Thành phần hóa học của quả xoan ta (Melia azedarach L.) ở Việt Nam
Tóm tắt
Từ dịch chiết metanol của xoan ta (Melia azedarach L.) (Meliaceae) bằng các phương pháp sắc kí đã phân
lập hai flavonoid (apigenin, quercetin 3-O-[α-L-rhamnopyranosyl-(1→6)-β- D-glucopyranoside]), một
coumarin (scopoletin), một phenolic (acid vanilic), một triterpenoid (taraxerol) và hai steroid (β-sitosterol và
β-sitosterol-3-O-β-D-glucopyranoside). Cấu trúc các hợp chất này được xác định bằng các phương pháp
phổ tử ngoại (UV), phổ hồng ngoại (IR), phổ khối lượng (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân (1H-, 13C-NMR,
DEPT, HMBC, HSQC và COSY) và so sánh tư liệu tham khảo. Các chất này lần đầu tiên được phân lập từ
thành phần quả xoan ta mọc ở Việt Nam.
Từ khoá: Melia azedarach, Meliaceae, flavonoid, scopoletin, apigenin, taraxerol
Bạn đang xem tài liệu "Thành phần hóa học của quả xoan ta (Melia azedarach L.) ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thành phần hóa học của quả xoan ta (Melia azedarach L.) ở Việt Nam
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 79 Thành phần hóa học của quả xoan ta (Melia azedarach L.) ở Việt Nam Chemical Constituents from Fruit of Melia azedarach L. in Vietnam Vũ Thị Hiền1,2, Nguyễn Ngọc Tuấn3, Hoàng Văn Lựu1, Vũ Đình Hoàng4,* 1Trường Đại học Vinh - 182 Lê Duẩn - Thành Phố Vinh - tỉnh Nghệ An 2Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường - Thành phố Hồ Chí Minh 3Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 4Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội Đến Tòa soạn: 29-11-2018 ; chấp nhận đăng: 20-3-2019 Tóm tắt Từ dịch chiết metanol của xoan ta (Melia azedarach L.) (Meliaceae) bằng các phương pháp sắc kí đã phân lập hai flavonoid (apigenin, quercetin 3-O-[α-L-rhamnopyranosyl-(1→6)-β- D-glucopyranoside]), một coumarin (scopoletin), một phenolic (acid vanilic), một triterpenoid (taraxerol) và hai steroid (β-sitosterol và β-sitosterol-3-O-β-D-glucopyranoside). Cấu trúc các hợp chất này được xác định bằng các phương pháp phổ tử ngoại (UV), phổ hồng ngoại (IR), phổ khối lượng (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân (1H-, 13C-NMR, DEPT, HMBC, HSQC và COSY) và so sánh tư liệu tham khảo. Các chất này lần đầu tiên được phân lập từ thành phần quả xoan ta mọc ở Việt Nam. Từ khoá: Melia azedarach, Meliaceae, flavonoid, scopoletin, apigenin, taraxerol Abstract Two flavonoids (apigenin and quercetin 3 - O -[α- L - rhamnopyranosyl - (1→6) - β- D-glucopyranoside]), a coumarin (scopoletin), a phenolic (vanilic acid), a triterpenoid (taraxerol) and two steroids (β-sitosterol and β- sitosterol-3-O-β-D-glucopyranoside) were isolated from the methanolic extract of the fruits of Melia azedarach L., using silica gel column chromatography methods. The structures of these compounds were elucidated using a combination of UV, IR, 1D and 2D NMR techniques (1H-, 13C-NMR, COSY, HSQC and HMBC), MS analyses, and the comparison with the literature data. This is the first isolation of the compounds from Melia azedarach growing in Vietnam. Keywords: Melia azedarach, Meliaceae, flavonoid, scopoletin, apigenin, taraxerol. 1. Mở đầu Xoan*ta (Melia azedarach L.) (Meliaceae) là loài bản địa ở Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, và Đông Nam Á [1-3]. Từ thời cổ đại, các loài này đã được sử dụng trong y học dân gian hoặc y học Trung Quốc để điều trị bệnh cho con người. Ở Nhật Bản, vỏ cây và hoa quả của M. azedarach đã được sử dụng làm thuốc diệt cỏ, bệnh dị ứng và bệnh da. Các bộ phận của M. azedarach thường được sử dụng cho thuốc trừ sâu, thuốc lợi tiểu, làm se và dạ dày như y học cổ truyền Ấn Độ ở Ayurveda [4-6]. Từ các bộ phận khác nhau của M. azedarach nhiều thành phần bao gồm limonoid, triterpenoid và steroid đã được phân lập [7-16]. Một số các hợp chất được phân lập từ M. azedarach cho thấy khả năng gây ngán ăn đối với côn trùng [8, 10], và các hoạt tính diệt côn trùng [7], các hoạt chất kháng khuẩn [9,13], các hoạt động gây độc tế bào [14, 15]. * Địa chỉ liên hệ : Tel.: (+84) 914661299 Email: vudinhhoanghn@gmail.com Xoan ta (Melia azedarach L.) (Meliaceae) được tìm thấy ở một số vùng ở Việt Nam như Nghệ An, Thừa Thiên-Huế... Từ nguồn nguyên liệu quả xoan tự nhiên ở khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống – Nghệ An, chúng tôi tiến hành phân lập bằng các phương pháp sắc ký và xác định được cấu trúc của bảy hợp chất bao gồm hai flavonoid (apigenin, quercetin 3 - O -[ - L - rhamnopyranosyl - (1→6) - - D- glucopyranoside]), một coumarin (scopoletin), một phenolic (acid vanilic), một triterpenoid (taraxerol) và hai steroid (β-sitosterol và -sitosterol-3-O--D- glucopyranoside) từ quả xoan ta. Cấu trúc hoá học của các hợp chất được làm sáng tỏ bằng sự kết hợp các phương pháp phổ hồng ngoại (IR), phổ khối lượng (MS), phổ cộng hưởng từ (NMR). 2. Thực nghiệm 2.1. Thiết bị Sắc ký lớp mỏng sử dụng loại tráng sẵn silica gel 60F245 (Merck), hiện hình bằng đèn UV và hơi iot. Chất hấp phụ silica gel 230-400mesh (Merck) được sử dụng trong sắc ký cột. Nhiệt độ nóng chảy đo trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 80 máy Yanaco MP-S3. Phổ tử ngoại UV được ghi trên máy Agilent UV-VIS. Phổ hồng ngoại IR được ghi trên máy Bruker 270-30, dạng viên nén KBr. Phổ khối lượng va chạm electron EI-MS đo trên máy MS- Engine-5989-HP. Phổ HR-ESI-MS đo trên máy micr OTOF-Q II 10187 (Phòng Phân tích Trung tâm, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. HCM). Phổ cộng hưởng từ hạt nhân được đo trên máy Bruker 500 MHz (Phòng Phân tích cấu trúc, Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). 2.2. Nguyên liệu Quả xoan ta (Melia azedarach L.) còn xanh được thu hái ở khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống- Nghệ An vào tháng 2/2016. Mẫu được định danh bởi PGS.TS. Trần Huy Thái, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Tiêu bản được lưu giữ Viện Hóa, Sinh và Môi trường, Trường Đại học Vinh, Nghệ An. 2.3. Phân lập các hợp chất Mẫu thực vật thu thập và sấy khô ở nhiệt độ từ 400-500C trong 48 giờ, sau khi sấy khô và xay nhỏ (5,0 kg) ngâm với MeOH, với thời gian 8 ngày, sau đó lọc và dịch lọc được cất giảm áp suất bằng thiết bị quay cất chân không thu được cao metanol (425 g). Phân bố cao metanol trong nước, sau đó chiết lần lượt với các dung môi etyl axetat và butanol, quay cất chân không thu được 125 g cao etyl axetat và 67 g cao butanol. Cao etyl axetat được phân tách trên cột silicagel, với hệ dung môi rửa giải là cloroform: metanol (100:0, 40:1: 30:1; 20:1; 10:1: 4:1; 2:1) thu được 7 phân đoạn. Phân đoạn 1 được phân tách lại bằng sắc ký cột với hệ dung môi hexan: acetone (15:1) thu được chất hợp chất 6 (128 mg). Phân đoạn 3 được phân tách lại bằng sắc ký cột với hệ dung môi hexan: axeton (7:1) thu được chất hợp chất 3 (28 mg) và hợp chất 5 (31 mg). Phân đoạn 5 được tiến hành sắc ký cột với silica gel với hệ dung môi rửa giải cloroform: metanol (10:1) thu được chất 4 (51mg). Cao butanol được phân tách trên cột silicagel, với hệ dung môi rửa giải là cloroform: metanol (30:1; 20:1; 10:1: 4:1; 2:1) thu được 5 phân đoạn. Phân đoạn 2 được phân tách lại bằng sắc ký cột với hệ dung môi cloroform: metanol (15:1) thu được chất hợp chất 1 (12) mg) và phân đoạn 3 được phân tách lại bằng sắc ký cột với hệ dung môi cloroform: metanol (10:1) thu được chất hợp chất 2 (21,5 mg). Phân Phân đoạn 5 được phân tách tiếp với hệ dung môi cloroform: metanol (10:1) thu được chất hợp chất 7 (41 mg). Hợp chất 1: chất bột màu vàng nhạt, đ.n.c. 115- 117°C; HR-ESI-MS m/z 467,2669 [M]+ (tương ứng C28H37O5N, tính toán m/z 467,2672); 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) ( ppm): 12,96 (1H, s, 5-OH), 10,83 (1H, s, 7-OH), 10,35(1H, s, 4’-OH), 7,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-2’), 7,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-6’), 6,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-3’), 6,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H- 5’), 6,78 (1H, s, H-3), 6,20 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-6), 6,49 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8); 13C-NMR (125 MHz, CDCl3) ( ppm): 181,7 (C-4), 164,1 (C-2), 163,7 (C- 7), 161,4 (C-5), 161,1 (C-4’), 157,3 (C-9), 128,4 (C- 6’), 128,4 (C-2’), 121,2 (C-1’), 115,9 (C-5’), 115,9 (C-3’), 103,7 (C-10), 102,8 (C-3), 98,8 (C-6), 93,9 (C-8). Hợp chất 2: tinh thể màu vàng, đ.n.c. 214 - 215oC; UVmaxEtOHnm (log): 256 (4,14), 267 (4,11), 293 (4,02), 346 (3,83); IRmaxKBrcm-1: 3415 (OH), 1660 (C=O), 1500, 1490 (C=C), 1060 (C-O), 1015; ESI-MS (positive) m/z: 611 [M+H]+; 1H-NMR (500 MHz, DMSO-d6) (ppm): 12,59 (1H, s, 5-OH), 7,55 (1H, d, J = 2,5 Hz, H-2'), 7,54 (1H, dd, J= 2,0, 12,5 Hz, H-6'), 6,85 (1H, d, J = 8,8 Hz, H-5'), 6,38 (1H, d, J = 1,8 Hz, H-8), 6,19 (1H, d, J = 1,8 Hz, H-6), 5,34 (1H, d, J = 7,0 Hz, glc H-1), 4,38 (1H, brs, rham-1), 3,71-3,05 (các proton của đường) và 1,00 (3H, d, J = 6,0, rham-CH3). 3C-NMR (125 MHz, DMSO-d6) (ppm): 177,5 (C-4),164,2 (C-7), 161,3 (C-5), 156,5 (C-2), 156,7 (C-9), 148,5 (C-4’), 144,8 (C-3’), 133,4 (C-3), 121,7 (C-6’), 121,3 (C-1’), 115,3 (C-2’), 116,4 (C-5’), 104,1 (C-10), 101,3 (C-1’’), 100,8 (C-1’’’), 98,8 (C-6), 93,7 (C-8), 76,5 (C-3’’), 76,0(C-5’’), 74,2 (C-2’’), 71,9 (C-4’’’), 70,7 (C-3’’’), 70,5 (C-2’’’), 70,1 (C-4’’), 68,3 (C-5’’’), 67,1 (C-6’’), 17,8 (C- 6’’’). Hợp chất 3: tinh thể màu vàng ; đ.n.c. 203- 204°C; ESI-MS m/z 193 [M+H]+(C10H8O4); 1H-NMR (CDCl3, 500 MHz), δ (ppm): 7,60 (1H, d, J = 9,5 Hz, H-4), 6,92 (1H, s, H-5), 6,85 (1H, s, H-8), 6,28 (1H, d, J = 9,5 Hz, H-3), 3,95 (3H, s, 6-OCH3); 13C-NMR (CDCl3, 125 MHz), δ (ppm): 161,5 (C-2), 150,3 (C- 7), 149,8 (C-9), 144,1 (C-6), 143,3 (C-4), 113,4 (C- 5), 111,5 (C-10), 107,5 (C-3), 103,2 (C-8), 56,6 (6- OCH3). Hợp chất 4: Tinh thể hình kim không màu; đ.n.c: 210-211oC; 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) ( ppm): 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) ( ppm): 7,57 (1H, dd, J = 2,0, 6,5 Hz, H-2), 7,55 (1H, d, J = 2 Hz, H-6), 6,99 (1H, d, J = 8,5 Hz, H-5), 3,92 (3H, s, OCH3); 13C-NMR (125 MHz, CDCl3) ( ppm): 123,7 (C-1), 111,8 (C-2), 147,3 (C-3), 153,3 (C-4), 117,4 (C-5), 144,5 (C-6), 170,0 (-OCO-), 56,4 (-OCH3). Hợp chất 5: chất bột màu trắng; 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) ( ppm): 5,53 (1H, dd, J = 7,6, 3,6 Hz, H-15), 3,19 (1H, dd, J = 11,2, 4,4 Hz, H-3), 1,09 (3H, s, CH3), 0,98 (3H, s, CH3), 0,91 (6H, s, 2xCH3), 0,95 (3H, s, CH3), 0,93 (3H, s, CH3), 0,82 (3H, s, CH3), 0,80 (3H, s, CH3); 13C-NMR (125MHz, CDCl3) ( ppm):158,1 (C-14), 116,9 (C- Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 15), 79,1 (C-3), 55,6 (C-5), 49,3 (C-9), 48,8 (C-18), 41,1 (C-19), 39,0 (C-8), 38,8 (C-4), 38,0 (C-13), 37,8 (C-1), 37,8 (C-16), 37,6 (C-10), 36,7 (C-7), 35,8 (C- 17), 35,2 (C-22), 33,7 (C-12), 33,4 (C-29), 33,1 (C- 21), 29,9 (C-26), 29,9 (C-28), 28,8 (C-20), 28,0 (C- 23), 27,2 (C-2), 25,9 (C-27), 21,3 (C-30), 18,8 (C-6), 17,5 (C-11), 15,5 (C-24), 15,4 (C-25) Hợp chất 6: Tinh thể hình kim, đ.n.c.135 - 136oC; EI-MS m/z (%): 414 (M+, C29H50O, 20), 413(41), 398 (28), 397(100), 395(32), 383 (11), 361 (11), 257 (3), 255 (6,3), 151 (5,6), 139 (11); 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) (ppm): 5,31(1H, m, H-6), 3,51 (1H, m, H-3), 1,01 (3H, s, 19-CH3), 0,92 (3H, d, J = 6,2 Hz, 21-CH3), 0,84 (3H, t, J = 7,0 Hz, 29-CH3), 0,83 (3H, d, J = 6,5 Hz, H-26), 0,81 (3H, d, J =6,5 Hz, 27-CH3), 0,68 (3H, s, 18-CH3); 13C-NMR (125 MHz, CDCl3) (ppm): 140,8 (C-5), 121,7 (C-6), 71,8 (C-3), 56,8 (C-14), 56,1 (C-17), 50,2 (C-9), 45,9 (C- 24), 42,3 (C-4), 42,3 (C-13), 39,8 (C-12), 37,3 (C-1), 36,5 (C-10), 36,2 (C- 20), 34,0 (C-22), 31,9 (C-8), 31,9 (C-7), 31,7 (C-2), 29,2 (C-25), 28,3 (C-16), 26,1 (C-23), 24,3 (C-15), 23,1 (C-28), 21,1 (C-11), 19, 8 (C-26), 19,1 (C-19), 19,4 (C-27), 18,8 (C-21), 12,0 (C-29) và 11,9 (C-18). Hợp chất 7: Chất bột màu trắng, đ.n.c. 283 - 285oC; EI-MS m/z (%): 396 [M+-C6H12O6] (9), 273 (2), 255 (9), 185 (5), 161(15), 145 (25), 133 (21), 105 (42), 91 (46), 81 (51), 69 (100); 1H-NMR (500 MHz, DMSO-d6) (ppm): 5,38 (1H, m, H-6), 5,03 (1H, d, J = 7,0 Hz, H-1’), 4,05-4,60 (5H, m, H-2’- 6’), 3,99 (1H, m, H-3), 3,98 (1H, m, H-5’), 1,00 (3H, d, J = 6,5 Hz, 21-CH3), 0,94 (3H, s, 19-CH3), 0,90 (3H, t, J = 7,0 Hz, 29-CH3), 0,89 (3H, d, J=6,5 Hz, 26-CH3), 0,89 (3H, d, J= 6,5 Hz, 27-CH3), 0,67 (3H, s, 18- CH3); 13C-NMR (125 MHz, DMSO-d6) (ppm): 140,6 (C-5), 121,3 (C-6), 100,9 (C-1’), 77,1 (C-3’), 76,8 (C- 5’), 76,8 (C-3), 73,6 (C-2’), 70,2 (C-4’), 61,2 (C-6’), 56,3 (C-14), 55,5 (C-17), 50,7 (C-9), 49,7 (C-24), 45,2 (C-13), 38,4 (C-4), 36,9 (C-12), 36,3 (C-1), 35,6 (C-10), 33,4 (C-20), 31,5 (C-22), 31,5 (C-8), 29,4 (C- 7), 27,7 (C-16) 28,8 (C-23), 27,9 (C-2), 25,5 (C-25), 24,0 (C-15), 22,7 (C-28), 21,0 (C-11), 20,7 (C- 27), 19,8 (C-19), 19,0 (C-26), 18,9 (C-21), 12,2 (C-29) và 11,9 (C-18). 3. Kết quả và thảo luận Từ cao metanol của quả xoan (Melia azedarach L.) bằng các phương pháp sắc kí cột silica gel, chúng tôi đã phân lập được 7 hợp chất bao gồm hai flavonoid, một coumarin, một phenolic, một triterpenoid và hai steroid, cấu trúc của các hợp chất này được xác định bằng các phương pháp phổ. Hợp chất 1 có phổ khối lượng ESI-MS m/z: 269 [M-H]- tương ứng với công thức phân tử là C15H9O5. Từ đây, có thể xác định công thức phân tử của hợp chất 1 là C15H10O5. Phổ 1H-NMR của hợp chất 1 cho thấy tín hiệu đặc trưng của lớp chất flavonoid thuộc khung cacbon apigenin, điển hình là sự xuất hiện của một tín hiệu singlet của proton H-3 tại H 6,78 (1H, s), và hai tín hiệu proton doublet H-6 và H-8 tại H 6,20 (1H, d, J = 2,0 Hz), 6,49 (1H, d, J = 2,0 Hz) đặc trưng cho các proton vòng A và B. Ngoài ra, tín hiệu đặc trưng của vòng C (vòng benzyl thế tại 1,4 của phần cấu trúc apigenin) là các proton thơm tại H 7,93 (2H, d, J = 8,0 Hz, H-2’ và -6’) và 6,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-3’ và -5’). Phổ 1H-NMR của hợp chất 1 còn cho thấy tín hiệu của 3 proton nhóm hydroxy lần lượt tại H 12,96 (1H, s, 5-OH), 10,83 (1H, s, 7-OH), 10,35 (1H, s, 4’-OH). Phổ 13C-NMR của hợp chất 1 cho thấy tín hiệu của 15 cacbon, các tín hiệu đặc trưng là các tín hiệu của cacbon thơm của vòng C tại C 121,2 (C-1’), 128,4 (C-2’ và -6’), 115,9 (C-3’ và - 5’), 161,1 (C-4’). Ngoài ra phổ 13C-NMR của hợp chất 1 còn xuất hiện các tín hiệu đặc trưng cho vòng A của apigenin tại C 161,4 (C-5), 98,8 (C-6), 163,7 (C-7), 93,9 (C-8), 157,3 (C-9), 103,7 (C-10) . Hai tín hiệu cacbon α và của vòng B được xác định tại C 164,1 (C-2), 102,8 (C-3). Từ số liệu phổ 1H và 13C- NMR của hợp chất 1, kết hợp với việc so sánh với tài liệu [17] có thể kết luận hợp chất 1 là hợp chất apigenin, có tên IUPAC là 5,7-dihydroxy-2-(4- hydroxyphenyl)-4H-1-benzopyran-4-one. Hợp chất 2 thu được dưới dạng bột màu vàng, đ.n.c. 214 - 215°C. Phổ 1H-NMR cho tín hiệu singlet tại δH 12,59 ppm của nhóm OH tại C-5 liên hợp với nhóm carbonyl. Có năm tín hiệu proton thơm, hai proton ghép cặp kiểu ortho của H-5’ tại δH 6,84 (1H, d, J = 8,0 Hz) với H-6’ tại δH 7,54 (1H, dd, J = 8,0; 2,0 Hz), hai proton ghép cặp kiểu meta của H-6 tại δH 6,19 (1H, d, 2,0 Hz) với H-8 tại δH 6,38 (1H, d, J = 2,0 Hz), một tín hiệu proton thơm singlet của H-2’ tại δH 7,53 (1H, s). Tín hiệu proton anomeric của gốc rhamnose tại δH 4,38 (1H, d, J = 1,0 Hz), tín hiệu proton anomeric của gốc glucose tại δH 5,34 (1H, d, J = 7,5 Hz). Các proton còn lại nằm trong vùng δH 3,81 đến δH 3,32 ppm. Tín hiệu nhóm methyl của gốc rhamnose tại δH 0,99 (3H, d, J = 6,0 Hz). Phổ 1H- NMR của hợp chất 2 cho thấy tín hiệu của vòng nhân thơm thế 3 vị trí ở 7,54 (2H, m, H-2', 6'), và 6,84 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5') và 2 proton anomeric tại 5,34 (1H, d, J = 7,5 Hz, glc H-1'') và 4,38 (1H, d, J = 1,0 Hz, rham H-1'''). Tuy nhiên, phổ 1H-NMR của hợp chất 2 cho thấy tín hiệu proton của 2 nhóm glycosit ở 3,71 - 3,05 (m, 12H) và nhóm methyl ở 0,99 (3H, d, J = 6,0, rham-CH3). Phổ 13C-NMR và DEPT của hợp chất 2 cho thấy tín hiệu của 27 cacbon, bao gồm 15 cacbon của khung flavonoid và 12 cacbon của 6 tín hiệu carbon thuộc gốc đường glucose, 6 tín hiệu carbon thuộc gốc đường rhamnose, 1 gốc đường của rutin (β-D-glucose: δ 101,3; 74,2; 76,5; 70,1; 76,0; 67,1 và α-L-rhamnose: δ 104,0; 74,1; 71,9; 70,7; Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 82 70,5; 17,8). Qua số liệu phổ các phổ thu được của hợp chất này và so sánh với các tài liệu đã công bố trước đây [18] có thể nhận thấy sự tương đồng về cấu trúc của chất này với một flavonoid có tên là quercetin 3-O-[ -L-rhamnopyranosyl-(1→6)]--D- glucopyranoside). Hợp chất này đã được phân lập từ cây Ruta graveolens và tìm thấy trong nhiều họ thực vật, có hoạt tính chống oxy hoá và làm bền thành mạch máu. Hợp chất rutin cũng được phân lập từ Solanum tuberosum, Solanum lyratum, Solanum lycopersicum, và lần đầu tiên được phân lập từ Solanum palinacanthum, nó có hoạt tính kháng nấm, chống oxi hóa. Hợp chất 3 là tinh thể màu vàng có nhiệt độ nóng chảy khoảng 203 - 204°C. Phổ khối lượng ESI- MS cho pic ion giả phân tử với giá trị m/z 193 [M+H]+ khẳng định công thức phân tử của hợp chất 3 là C10H8O4. Phổ 1H-NMR cho thấy tín hiệu doublets riêng biệt tại δ 6,28 (1H, d, J = 9,5 Hz, H-3) và 7,60 (1H, d, J = 9,5 Hz, H-4) tương ứng với 2 protons vòng pyrone của coumarin. Trong vùng trường thấp có tín hiệu của 2 proton thơm tại 6,92 (1H, s, H-5) và 6,85 (1H, s, H-8) ppm. Ngoài ra, 1 tín hiệu của nhóm methoxy xuất hiện tại δ 3,95 (3H, s, 6-CH3). Phổ 13C- NMR cho thấy hợp chất 3 có 10 cacbon, bao gồm tín hiệu tại δC 161,5 (C-2) và 150,3 (C-7) tương ứng với nhóm carbonyl và cacbon phenolic. Nhóm methoxy cũng xuất hiện tại δC 56,0 ppm. Dữ liệu phổ cũng cho thấy hợp chất 3 có kiểu khung coumarin. Kết hợp so sánh dữ liệu phổ của hợp chất 2 với tài liệu khẳng định hợp chất 3 là scopoletin [19]. Hợp chất 4 là ở dạng tinh thể hình kim, điểm nóng chảy 210-212oC. Phổ khối lượng EI-MS của chất 4 cho pic ion phân tử m/z 168 tương ứng với công thức phân tử C8H8O4. Phổ 1H-NMR của hợp chất 4 cho thấy các tín hiệu của các proton thơm H-2 ở H 7,57ppm, H-5 ở H 6,99 ppm, H-6 ở H 7,55 ppm trong vòng benzen và một nhóm metoxy ở H 3,92 ppm. Qua phân tích các dữ liệu của phổ MS, 1H- NMR và 13 C-NMR so sánh với tài liệu cho kết luận chất 4 là acid vanilic [20]. Hợp chất này tìm thấy rộng rãi ở thực vật bậc cao. Hợp chất 5 là Tinh thể hình kim màu trắng, đ.n.c 281-2830C. Phổ tử ngoại (UV) của hợp chất 5 cho hấp thụ cực đại tại 240, 258, 319, 366 nm, chứng tỏ hợp chất 5 có vòng thơm. Phổ khối lượng phun mù electron (ESI-MS) negtive [M+H]+ cho pic 427, positive cho pic [M-H]+ 425, hợp chất 5 có khối lượng phân tử 426, ứng với công thức C30H50O. Phổ cộng hưởng từ hạt nhận 13C-NMR và DEPT cho thấy tín hiệu 30 cacbon bao gồm: 8 cacbon methyl, 10 cacbon methylen, 5 cacbon metin và 7 cacbon bậc 4. Từ các số liệu phổ UV, MS, NMR một và hai chiều, và so sánh với tài liệu [21], hợp chất 5 được xác định là taraxerol. Hợp chất này được phân lập từ cây Taraxacum officinale và cũng tìm thấy ở các loài Alnus spp., Skimmia japonica, Rhododendron spp., Euphorbia spp. Hợp chất taraxerol có hoạt tính kháng vi sinh vật, chống viêm và chống khối u. Hợp chất 6 là tinh thể hình kim không màu, nóng chảy ở 135-136oC. Phổ EI-MS cho pic ion phân tử m/z 414 [M]+ , ứng với công thức C29H50O. Phổ 1H-NMR của hợp chất 6 cho thấy tín hiệu của 6 nhóm metyl ở 1,01 (3H, s, 19-CH3), 0,92 (3H, d, J = 6,5 Hz, 21-CH3), 0,84 (3H, t, J = 7,0 Hz, 29-CH3), 0,83 (3H, d, J = 6,5 Hz, H-26), 0,81 (3H, d, J =6,5 Hz, 27- CH3), 0,68 (3H, s, 18-CH3). Phổ 13C-NMR của hợp chất 6 có 29 tín hiệu cho thấy có 29 nguyên tử cacbon bao gồm 9 nhóm CH, 11 nhóm CH2, 6 nhóm CH3 và 3 cacbon bậc 4. Các số liệu về phổ EI-MS và NMR đều phù hợp với với -sitosterol [22]. Hợp chất này tồn tại phổ biến trong thực vật. Hợp chất 7 là chất rắn vô định hình, không màu, nóng chảy ở 283- 285oC. Trên phổ EI-MS xuất hiện pic ion phân tử m/z 396 (M-C6H12O6). Phổ 13C-NMR cho thấy có 35 tín hiệu của nguyên tử cacbon, trong đó có 7 nguyên tử cacbon gắn với oxy (nằm trong vùng 61,2 đến 100,9 ppm), có 2 tín hiệu ở 140,6 và 121,3 ppm thuộc về một liên kết olefin. Phổ 1H-NMR cũng cho thấy proton anomeric (H-1’) của phần đường xuất hiện dưới dạng doublet tại 5,03 ppm, có J = 7,0 Hz và C-1’ tương ứng là 100,9 ppm. Số liệu từ các phổ EI-MS, 1H- và 13C-NMR cho thấy có thể đây là cấu trúc của một hợp chất glucosit có công thức C35H60O6. Đồng thời sự có mặt của mảnh 396 m/z (M-C6H12O6) trên phổ EI-MS cũng xác nhận một phân tử hexoza đã bị đứt khỏi phân tử sitosterol glucosit. Từ những số liệu trên cho phép xác nhận hợp chất trên là -sitosterol-3-O--D- glucopyranoside [22]. Hợp chất này tồn tại phổ biến trong thực vật Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 83 4. Kết luận Nghiên cứu thành phần hóa học của xoan ta (Melia azedarach L.) thu hái ở vườn quốc gia Pù Huống-Nghệ An, chúng tôi đã tiến hành phân lập và xác định được các hợp chất apigenin, quercetin 3-O- [ -L-rhamnopyranosyl-(1→6)-- D- glucopyranoside], scopoletin, acid vanilic, taraxerol và hai steroid (β-sitosterol và -sitosterol-3-O--D- glucopyranoside. Đây là công bố đầu tiên về thành phần hóa học quả xoan ta. Các bộ phận khác của cây xoan ta đang được tiếp tục nghiên cứu. Lời cảm ơn Các tác giả cám ơn đề tài Nafosted đã tài trợ kinh phí. Tài liệu tham khảo [1] Đỗ Tất Lợi (1999). Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học. [2] Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam. Nhà xuất bản trẻ. [3] Nguyễn Kim Đào (2003), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, Tập II, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, 987- 1007. [4] Namba, T. The Encyclopedia of Wakan-Yaku (Traditional Sino-Japanese Medicines) with Color Pictures, Hoikusya, Osaka, (1994), I, 247. [5] Okada, M. Newly Revised Illustrated Medicinal Plants of World, Hokuryukan Publishing Co., Ltd., Tokyo,(2002), 262. [6] Vishnukanta; Rana, A. C.; M. azedarach: A phytopharmacological review, Pharmacog. Rev., (2008), 2, 173-179. [7] Tan, Q. G.; Luo, X. D. Meliaceous limonoids: chemistry and biological activities, Chem. Rev., (2011), 111, 7437-7522. [8] Carpinella, M. C.; Defago, M. T.; Valladares, G.; Palacios, S. M. Antifeedant and insecticide properties of a limonoid from M. azedarach (Meliaceae) with potential use for pest management, J. Agric. Food Chem., (2003), 51, 369-374. [9] Liu, H. B.; Zhang, C. R.; Dong, S. H.; Dong, L.; Wu, Y.; Yue, J. M. Limonoids and triterpenoids from the seeds of M. azedarach, Chem. Pharm. Bull., (2011), 59, 1003-1007. [10] Nakatani, M.; Huang, R. C.; Okamura, H.; Iwagawa, T.; Tadera, K.; Naoki, H. Three new antifeeding meliacarpinins from Chinese M. azedarach Linn., Tetrahedron, (1995), 51, 11731-11736. [11] Ntalli, N. G.; Cottiglia, F.; Bueno, C. A.; Alche, L. E.; Leonti, M.; Vargiu, S.; Bifulco, E.; Menkissoglu- Spiroudi, U.; Caboni, P. Cytotoxic tirucallane triterpenoids from M. azedarach fruits, Molecules, (2010), 15, 5866-6877. [12] Ochi, M.; Kotsuki, H.; Ishida, H.; Tokoroyama, T. Limonoids from M. azedarach Linn. var. japonica Makino. II. The natural hydroxyl precursor of sendanin, Chem. Lett., (1978), 99-102. [13] Su, Z. S.; Yang, S. P.; Zhang, S.; Dong, L.; Yue, J. M. Meliarachins A-K: eleven limonoids from the twigs and leaves of M. azedarach, Helv. Chim. Acta. , (2011), 94, 1515-1526. [14] Wu, S. B.; Bao, Q. Y.; Wang, W. X.; Zhao, Y.; Xia, G.; Zhao, Z.; Zeng, H.; Hu, J. F. Cytotoxic triterpenoids and steroids from the bark of M. azedarach, Planta Med., (2011), 7, 922-928. [15] Zhou, H.; Hamazaki, A.; Fontana, J. D.; Takahashi, H.; Esumi, T.; Wandscheer, C. B.; Tsujimoto, H.; Fukuyama, Y. New ring C-seco limonoids from Brazilian M.azedarach and their cytotoxic activity, J. Nat. Prod., (2004), 67, 1544-1547. [16] Kim, M.; Kim, S. K.; Park, B. N.; Lee, K. H.; Min, G. H.; Seoh, J. Y.; Park, C. G.; Hwang, E.S.; Cha, C. Y.; Kook, Y. H. Antiviral effects of 28-deacetylsendanin on herpes simplex virus-1 replication, Antiviral Res., (1999).43, 103-112. [17] Jun H., Wei M., Ning L., and Wang K. J., Antioxidant and Anti-inflammatory flavonoids from the flowers of Chuju, a medical cultivar of Chrysanthemum Tạp chí Khoa học và Công nghệ 133 (2019) 079-084 84 morifolim Ramat, J. Mex. Chem. Soc., (2017), 61(4), 282-289. [18] Lallemand J. Y. and Duteil M. - 13C NMR spectra of quercetin and rutin, Magnetic Resonance in Chemistry, (1977), 9(3) 179-180. [19] Mofiz Uddin Khan N. M. and Sagar H. Md., Scopoletin and β-sitosterolglucoside from roots of Ipomoea digitata, J. Pharcog. Phytochem. (2015), 4 (2) 5-7. [20] Sang W. C., Ki H. K., Il K. L., Sang U. C., Shi Y. R., and Kang R. L., Phytochemical Constituents of Bistorta manshuriensis, Nat. Prod. Sci. (2009), 15(4) 234-240. [21] Rasool N., Khan A. Q., and Malik A., A taraxerane type triterpene from Euphorbia tirucalli, Phytochem., (1989), 28, 1193-1195. [22] Kuo H. Y., Yeh M. H. Chemical constituents of hearwood of Bauhinia purpurea, J. Chin. Chem. Soc. (1997), 44, 379-383
File đính kèm:
- thanh_phan_hoa_hoc_cua_qua_xoan_ta_melia_azedarach_l_o_viet.pdf