Thăm hộ gia đình kết hợp với tầm soát nguy cơ tiền đái tháo đường và đái tháo đường type 2 ở đối tượng trên 45 tuổi tại phường Trần Hưng
Nghiên cứu mô tả trên 254 đối tượng trên 45 tuổi tại phường Trần Hưng
Đạo thành phố Quy Nhơn nhằm phát hiện bệnh nhân đái tháo đường type 2 bằng
cách phổ biến áp dụng thang điểm VNDRISC 1 và đánh giá hiệu quả của các loại
hình truyền thông giáo dục sức khỏe (GDSK) gồm: thăm hộ gia đình/gửi thư cung
cấp thông tin/mời tham dự buổi truyền thông về bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). Kết
quả cho thấy: Tỷ lệ đối tượng có điểm số nguy cơ cao là 60,6%; Tỉ lệ phát hiện
ĐTĐ và tiền đái tháo đường (T-ĐTĐ) trong số những người có nguy cơ cao là
12,98% và 73%; Có sự chênh lệch về vòng bụng, chỉ số khối cơ thể của các nhóm
đối tượng: Nhóm bệnh nhân ĐTĐ có số đo trung bình vòng bụng cao hơn hẳn 2
nhóm còn lại; Những người có điểm số nguy cơ càng cao thì đường huyết lúc đói
càng có khuynh hướng tăng
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thăm hộ gia đình kết hợp với tầm soát nguy cơ tiền đái tháo đường và đái tháo đường type 2 ở đối tượng trên 45 tuổi tại phường Trần Hưng
35 THĂM HỘ GIA ĐÌNH KẾT HỢP VỚI TẦM SOÁT NGUY CƠ TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 Ở ĐỐI TƯỢNG TRÊN 45 TUỔI TẠI PHƯỜNG TRẦN HƯNG ĐẠO THÀNH PHỐ QUY NHƠN BS. Trần Như Luận, Ngô Thị Thu Hiền, Lê Xuân Phước Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh Bình Định Tóm tắt nghiên cứu Nghiên cứu mô tả trên 254 đối tượng trên 45 tuổi tại phường Trần Hưng Đạo thành phố Quy Nhơn nhằm phát hiện bệnh nhân đái tháo đường type 2 bằng cách phổ biến áp dụng thang điểm VNDRISC 1 và đánh giá hiệu quả của các loại hình truyền thông giáo dục sức khỏe (GDSK) gồm: thăm hộ gia đình/gửi thư cung cấp thông tin/mời tham dự buổi truyền thông về bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). Kết quả cho thấy: Tỷ lệ đối tượng có điểm số nguy cơ cao là 60,6%; Tỉ lệ phát hiện ĐTĐ và tiền đái tháo đường (T-ĐTĐ) trong số những người có nguy cơ cao là 12,98% và 73%; Có sự chênh lệch về vòng bụng, chỉ số khối cơ thể của các nhóm đối tượng: Nhóm bệnh nhân ĐTĐ có số đo trung bình vòng bụng cao hơn hẳn 2 nhóm còn lại; Những người có điểm số nguy cơ càng cao thì đường huyết lúc đói càng có khuynh hướng tăng. 1. Đặt vấn đề Trong quá trình triển khai công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ tại cộng đồng, truyền thông viên (TTV) thường gặp không ít khó khăn khi thuyết phục người dân đi khám nhằm phát hiện các bệnh không lây nhiễm, đặc biệt đối với tình trạng T-ĐTĐ và ĐTĐ type 2. Khảo sát nguyên nhân, người ta nhận thấy là các nhà nghiên cứu cũng như các TTV chưa có đủ cơ sở lý luận để thuyết phục đối tượng đi xét nghiệm để có chẩn đoán thích hợp dựa vào kết quả xét nghiệm đường huyết hoặc các xét nghiêm khác (như HbA1C). Thực tế, trên thế giới đã có nhiều thang điểm đưa ra nhằm dự báo nguy cơ T- ĐTĐ và ĐTĐ type 2 như thang điểm FINDRISC của Phần Lan, thang điểm DESIR của Pháp, thang điểm AUSDRISC của Úc, thang điểm Framingham Offspring của Mỹ, thang điểm IDRS của Ấn Độ, thang điểm Wichai Aekplakorn của Thái Lan. Tất cả các thang điểm ấy đều liệt kê các thông số cần khảo sát trên từng đối tượng như: Tuổi, giới, chỉ số khối cơ thể, tăng huyết áp, vòng bụng, tiền sử gia đình có bệnh ĐTĐ hay không Trong số đó có thang điểm nêu kết quả xét nghiêm HDL – cholesterol, kết quả xét nghiêm triglyceride, tiền sử hút thuốc lá, kết quả xét nghiêm men GGT, thời gian hoạt động thể lực hằng ngày, thói quen 36 thường xuyên ăn rau, quả, dùng thuốc hạ huyết áp thường xuyên, tiền sử tăng đường huyết Tại Việt Nam, trong Hội nghị Nội tiết – đái tháo đường toàn quốc lần thứ 6 tiến hành tại thành phố Huế vào tháng 3 năm 2013, báo cáo của ThS Nguyễn Văn Vy Hậu và các cộng sự đã gây sự chú ý đặc biệt. Tác giả vừa nghiên cứu so sánh khả năng tầm soát của các thang điểm khác nhau, vừa mạnh dạn đề xuất một thang điểm khá phù hợp với khả năng ứng dụng trên cộng đồng tại Việt Nam. Thang điểm đó được gọi là thang điểm VNDRISC (Vietnam Diabetes Risk Score), có nghĩa là Thang điểm đánh giá nguy cơ ĐTĐ dùng cho người Việt Nam. Theo tác giả Nguyễn Văn Vy Hậu và cộng sự khi thăm hộ gia đình, chỉ cần sử dụng VNDRISC 1 (gồm 4 thông số lâm sàng) là đủ. 2. Mục tiêu nghiên cứu 1. Phát hiện bệnh nhân đái tháo đường tại phường Trần Hưng Đạo, thành phố Quy Nhơn bằng cách phổ biến áp dụng thang điểm VNDRISC 1. 2. Đánh giá hiệu quả của các loại hình truyền thông – GDSK gồm: thăm hộ gia đình/gửi thư cung cấp thông tin/mời tham dự buổi truyền thông về bệnh đái tháo đường. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 3.2. Đối tượng - Đối tượng đưa vào nghiên cứu: Người dân trên 45 tuổi đang cư trú tại phường Trần Hưng Đạo, thành phố Quy Nhơn. - Tiêu chuẩn loại trừ: Những người đã biết mắc ĐTĐ hoặc T-ĐTĐ. Đối tượng nghiên cứu được chia thành 3 nhóm: Nhóm bình thường, nhóm đái tháo đường và nhóm tiền đái tháo đường. Cả 3 nhóm đều được tiếp cận 3 hình thức truyền thông: Thăm hộ gia đình; Thư cung cấp thông tin; Tham dự buổi truyền thông về dự phòng, chăm sóc và điều trị tại nhà. 3.3. Chọn mẫu: Số người được mời tham gia nghiên cứu là 300 người. Các hộ được chọn một cách ngẫu nhiên cho đến khi đạt được số người cần cho mỗi khu vực là 30 người. Trên thực tế có 254 đối tượng phù hợp. 3.4. Các bước tiến hành nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành theo 2 giai đoạn: 37 - Giai đoạn 1: Nghiên cứu viên xác định cân nặng, chiều cao, vòng bụng, chỉ số khối cơ thể, tiền sử thân nhân về bệnh ĐTĐ và tiền sự bản thân về tăng huyết áp. Sau đó, nghiên cứu viên chấm điểm theo thang điểm VNDRISC 1 và thông báo điểm số nguy cơ để đối tượng được biết. Thang điểm VNDRISC STT Thông số Giá trị Điểm số 1 Vòng bụng < 90 (nam); < 80 (nữ) 0 ≥ 90 (nam); ≥ 80 (nữ) 6 2 Chỉ số khối cơ thể < 23 0 23 - 27,5 3 ≥ 27,5 5 3 Tiền sử gia đình có bệnh ĐTĐ (cha mẹ, người thân) Không 0 Có 4 4 Tiền sử tăng huyết áp hoặc đang sử dụng thuốc hạ huyết áp Không 0 Có 3 Quy ước nếu điểm số về nguy cơ ≥ 9 là nguy cơ cao. Tất cả những đối tượng có điểm số nguy cơ ≥ 9 tiếp tục tham gia vào nghiên cứu, được thuyết phục đi xét nghiệm đường huyết lúc đói và xác định được đối tượng mắc ĐTĐ, T-ĐTĐ và không mắc bệnh. - Giai đoạn 2: Tiến hành can thiệp tại cộng đồng. Cả 3 nhóm: bình thường, T- ĐTĐ và ĐTĐ đều được tiếp cận 3 hình thức truyền thông: thăm hộ gia đình; thư cung cấp thông tin; tham dự buổi truyền thông về dự phòng, chăm sóc và điều trị ĐTĐ tại nhà và đánh giá các hành vi liên quan đến ĐTĐ. 4. Kết quả và bàn luận 4.1. Khảo sát nguy cơ và tình trạng mắc T-ĐTĐ và ĐTĐ - Tỷ lệ đối tượng có điểm số nguy cơ cao là 60,6%. - Tỷ lệ phát hiện ĐTĐ trong số những người có nguy cơ cao là 12,98%. Tỷ lệ phát hiện người bị ĐTĐ là 25,7% và T-ĐTĐ là 73%. 38 Sơ đồ khảo sát nguy cơ và đánh giá tình trạng mắc ĐTĐ, TĐTĐ Trong số 154 người có điểm số nguy cơ cao đã có 106 người đã tự đi xét nghiệm đường huyết. Có 14 trường hợp được xác định mắc ĐTĐ (13,2%). Số còn lại chưa xét nghiệm được mời đến trạm y tế, được lấy máu và xét nghiệm miễn phí. Kết quả xét nghiệm tại TYT như sau: Số bị T-ĐTĐ là: 35/48 (73,0%). Số bị ĐTĐ là: 6/48 (12,5%). 4.2. Số đo vòng bụng và chỉ số khối cơ thể của các nhóm đối tượng Bảng 1: Vòng bụng của các nhóm đối tượng Số đo vòng bụng Nhóm đối tượng Bình thường Tiền ĐTĐ Đái tháo đường Trung bình (cm) 89,0 14,1 90,5 13,8 98,3 19,8 Trung vị 90,0 91,0 104,0 Giá trị lớn nhất 97,0 104,0 105,0 Giá trị nhỏ nhất 78,0 80,0 82,0 Có sự chênh lệch về vòng bụng của các nhóm khác nhau: Nhóm bệnh nhân ĐTĐ có số đo trung bình vòng bụng cao hơn hẳn 2 nhóm còn lại. 14 ca (13,2%) ĐTĐ 6 ca (12,5%) ĐTĐ 35 ca (73,0%) T-ĐTĐ 106 người tự đi xét nghiệm 48 người được hỗ trợ xét nghiệm 154 ca (60,6%) có điểm số NC ≥ 9 100 ca có điểm số NC < 9 254 phiếu được đưa vào xử lý 300 người được tiếp cận 39 Bảng 2: Chỉ số khối cơ thể của các nhóm đối tượng Số đo chỉ số khối cơ thể Nhóm đối tượng Bình thường Tiền ĐTĐ Đái tháo đường Trung bình 25,1 7,8 25,8 3,8 27,2 4,4 Trung vị 25,0 25,2 28,0 Giá trị lớn nhất 30,1 27,8 29,0 Giá trị nhỏ nhất 17,7 20,1 23,2 Có sự khác nhau về chỉ số khối cơ thể ở những nhóm đối tượng khác nhau. Nhóm được xác định mắc ĐTĐ có chỉ số khối cơ thể cao hơn hai nhóm còn lại. 4.3. Mối liên quan giữa đường huyết lúc đói và điểm số nguy cơ Biểu đồ 1: Mối liên quan giữa kết quả đường huyết lúc đói và điểm số nguy cơ Với điều kiện người bệnh chưa được biết là mình bị T-ĐTĐ hoặc ĐTĐ, giả định rằng có mối tương quan hồi quy tuyến tính giữa điểm số nguy cơ và mức đường huyết, và giả sử rằng các biến số khác đã trở nên nhỏ nhất, chỉ còn lại 1 biến là điểm số nguy cơ, công thức tính Y (đường huyết lúc đói) dựa vào X (điểm số nguy cơ) có thể được biểu thị bằng phương trình: Y = a X + b; trong đó: a = 0,30 và b = 3,24. Đường huyết lúc đói = Điểm số nguy cơ x 0,30 + 3,24 Đ ư ờn g hu yế t l ú c đó i Điểm số nguy cơ tính từ bảng VNDRISC 1 40 Những người có điểm số nguy cơ càng cao thì đường huyết lúc đói càng có khuynh hướng tăng. 4.4. Khảo sát thay đổi hành vi sau can thiệp truyền thông Bảng 3: Thay đổi hành vi hoặc đạt được cam kết sau can thiệp Hành vi cần thực hiện Tần số Tỉ lệ (%) Thực hiện thói quen vận động thể lực hàng ngày (n= 254) 215 84,6% Thực hiện việc xét nghiệm đường huyết (n=254) 154 60,6 Thực hiện chế độ ăn phù hợp (n=254) 215 84,6% Sử dụng thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc (n=41) 41 100% Sau can thiệp đa số người dân đã thay đổi hành vi hoặc cam kết thay đổi hành vi: 100% đối tượng sử dụng thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc; 84,6% thực hiện hoạt động thể lực hàng ngày và thực hiện chế độ ăn phù hợp; 60,6% thực hiện xét nghiệm đường huyết. 5. Bàn luận 5.1. Về phương thức tiếp cận Hình thức đưa nhân viên y tế của các khu phố đến tận hộ dân mang theo cân, máy đo huyết áp và thước dây, phỏng vấn và thu thập các thông số liên quan, sau đó tính ra điểm số nguy cơ và khuyến khích người có số điểm nguy cơ cao của bệnh ĐTĐ và TĐTĐ đi xét nghiệm đường huyết lúc đói là mô hình phù hợp với tình hình hiện nay. Việc đào tạo để CTV tại phường xã có đủ năng lực để thực hiện các buổi thăm hộ gia đình với mục tiêu nêu trên là hoàn toàn khả thi. 2. Về bệnh trạng và các yếu tố nguy cơ Việc phát hiện bệnh ĐTĐ và tình trạng T- ĐTĐ đã đem lại lợi ích rất thiết thực: Trong đề tài này, có khoảng 85,5% đối tượng được sử dụng thang điểm VNDRISC 1 thật sự có vấn đề sức khoẻ liên quan tới ĐTĐ. Như vậy, rõ ràng thang điểm VNDRISC 1 có giá trị rất lớn trong việc phát hiện người bệnh bị T- ĐTĐ và ĐTĐ trong cộng đồng. Nếu đem so sánh giá trị thực tế của thang điểm này với thang điểm FINDRISC (khá thông dụng) của Phần Lan, chúng ta thấy thang điểm này cũng có giá trị không thua kém. 41 Tại Hy Lạp, K.Makrilakis, Sliatis và cộng sự (2010) điều tra trên 869 đối tượng ở vùng ngoại ô Athens, có các yếu tố nguy cơ ĐTĐ và T-ĐTĐ bằng thang điểm FINDRISC. Kết quả ghi nhận: FINDRISC ≥ 15 điểm giúp phát hiện ĐTĐ chưa được chẩn đoán với độ nhạy là 81,9%. Một nghiên cứu khác của Đức do J.Li, A. Bergmann, M.Reimann và cộng sự tiến hành để đánh giá tính hữu dụng của thang điểm FINDRISC. Họ phát hiện ĐTĐ chưa được chẩn đoán trên 921 đối tượng có nguy cơ mắc ĐTĐ với kết quả ghi nhận diện tích đường cong ROC của FINDRISC là 0,81 (0,76-0,87). Như vậy, với giá trị thực tế của thang điểm VNDRISC 1, chúng ta có thể sử dụng nó để phát hiện các vấn đề về ĐTĐ trong cộng đồng. Nó cũng là một phương tiện có tính toán, một phương pháp khá thuyết phục để định hướng cho những người 45 tuổi trong cộng đồng tham gia xét nghiệm đường huyết để phát hiện và điều trị. Đối với những người được chẩn đoán là T-ĐTĐ, chúng tôi cũng khuyên họ tham gia sinh hoạt trong các câu lạc bộ ĐTĐ như những người thật sự đã được chẩn đoán là ĐTĐ. Ngoài ra, phương trình tính toán kết quả đường huyết lúc đói căn cứ vào điểm số nguy cơ do chúng tôi thiết lập chẳng qua chỉ là một phương tiện tham khảo. Lý do: Kết quả xét nghiệm đường huyết lúc đói thực chất là một phương trình đa biến chứ không phải chỉ phụ thuộc đơn thuần vào điểm số nguy cơ tính toán từ bất cứ thang điểm nào. 3. Nghiên cứu can thiệp Đối với hầu hết những người bệnh được chẩn đoán là T– ĐTĐ hoặc ĐTĐ, chúng tôi đã có biện pháp xúc tiến các hoạt động nhằm cung cấp, trao đổi thông tin liên quan đến bệnh ĐTĐ. Họ đã tham gia tích cực trong quá trình tăng cường hiểu biết về những vấn đề liên quan đến bệnh ĐTĐ. Một số rào cản đã được quan sát trong quá trình triển khai. Các rào cản chính là: Sự hạn chế khi tiếp cận (do khả năng nghe và tiếp thu); sự bất thuận lợi khi phải di chuyển (do phương tiện đi lại, do thiếu người đưa đi xét nghiệm); thiếu chi phí (không có tiền). Sau can thiệp, người dân đã có sự thay đổi hành vi theo hướng tích cực (gần 85% thực hiện chế độ ăn phù hợp và hoạt động thể lực hàng ngày; 60,6% thực hiện xét nghiệm đường huyết, 100% bệnh nhân dùng thuốc theo hướng dẫn của CBYT). Điều này cho thấy cần tăng cường hơn nữa các hoạt động truyền thông về ĐTĐ để người dân có kiến thức, từ đó thay đổi thái độ và hành vi. 42 6. Kết luận - Tỉ lệ người có điểm số nguy cơ cao bị tiền đái tháo đường và đái tháo đường type 2 là (60,6%). - Với mô hình triển khai, có thể trang bị kiến thức và cách thực hành cho những người mới được phát hiện ĐTĐ hoặc T-ĐTĐ thông qua 3 loại hình truyền thông: thăm hộ gia đình / gửi thư cung cấp thông tin/mời tham dự buổi truyền thông về bệnh ĐTĐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Vy Hậu, Nghiên cứu dự báo nguy cơ đái tháo đường type 2 bằng thang điểm FINDRISC ở bệnh nhân tiền đái tháo đường trên 45 tuổi. Tạp chí của Hội Nội tiết, số 6/2012, trang 11- 21. 2. Nguyễn Văn Vy Hậu, Tầm soát và dự báo tiền đái tháo đường và đái tháo đường type 2 chưa được chẩn đoán ở đối tượng trên 45 tuổi qua một số thang điểm. Tạp chí của Hội Nội tiết, số 6/2012, trang 58- 74.
File đính kèm:
tham_ho_gia_dinh_ket_hop_voi_tam_soat_nguy_co_tien_dai_thao.pdf

