 
(2015) . Knowledge in schizophrenia: The 
Portuguese version of KAST (Knowledge 
About Schizophrenia Test) and analysis 
of social-demographic and clinical factors’ 
influence. Schizophrenia research, 168(1-
2), 168-173.
8. Đinh Quốc Khánh (2010). Kiến 
thức-thái độ-thực hành của người chăm 
sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt 
tại nhà và một số yếu tố liên quan ở huyện 
Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, năm 2010. Luận 
văn thạc sỹ Y tế Công cộng, Đai học Y tế 
Công cộng
9. Bệnh viện Tâm thần Trung ương I 
(2016). Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và 
quản lý một số rối loạn tâm thần tại cộng 
đồng. Hà Nội - 2016.
10. Nguyễn Viết Thiêm (2012). Bệnh 
Tâm thần phân liệt những hiểu biết cơ bản 
về điều tri, chăm sóc, quản lý và phục hồi 
chức năng dựa vào cộng đồng. Chương 
trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe tâm 
thần cộng đồng, Hà Nội.
11. Lê Văn Cường (2018). Thực trạng 
quản lý và chăm sóc người bệnh TTPL điều 
trị ngoại trú tại Nam Định. Luận văn Thạc sỹ 
Điều dưỡng, Trường Đại học Điều dưỡng 
Nam Định.
12. Koolaee A.K & Etemadi A (2010). 
The outcome of family interventions for the 
mothers of schizophrenia patients in Iran. 
International Journal of Social Psychiatry, 
56(6), 634-646
13. Smith J.V, & Birchwood M.J 
(1987). Specific and non-specific effects of 
educational intervention with families living 
with a schizophrenic relative. The British 
Journal of Psychiatry, 150(5), 645-652.
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SONDE JJ ĐẾN NGƯỜI BỆNH SAU TÁN SỎI NIỆU 
QUẢN NỘI SOI NGƯỢC DÒNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Đỗ Thu Tình1b, Trần Văn Long1, Vũ Mạnh Độ1
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Nguyễn Thị Thùy1b 
1Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá những tác động không 
mong muốn của sonde JJ đến người bệnh 
sau tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả được thực hiện trên 102 
người bệnh tán sỏi niệu quản nội soi ngược 
dòng có đặt sonde JJ. Bộ câu hỏi USSQ 
(Ureteral Stent Symptom Questionnaire) 
được sử dụng để đánh giá triệu chứng tiết 
niệu và đau thực thể tại thời điểm 4 tuần 
sau khi người bệnh đặt sonde JJ. Kết quả: 
Điểm trung bình triệu chứng tiết niệu 28,62 
± 5,87 (tổng 54 điểm ). Có tới 87,3% người 
bệnh có biểu hiện đái máu từ mức độ thỉnh 
thoảng đến mức thông thường. Điểm trung 
bình đau thực thể 18,36 ± 3,44 (tổng 27 
điểm ), hầu hết người bệnh có cảm giác 
đau sau khi đặt sonde JJ (94,1%), vị trí đau 
hay gặp nhất là vùng thận sau chiếm tới 
60,8%. Kết luận: Sonde JJ sau tán sỏi niệu 
quản nội soi ngược dòng là nguyên nhân 
của nhiều tác dụng không mong muốn, nó 
ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng chung và 
chất lượng cuộc sống của người bệnh. 
Từ khóa: Sonde JJ, tán sỏi niệu quản 
nội soi ngược dòng.
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Thu Tình
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 28/8/2020
Ngày duyệt bài: 15/9/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_ve_cham_soc_nguoi_benh_tam_than_phan_liet.pdf