Thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện nhi Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ 6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu gồm 75 bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước – sau giáo dục sức khỏe trên cùng một nhóm đối tượng. Kết quả: Điểm trung bình kiến thức của bà mẹ trước can thiệp là 13,0 ± 4,7 sau can thiệp đã tăng lên thành 16,5 ± 2,9, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.="" trước="" can="" thiệp="" có="" 57,3%="" bà="" mẹ="" có="" điểm="" kiến="" thức="" đạt,="" sau="" can="" thiệp="" tỷ="" lệ="" này="" là="" 96%.="" nghiên="" cứu="" cho="" thấy="" hiệu="" quả="" của="" can="" thiệp="" giáo="" dục="" sức="" khỏe="" đã="" nâng="" cao="" kiến="" thức="" chăm="" sóc="" dinh="" dưỡng="" của="" bà="" mẹ="" cho="" trẻ="" nhiễm="" khuẩn="" hô="" hấp="" cấp="" tính.="" kết="" luận:="" kiến="" thức="" chăm="" sóc="" dinh="" dưỡng="" của="" bà="" mẹ="" có="" con="" 6="" -="" 24="" tháng="" trước="" can="" thiệp="" tương="" đối="" thấp="" và="" sau="" can="" thiệp="" đã="" có="" sự="" cải="" thiện="" rõ="">

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện nhi Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện nhi Nam Định năm 2020

Thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện nhi Nam Định năm 2020
176
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC CHĂM SÓC DINH DƯỠNG CỦA BÀ MẸ CÓ CON 6-24 THÁNG 
MẮC NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH TẠI BỆNH VIỆN NHI NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Lý1b, Đinh Thị Thu Huyền1, Đặng Thị Hân1,
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Mai Thị Yến1b
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức 
của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ 
6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp 
cấp tính điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam 
Định sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối 
tượng nghiên cứu gồm 75 bà mẹ có con từ 
6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp 
cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. 
Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước – 
sau giáo dục sức khỏe trên cùng một nhóm 
đối tượng. Kết quả: Điểm trung bình kiến 
thức của bà mẹ trước can thiệp là 13,0 ± 
4,7 sau can thiệp đã tăng lên thành 16,5 ± 
2,9, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
< 0,05. Trước can thiệp có 57,3% bà mẹ có 
điểm kiến thức đạt, sau can thiệp tỷ lệ này 
là 96%. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của 
can thiệp giáo dục sức khỏe đã nâng cao 
kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ 
cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Kết 
luận: Kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của 
bà mẹ có con 6 - 24 tháng trước can thiệp 
tương đối thấp và sau can thiệp đã có sự 
cải thiện rõ rệt.
Từ khóa: Bà mẹ, kiến thức dinh dưỡng, 
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
IMPROVE KNOWLEDGE OF WOMEN WHO HAVE 6-24 MONTHS BABIES WITH 
ACUTE RESPIRATORY INFECTIONS AT NAM DINH CHILDREN’S HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT 
Objective: To assess the change of 
mothers’ knowledge about nutritional 
care for children 6-24 months old with 
acute respiratory infections at Nam 
Dinh Children’s Hospital after health 
education intervention. Method: Study 
subjects include 75 mothers with children 
6-24 months old with ARIs at Nam Dinh 
Children’s Hospital. Intervention study, 
comparing before and after health 
education in the same group of subjects. 
Results: The mean pre-intervention 
knowledge score was 13.0 ± 4.7 after the 
intervention increased to 16.5 ± 2.9, the 
difference was statistically significant with 
p <0.05. Before the intervention, 57.3% 
of mothers achieved knowledge points, 
after the intervention this rate was 96%. 
Research shows that the effectiveness 
of health education interventions has 
improved mothers’ knowledge of nutritional 
care so that children with acute respiratory 
infections have better nutritional care. 
Conclusion: Knowledge of nutritional 
care of mothers with children 6 - 24 
months before intervention is relatively low 
and after intervention, there is a marked 
improvement.
Keywords: Mother, Nutrition Knowledge, 
acute respiratory infections.
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Lý
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 15/10/2020
Ngày duyệt bài: 26/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
177
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng là yếu tố môi trường rất 
quan trọng đối với sức khỏe, thể lực và 
trí tuệ của con người. 1000 ngày đầu đời 
được xác định từ khi bà mẹ bắt đầu mang 
thai cho tới khi trẻ được 2 tuổi, là thời gian 
bản lề duy nhất tạo nền móng tối ưu cho 
sự tăng trưởng, phát triển trí não và sức 
khỏe suốt cuộc đời [1]. Khi trẻ mắc các 
bệnh, nhất là các bệnh nhiễm khuẩn như 
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) 
dinh dưỡng càng có vai trò quan trọng hơn 
vì: Có mối liên quan giữa nhiễm khuẩn hô 
hấp cấp tính và suy dinh dưỡng: Suy dinh 
dưỡng làm cho tình trạng nhiễm khuẩn 
nặng hơn, dễ gây tử vong hơn và ngược 
lại khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính 
dễ bị suy dinh dưỡng hơn [2]. Kiến thức về 
dinh dưỡng của bà mẹ đóng vai trò quan 
trọng trong việc phòng bệnh cũng như 
chóng khỏi bệnh, giảm mức độ nặng của 
bệnh và trẻ phục hồi nhanh hơn [3]. Tuy 
nhiên, kết quả một số nghiên cứu gần đây 
cho thấy thực trạng kiến thức của bà mẹ 
về dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT còn thấp 
[4] và một số nghiên cứu đã chỉ ra hiệu quả 
của can thiệp giáo dục dinh dưỡng làm thay 
đổi kiến thức về chăm sóc dinh dưỡng cho 
các bà mẹ [4, 5].
 Để có bằng chứng khoa học phục vụ cho 
công tác chăm sóc bệnh nhi và có cơ sở đề 
xuất phù hợp với công tác tư vấn GDSK, 
nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài: “Thay 
đổi kiến thức của bà mẹ về chăm sóc dinh 
dưỡng cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT 
điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định 
năm 2020”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bà mẹ có con từ 6-24 tháng 
mắc NKHHCT điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh 
Nam Định.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Hô hấp, 
Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định.
- Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 
12/2019 đến tháng 3/2020.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp trên 1 nhóm có 
đánh giá trước và sau can thiệp.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
* Cỡ mẫu:
n = Z2(α, β) 
p1 ( 1 – p1) + p2 (1- p2)
(p1 – p2)
2
n là số bà mẹ tham gia nghiên cứu α là 
xác suất sai lầm loại 1.
β là xác xuất sai lầm loại 2.
 Z2(α, β): Tra từ bảng Z tương ứng với giá 
trị α = 0,05 và β = 0,10 thì Z2(α, β) = 10,5.
p1 là tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về 
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT tại 
quần thể trước can thiệp, theo nghiên cứu 
thử trên 30 bà mẹ thì tỷ lệ này là 50%.
p2 là tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về 
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT 
tại quần thể mong đợi sau can thiệp, ước 
lượng 76%.
Áp dụng công thức trên nhóm nghiên 
cứu tính ra được cỡ mẫu là 68 bà mẹ , đề 
phòng mất số liệu nhóm nghiên cứu lấy 
thêm 10%. Như vậy cỡ mẫu là 75 bà mẹ.
Phương pháp chọn mẫu: Sử dụng 
phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm 
SPSS 20.0.
Kiểm định sự khác biệt các tỷ lệ sử dụng 
test: McNemar test, Pair t test.
 2.6. Bộ công cụ đánh giá 
Công cụ thu thập số liệu được xây dựng 
dựa trên tài liệu: Nuôi dưỡng trẻ nhỏ - dành 
cho đối tượng cán bộ y tế công tác trong 
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em 
tại các tuyến [3], tài liệu hướng dẫn xử trí 
lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh của Bộ y tế 
năm 2019 [6], gồm 2 phần:
Phần A: Thông tin chung về đối tượng 
nghiên cứu: gồm 12 câu hỏi được đánh số 
từ A1 đến A12.
178
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Phần B: Đánh giá kiến thức của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT gồm 
14 câu hỏi lựa chọn, được đánh số từ B1 đến B14. Bao gồm 3 nội dung: kiến thức của 
bà mẹ về bệnh NKHHCT từ câu B1 đến câu B3, kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho 
trẻ 6-24 tháng từ câu B4 đến câu B10, kiến thức chăm sóc dinh dưỡng trẻ mắc NKHHCT 
từ câu B11 đến câu B14. Bà mẹ tham gia trả lời phỏng vấn với mỗi ý trả lời đúng được 1 
điểm, trả lời sai hoặc không biết là 0 điểm. Sau đó tính tổng điểm kiến thức của bà mẹ đạt 
được và lấy điểm cut off 50% để phân loại kiến thức của bà mẹ. Tổng số điểm là 23 điểm. 
Bà mẹ có điểm kiến thức ≥ 50% tổng số điểm thì được xếp vào nhóm có kiến thức mức 
độ đạt và ngược lại các bà mẹ có điểm kiến thức < 50 tổng số điểm thì được đánh giá là 
kiến thức mức độ chưa đạt.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n =75)
Thông tin SL TL %
Nhóm tuổi
≤ 25 26 34,7
26 – 35 41 54,7
>35 tuổi 8 10,7
Trình độ 
học vấn
Tiểu học trở xuống 6 8,0
Trung học cơ sở 27 36,0
Trung học PT 23 30,7
Trung cấp trở lên 19 25,3
Từ kết quả trên cho thấy đa số các bà mẹ tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi từ 26 
đến 35 tuổi (54,7%). Phần lớn các bà mẹ có trình độ học vấn là trung học cơ sở và trung 
học phổ thông. 
Bảng 2. Các đặc điểm về thông tin giáo dục sức khỏe (n=75)
Đặc điểm SL TL %
Nhận được tư vấn
Có 28 37,3
Không 47 62,7
Nguồn thông tin nhận được 
từ
PTTT / sách báo 19 25,3
Bạn bè/ người thân 9 12,0
Không nhận được 
thông tin 47 62,7
Bà mẹ mong muốn nhận 
thông tin từ nguồn
PTTT / sách báo 15 20,0
Bạn bè/ 
người thân 7 9,3
Nhân viên y tế 53 70,7
Phần lớn các bà mẹ không nhận được thông tin tư vấn về bệnh, chăm sóc dinh dưỡng 
cho trẻ khi trẻ bị bệnh (62,7%). Trong đó nguồn thông tin bà mẹ nhận được chủ yếu từ 
sách, báo. Tuy nhiên rất nhiều bà mẹ có mong muốn nhận được những thông tin này từ 
nhân viên y tế (70,7%).
179
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.2. Kiến thức của mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT trước và 
sau can thiệp
Bảng 3. Kiến thức của mẹ về bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của mẹ 
trước và sau giáo dục sức khỏe (n= 75)
Kiến thức của bà mẹ về NKHHCT
Trước GDSK Sau GDSK
pĐúng Đúng
SL TL % SL TL %
Định nghĩa 10 13,3 23 30,7 0,001
Yếu tố nguy cơ
Ô nhiễm không khí 16 78,7 75 100 0,001
Dinh dưỡng và vệ sinh kém 29 38,7 49 65,3 0,001
Khói thuốc lá 61 81,3 71 94,7 0,02
Nuôi dưỡng hoàn toàn bằng sữa mẹ 66 88,0 66 88,0 >0,05
Dấu hiệu sớm bệnh 37 49,3 55 73,3 0,001
* McNemar test
Trước can thiệp chỉ có 38,7% bà mẹ trả lời đúng khi cho rằng dinh dưỡng và vệ sinh 
kém là yếu tố nguy cơ của bệnh NKHHCT thì sau can thiệp đã tăng lên thành 65,3% bà 
mẹ trả lời đúng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Bảng 4. Kiến thức của mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng
 trước và sau giáo dục sức khỏe (n=75)
Kiến thức của mẹ
Trước GDSK Sau GDSK
pĐúng Đúng
SL TL % SL TL %
Thời gian mẹ nên cho trẻ bú 15 20,0 40 53,3 0,001
Thời điểm cai sữa cho trẻ 25 33,3 57 76,0 0,001
Thời điểm trẻ cần ăn bổ sung 21 28,0 28 37,3 >0,05
Lý do cần cho trẻ ăn bổ sung 18 24,0 34 45,3 0,001
Nguyên tắc cho ăn bổ sung 31 41,3 50 66,7 0,001
Loại thực phẩm cần dùng
Tinh bột: khoai, gạo, mỳ, 75 100 75 100 >0,05
Đạm: thịt, cá, trứng, .. 75 100 75 100 >0,05
Rau xanh, trái cây 43 57,3 73 97,3 0,001
Mỡ hoặc dầu ăn 34 45,3 60 80,0 0,001
Gia vị: hành, tỏi,..,.. 22 29,3 50 66,7 >0,05
Hoạt động cần tránh khi cho trẻ ăn
Cho trẻ xem điện thoại 58 77,3 70 93,3 0,001
Cổ vũ trẻ ăn, nói lời động viên trẻ,.. 46 61,3 33 44,0 > 0,05
Đưa trẻ đi ăn dong 41 54,7 60 80,0 0,001
Cho trẻ vừa ăn vừa chơi đồ chơi 22 29,3 45 60,0 0,001
* McNemar test
Bảng 4 cho thấy sau can thiệp, kiến thức thay đổi nhiều nhất là nhận biết về thời điểm 
nên cai sữa cho trẻ (33,3% - 76,0%). Đặc biệt là kiến thức về hoạt động cần tránh khi cho 
trẻ ăn thay đổi ít, trong đó số bà mẹ cho là cần tránh động viên trẻ ăn trước can thiệp cao 
hơn sau can thiệp (61,3% - 44,0%) với p < 0,05.
180
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 5. Kiến thức của mẹ về dinh dưỡng cho trẻ mắc 
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (n=75)
Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng 
cho trẻ NKHHCT
Trước GDSK Sau GDSK 
pĐúng Đúng
SL TL % SL TL %
Trẻ NKHHCT có nên tiếp tục bú mẹ 66 88,0 67 89,3 >0,05
Trẻ NKHHCT nên được bú mẹ nhiều hơn 14 18,7 30 40,0 0,001
Thức ăn cho trẻ mắc NKHHCT hợp lý 16 21,3 23 30,7 0,03
Dinh dưỡng sau khi trẻ khỏi bệnh 15 20,0 48 64,0 0,001
* McNemar test
Sau can thiệp kiến thức thay đổi nhiều nhất là chế độ dinh dưỡng sau khi trẻ khỏi bệnh 
với trước can thiệp là 20% và sau can thiệp tăng lên thành 64%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p <0,05.
Bảng 6. Sự thay đổi về điểm kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 
tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính sau can thiệp (n=75).
Kiến thức Trước can thiệp Sau can thiệp p
Về bệnh NKHHCT 3,5 ± 1,1 4,5 ± 1,0 0,001
Nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ 6-24 tháng 0,5± 0,7 1,3 ± 0,6 0,001
Ăn bổ sung cho trẻ 6-24 tháng 6,5 ± 1,8 8,5 ± 1,4 0,001
Nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ NKHHCT 1,1 ± 0,5 1,3 ± 0,6 0,001
Ăn bổ sung cho trẻ NKHHCT 0,4 ± 0,6 0,9 ± 0,7 0,001
Trung bình (X±SD) 13,0 ± 4,7 16,5 ± 2,9 0,001
* Pair t test
 Bảng 6 cho thấy kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ mắc NKHHCT trước và 
sau can thiệp có sự thay đổi rõ rệt. Trong đó kiến thức cho trẻ 6-24 tháng ăn bổ sung là 
kiến thức thay đổi nhiều nhất với điểm trung bình trước can thiệp là 6,5 ± 1,8 và sau can 
thiệp tăng lên thành 8,5 ± 1,4 sự thay đổi có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Biểu đồ 1. Thay đổi kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp 
cấp tính sau giáo dục sức khỏe (n=75)
57.3
42.7
96
4
0
20
40
60
80
100
Đạt Không đạt
Trước can thiệp
Sau can thiệp
181
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Sau can thiệp các bà mẹ có kiến thức đạt 
tăng từ 57,3% lên 96%. Kết quả trên cho 
thấy kiến thức của các bà mẹ về NKHHCT 
được cải thiện sau can thiệp giáo dục.
4. BÀN LUẬN
Sau can thiệp kiến thức của mẹ bề bệnh 
NKHHCT có sự cải thiện rõ rệt với điểm 
trung bình kiến thức tăng từ 3,5 ± 1,1 trước 
can thiệp lên 4,5 ± 1,0 sau can thiệp. Trong 
đó tăng nhiều nhất là kiến thức về yếu tố 
dinh dưỡng và vệ sinh kém là yếu tố nguy 
cơ của NKHHCT, trước can thiệp chỉ có 
38,7% bà mẹ cho rằng dinh dưỡng và vệ 
sinh kém là yếu tố nguy cơ của NKHHCT 
thì sau can thiệp đã tăng lên thành 63,5%. 
NKHHCT là một thuật ngữ tương đối khó 
hiểu và mới lạ với các bà mẹ, vì vậy chỉ 
có 13,3% bà mẹ trả lời đúng về khái niệm 
này và sau can thiệp số bà mẹ biết đúng về 
khái niệm này đã tăng lên đạt 30,7%. Kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Kumar R năm 2012 với 28% bà mẹ biết 
đúng về nguyên nhân và các yếu tố nguy 
cơ của NKHHCT, sự khác biệt này là do 
tình trạng kinh tế - xã hội và trình độ học 
vấn, trong nghiên cứu của Kumar các bà 
mẹ sống ở vùng có điều kiện kinh tế nghèo 
và trình độ học vấn của còn thấp nên có sự 
thiếu hụt kiến thức về bệnh NKHHCT nhiều 
hơn [7]. 
 Từ 6 tháng trở đi sữa mẹ sẽ không thể 
đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng ngày 
càng tăng lên theo sự phát triển của trẻ, 
vì vậy ngoài sữa mẹ trẻ cần được ăn bổ 
sung, đây là lý do cần cho trẻ ăn bổ sung 
khi trẻ tròn 6 tháng tuổi, thế nhưng trước 
can thiệp có tới 58,7% bà mẹ không biết 
điều này và tỷ lệ này sau can thiệp giảm 
còn 33,3%, kết quả này tương tự như 
nghiên cứu của Nguyễn Anh Vũ (2017) 
với 68,5% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn 
bổ sung từ 6 tháng tuổi, tuy nhiên tỷ lệ trẻ 
được ăn bổ sung đúng thời điểm chỉ đạt 
19,4%, còn lại có tới 80% số trẻ được ăn 
sớm và 0,6% số trẻ được ăn muộn hơn so 
với thời điểm khuyến cáo [8]. Theo khuyến 
nghị của WHO, bên cạnh việc thực hành ăn 
bổ sung đúng thời điểm thì bữa ăn bổ sung 
của trẻ cũng phải đảm bảo sự đa dạng đáp 
ứng được nhu cầu năng lượng hàng ngày 
cũng như các nhu cầu về các chất dinh 
dưỡng có trong thức ăn bổ sung. Tuy vậy 
thực hành ăn bổ sung cho trẻ của các bà 
mẹ vẫn chưa đúng theo như khuyến cáo. 
Trong nghiên cứu 100% bà mẹ đã biết trẻ 
ăn bổ sung cần được cung cấp tinh bột và 
đạm, nhưng việc cho trẻ ăn thêm rau xanh 
và trái cây không phải bà mẹ nào cũng 
biết và đồng ý, cụ thể là trước can thiệp có 
57,3% bà mẹ biết cần cho trẻ bổ sung rau 
và trái cây, sau khi được tư vấn đã tăng 
lên 97,3%. Điều này cho thấy hiệu quả của 
tư vấn giáo dục sức khỏe đã thay đổi kiến 
thức của bà mẹ, từ thay đổi kiến thức bà 
mẹ sẽ có những thay đổi trong thực hành 
chăm sóc trẻ bệnh.
Khi cho trẻ ăn cần tránh cho trẻ xem 
điện thoại, vừa ăn vừa đi dong và chơi đồ 
chơi vì sẽ làm trẻ không cảm thấy vị ngon 
của đồ ăn, đồng thời sẽ tạo thói quen không 
tốt cho trẻ, những lần sau cứ đến bữa ăn 
trẻ sẽ yêu cầu lặp lại việc đó, cần nói lời 
động viên khích lệ hoặc làm mẫu như há 
miệng, nói A để khuyến khích trẻ ăn [1]. 
Trước can thiệp vẫn còn 45,3 % bà mẹ cho 
trẻ ăn dong và 70,7% bà mẹ cho trẻ vừa ăn 
vừa chơi đồ chơi, con số này đã giảm sau 
can thiệp tương ứng là 20% và 40%. Kết 
quả này thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn 
Thị Thanh Huyền với tỷ lệ bà mẹ có kiến 
thức đúng khi cho trẻ ăn phải khuyến khích 
trẻ ăn, không nên ép trẻ, trước giáo dục là 
78,5%, đánh giá ngay sau khi giáo dục là 
88,8% và sau giáo dục một tháng là 80,4% 
[4].
Kiến thức của bà mẹ về chăm sóc dinh 
dưỡng cho trẻ NKHHCT sau can thiệp có 
sự cải thiện, kiến thức thay đổi nhiều nhất 
là kiến thức về dinh dưỡng sau khi trẻ khỏi 
bệnh, sau can thiệp đa số các bà mẹ (64%) 
đã biết cần cho trẻ ăn thức ăn đa dạng, 
mềm và giàu chất dinh dưỡng trong khi tỷ 
182
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
lệ này trước can thiệp là 20%, kiến thức 
thay đổi ít nhất là kiến thức nuôi con bằng 
sữa mẹ, trước can thiệp có 88% bà mẹ cho 
rằng trẻ NKHHCT nên được tiếp tục bú mẹ 
thì sau can thiệp chỉ tăng lên thành 89,3%. 
Trước can thiệp có 21,3% bà mẹ biết cần 
cho trẻ bị bệnh ăn loãng hơn và chia thành 
nhiều bữa trong ngày và sau can thiệp tỷ lệ 
này là 30,7%. Kết quả này thấp hơn trong 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Hiếu với 
số bà mẹ cho rằng cần ăn đầy đủ chất dinh 
dưỡng khi mắc bệnh và chia thành nhiều 
bữa trong ngày là 59,1% trước can thiệp và 
79,7% sau can thiệp [9] . Sự khác biệt này 
có thể là do đối tượng trong nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Minh Hiếu có trình độ học vấn 
cao hơn, theo một số nghiên cứu cho thấy 
trình độ học vấn có liên quan đến kiến thức 
của bà mẹ.
Như vậy, điểm trung bình kiến thức về 
dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT đã có sự thay 
đổi tích cực, trước can thiệp điểm ttrung 
bình kiến thức là 13,0 ± 4,7 và sau can 
thiệp đã tăng lên 16,5 ± 2,9, trước can thiệp 
chỉ có 57,3% bà mẹ có kiến thức đạt thì sau 
can thiệp tỷ lệ này đã tăng lên thành 96%. 
Điều này cho thấy hiệu quả của can thiệp 
GDSK và công tác GDSK cần được khuyến 
khích đẩy mạnh hơn nữa vì những ý nghĩa 
mà nó mang lại.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà 
mẹ có con 6-24 tháng mắc NKHHCT trước 
can thiệp tương đối thấp và sau can thiệp 
đã được nâng cao rõ rệt. Bà mẹ có điểm 
trung bình trước can thiệp là 13 ± 4,7, sau 
can thiệp đã tăng lên thành 16,5 ± 2,9 và 
trước can thiệp chỉ có 57,3% bà mẹ có kiến 
thức đạt thì sau can thiệp tỷ lệ này đã tăng 
lên thành 96%.
Cần có những tư vấn giáo dục đặc biệt 
là giáo dục dinh dưỡng để cải thiện kiến 
thức chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ. 
Cần có nghiên cứu sâu hơn với cỡ mẫu 
lớn hơn về vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện dinh dưỡng (2017). Khuyến nghị 
dinh dưỡng trong 1000 ngày vàng. Nhà 
xuất bản Y học Hà Nội.
2. Lê Văn An (2008). Chăm sóc trẻ 
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Điều dưỡng 
Nhi, NXB Y học, Hà Nội, 166-174.
3. Trương Thị Tân (2015). Nuôi dưỡng 
trẻ nhỏ - Tài liệu dùng cho Cán bộ Y tế công 
tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà 
mẹ trẻ em tại các tuyến, Bộ Y tế, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017). 
Thay đổi nhận thức của bà mẹ về chế độ ăn 
cho con dưới 24 tháng tuổi tại huyện Thạch 
Hà tỉnh Hà Tĩnh năm 2017 sau giáo dục 
dinh dưỡng, Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, 
Đại học Điều dưỡng Nam Định.
5. Đỗ Thị Hòa (2017). Thay đổi kiến thức 
và thái độ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính 
sau giáo dục sức khỏe của các bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh 
Nam Định, Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, 
Đại học Điều dưỡng Nam Định.
6. Bộ Y tế (2019). Hướng dẫn xửu trí 
lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh, Nhà xuất bản 
y học, Hà Nội.
7. Kumar R et al (2012). Knowledge, 
Attitude and Practice about Acute 
Respiratory Infection among the mothers of 
under five children attending civil hospital, 
Mithi, Tharparkar Desert. Primary Health 
Care, 2(108), 2167-1079.
8. Nguyễn Anh Vũ (2017). Hiệu quả bổ 
sung thực phẩm sẵn có đến tình trạng suy 
dinh dưỡng thấp còi ở trẻ 12 - 23 tháng tuổi 
huyện Tiên Lữ - Hưng Yên, Luận án tiến sĩ 
dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng Quốc gia.
9. Nguyễn Thị Minh Hiếu (2012). Can 
thiệp cộng đồng thay đổi hành vi chăm sóc 
trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của 
các bà mẹ. Y học thực hành, 1, 55-57.

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_cham_soc_dinh_duong_cua_ba_me_co_con_6_24.pdf