Thai trong ổ bụng: Báo cáo loạt ca
Thai trong ổ bụng là một tình huống lâm sàng hiếm gặp, nằm trong nhóm thai ngoài
tử cung, nhóm bệnh lý chiếm đa số trong 3 tháng đầu thai kỳ phải nhập cấp cứu. Chẩn
đoán thai trong ổ bụng rất khó khăn, thường trong những tình trạng khẩn cấp, nguy hiểm
đến cả sinh mạng của sản phụ và thai nhi. Trong một thống kê 9 trường hợp thai trong ổ
bụng thì chỉ có 1 trường hợp là chẩn đoán được trước mổ. Bởi vì hiếm gặp và nguy cơ tử
vong cho cả mẹ và bé nên việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là điều tối quan trọng.
Chúng tôi xin báo cáo 2 trường hợp thai trong ổ bụng được chẩn đoán bằng siêu âm
vào tam cá nguyệt (TCN) thứ 2 của thai kỳ. Bệnh nhân thứ nhất 39 tuổi, PARA 2002,
được chẩn đoán thai lưu trong ổ bụng khoảng 17 tuần, điều trị không thích hợp với Misoprostol rồi nong gắp thai sau đó được phẫu thuật mở bụng. Bệnh nhân thứ hai, 36 tuổi,
PARA 1021, thai khoảng 20 tuần, HIV dương tính, nhập khoa cấp cứu trong tình trạng
đau bụng cấp, được chẩn đoán thích hợp và điều trị phẫu thuật mở bụng kèm MTX đa
liều sau đó.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thai trong ổ bụng: Báo cáo loạt ca
34 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 THAI TRONG Ổ BỤNG: BÁO CÁO LOẠT CA ĐINH THẾ HOÀNG* VƯƠNG ĐÌNH BẢO ANH** VÕ MINH TUẤN*** TÓM TẮT Thai trong ổ bụng là một tình huống lâm sàng hiếm gặp, nằm trong nhóm thai ngoài tử cung, nhóm bệnh lý chiếm đa số trong 3 tháng đầu thai kỳ phải nhập cấp cứu. Chẩn đoán thai trong ổ bụng rất khó khăn, thường trong những tình trạng khẩn cấp, nguy hiểm đến cả sinh mạng của sản phụ và thai nhi. Trong một thống kê 9 trường hợp thai trong ổ bụng thì chỉ có 1 trường hợp là chẩn đoán được trước mổ. Bởi vì hiếm gặp và nguy cơ tử vong cho cả mẹ và bé nên việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là điều tối quan trọng. Chúng tôi xin báo cáo 2 trường hợp thai trong ổ bụng được chẩn đoán bằng siêu âm vào tam cá nguyệt (TCN) thứ 2 của thai kỳ. Bệnh nhân thứ nhất 39 tuổi, PARA 2002, được chẩn đoán thai lưu trong ổ bụng khoảng 17 tuần, điều trị không thích hợp với Miso- prostol rồi nong gắp thai sau đó được phẫu thuật mở bụng. Bệnh nhân thứ hai, 36 tuổi, PARA 1021, thai khoảng 20 tuần, HIV dương tính, nhập khoa cấp cứu trong tình trạng đau bụng cấp, được chẩn đoán thích hợp và điều trị phẫu thuật mở bụng kèm MTX đa liều sau đó. Kết luận: Thai trong ổ bụng vô cùng khó khăn trong chẩn đoán đồng thời là 1 tình trạng đe dọa tính mạng, cơ hội cứu sống bệnh nhân cao hơn nếu chúng ta cảnh giác và nghĩ đến chẩn đoán này. Nhanh chóng thực hiện phẫu thuật, kỹ năng phẫu thuật viên (PTV) tốt, truyền máu bồi hoàn thể tích và theo dõi chăm sóc hậu phẫu tích cực là yếu tố sống còn trong điều trị. Từ khóa: thai trong ổ bụng, thai ngoài tử cung, Methotrexate ABDOMINAL PREGNANCY: CASES SERIES ABSTRACT Introduction: Abdominal pregnancy (AP), a rare diagnosis, belongs to the ectopic preg- nancy group, the leading cause of pregnancy related emergency situation. The positive diagnosis is very difficult to establish most often in an acute setting, leading to a stagger- ing percent of feto-maternal morbidity and mortality. In one series only one in nine women who arrived alive in hospital had the correct preoperative diagnosis, because of the rarity and associated mortalityof abdominal pregnancies, earlydiagnosis and early recourse to intervention is paramount. * BS Nội trú, Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM ** BS CKII, Khoa sản A, Bệnh viện Từ Dũ *** PGS. TS., Bộ môn Phụ Sản, ĐHYD Tp. HCM. DĐ: 0909727199. Email: [email protected] 35 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIỚI THIỆU Thai trong ổ bụng là hình thái thai nằm trong khoang ổ bụng và ngoài tử cung cũng như tai vòi. Thai trong ổ bụng được chia thành 2 nhóm: nguyên phát, tức là phôi thai được thụ tinh và sau đó xâm lấn trực tiếp vào các cấu trúc trong ổ bụng như gan, lách, mạc nối lớn, ruột, bàng quang; và thứ phát là quá trình phôi thai được thụ tinh và hình thành thai trong tử cung hay trong vòi trứng nhưng bị sẩy qua loa vòi rơi vào ổ bụng gặp được điều kiện thuận lợi sau đó tiếp tục phát triển và hình thành thai trong ổ bụng. Trong 2 cơ chế nêu trên, nhóm thứ phát chiếm đa số trong hình thái thai trong ổ bụng. Tỷ lệ thai ngoài tử cung trong ổ bụng khoảng 10,9/10.000 trẻ sinh sống và có xu hướng giảm dần nhờ vào các công cụ chẩn đoán sớm hiện nay. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong mẹ của thai trong ổ bụng lại cao hơn nhiều lần so với thai ở vòi trứng và gấp 90 lần so với thai trong tử cung. Mặc dù vậy, số trường hợp bệnh được báo cáo vẫn còn rất ít. Hầu hết các tài liệu hiện nay về tình trạng này đều dựa trên các báo cáo case đơn lẻ trên toàn thế giới. Thai trong ổ bụng đưa đến một tình Case report: We present two cases of abdominal pregnancy. The first case was a patient who was 39 years-old, PARA 2002, 17th week of gestation, stillbirth but inappro- priate diagnosis. This case was prescribed Misoprostol before Dilatation and curettage (D and C) then we performed laparotomy. The second, 36 years-old, PARA 1021, 20th week of gestation, HIV positive, administrated to emergency department with acute ab- dominal pain, satisfied laparotomy and followed-up methotrexate (MTX) multi-doses. Conclusion: Abdominal pregnancy can be regarded as a difficult to establish diagnosis, with a greater chance in case of increased awareness and this is a life threatening situation. Quick intra-operative recognition, surgical skill, immediate availability of blood products, intensive post-operative care and monitoring are vital for saving such type of patients. Key words: Abdominal pregnancy, ectopic pregnancy, methotrexate trạng tiên lượng rất xấu cho cả mẹ và bé, chính vì vậy, việc chẩn đoán sớm và đưa ra một phương án điều trị tối ưu là vấn đề các nhà lâm sàng học cần phải quan tâm hiện nay. BỆNH ÁN Trường hợp 1: Bệnh nhân 39 tuổi, PARA 2002 (2 lần sanh thường năm 1999, 2000) nhập viện vì chẩn đoán ngoại viện thai vô ối. Bệnh nhân vô kinh khoảng 4, 5 tháng, không đi khám thai, thấy bụng to dần ra kèm cảm giác căng tức vùng ngực, nôn ói, mệt mỏi, đau trằn bụng đi siêu âm tại phòng khám tư phát hiện thai sống khoảng 17 tuần, vô ối chuyển đến bệnh viện chúng tôi. Tiền căn: Ung thư buồng trứng đã điều trị cách nay 13 năm, di căn được phẫu thuật làm hậu môn nhân tạo đoạn đại tràng trái. Hen điều trị cắt cơn bằng Ven- tolin, hiện ổn. Sau nhập viện, bệnh nhân không có triệu chứng gì đặc biệt, được siêu âm nhiều lần với kết quả thai khoảng 17 tuần lưu, vô ối, tư vấn tiền sản bệnh nhân đồng ý chấm dứt thai kỳ và đặt Misoprostol 200 mcg × 14 viên để chuẩn bị CTC cho nong gắp thai, sau nong gắp không phát hiện 36 Bóc tách và lấy khối thai ra khỏi ổ bụng Khối thai nằm hoàn toàn trong ổ bụng thấy thai đề nghị hội chẩn bác sĩ chẩn đoán hình ảnh. Chẩn đoán: Thai lưu 17 tuần trong ổ bụng/ VMC K buồng trứng. Mổ mở thấy khối thai trong ổ bụng nằm ở hông trái, nhau thai và dây rốn bám vào phần phụ phải, tử cung kích thước bình thường và phần phụ trái không quan sát thấy vì rất dính, tiến hành cắt phần phụ phải, lấy khối thai ra 1 bé trai 300 gram, cầm máu kĩ, dẫn lưu ổ bụng, truyền 2 đơn vị hồng cầu lắng 350 ml. Hậu phẫu 7 ngày bệnh nhân ổn và được xuất viện tái khám theo lịch hẹn không ghi nhận bất thường. Bệnh án 2: Bệnh nhân 36 tuổi, PARA 1021 (1 lần sanh thường, 1 lần thai ngoài tử cung, 1 lần thai lưu) nhập viện vì đau bụng cấp, bệnh nhân vô kinh 5 tháng hoàn toàn không đi khám thai vì bị HIV 10 năm không điều trị, nhập viện trong tình trạng sinh hiệu ổn, đau bụng mức độ nặng 2 ngày, không ra huyết âm đạo, sờ thấy rõ khối thai dưới thành bụng, ngoài ra không ghi nhận triệu chứng khác, siêu âm ghi nhận thai sống #20 tuần, không thấy lớp cơ tử cung bao quanh khối thai, thấy các chi và đầu thai ngay phía dưới thành bụng, ít dịch trong ổ bụng. Hội chẩn mổ cấp cứu với chẩn đoán: Vỡ tử cung/thai 20 tuần, chẩn đoán phân biệt thai trong ổ bụng. Mổ mở đường dọc giữa dưới rốn thấy thai trong ổ bụng, còn nguyên bọc ối, nhau thai bám vào mặt sau tử cung và mặt trước đại tràng xuống trực tràng, cùng đồ sau. Chúng tôi tiến hành lấy khối thai là bé gái, 350 gram, APGAR 0/0 và cắt lọc mô nhau bám vào mặt sau tử cung, mặt trước đại trực tràng. Tuy nhiên vì nguy cơ chảy máu và tổn thương đại trực tràng, chúng tôi quyết định chừa 1 phần mô nhau dính chặt vào các cấu trúc này, cầm máu, dẫn lưu ổ bụng và tiêm MTX sau đó. Bệnh nhân được tiêm 4 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 37 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC liều MTX, xuất viện 8 ngày sau đó và theo dõi β-hCG cho đến khi âm tính, tái khám theo lịch không ghi nhận bất thường. Khối thai và nhau sau khi đã bóc tách Cắt lọc mô nhau và cầm máu BÀN LUẬN Thai trong ổ bụng được định nghĩa là thai nằm trong khoang ổ bụng và ngoài tử cung cũng như tai vòi [1-4]. Trong y văn ngày nay, chúng ta chia thai trong ổ bụng ra 2 nhóm: nguyên phát và thứ phát. Nguyên phát tức là phôi thai được thụ tinh và sau đó xâm lấn trực tiếp vào các cấu trúc trong ổ bụng như gan, lách, mạc nối lớn, ruột, bàng quang Cá biệt có những trường hợp thai ở ngay tĩnh mạch chậu hay cạnh động mạch thận. Thứ phát là quá trình phôi thai được thụ tinh và hình thành thai trong tử cung hay trong vòi trứng nhưng bị sẩy qua loa vòi rơi vào ổ bụng gặp được điều kiện thuận lợi trong ổ bụng như viêm dính nhiều, sau đó tiếp tục phát triển và hình thành thai trong ổ bụng thứ phát. Nhóm thứ phát chiếm đa số trong hình thái thai trong ổ bụng [1, 4, 5]. Thai ổ bụng nguyên phát: Do nguyên bào nuôi bám tại ổ bụng ngay từ đầu, là trường hợp hiếm gặp của thai ổ bụng. Tiêu chuẩn chẩn đoán thai ổ bụng nguyên phát được Studdiford đưa ra lần đầu tiên vào năm 1942 gồm: (1) Cả hai buồng trứng và vòi trứng bình thường, không có bằng chứng của tổn thương gần đây hoặc trước đó; (2) Chẩn đoán cần xác định được tình trạng vòi trứng và buồng trứng bình thường, không có đường dò tử cung và nhau từ một tử cung đã bị vỡ; và (3) Vị trí bám của túi thai trên bề mặt phúc mạc mà thôi. Thai ổ bụng nguyên phát thường sẩy sớm trước 12 tuần. Thai ổ bụng thứ phát: Xảy ra khi nhau của túi thai bám ở vòi trứng, thai trong tử cung đi khỏi vị trí bám ban đầu của nó và dính vào nội tạng khác. Bánh nhau vẫn còn sống bởi vì một phần máu nuôi vẫn còn được duy trì. Tiến trình có thể được cho là sẩy thai ở vòi trứng, với sự phát triển bánh 38 nhau ở ngoài vòi trứng. Thai ổ bụng thứ phát thường diễn tiến sau 12 tuần thai. [1, 3, 6] Cả hai trường hợp chúng tôi báo cáo đều không thể phân biệt được sinh lý bệnh là nguyên phát hay thứ phát vì cả 2 bệnh nhân đều không đi khám thai đầy đủ, và cũng không đủ bằng chứng để khẳng định, 1 trường hợp thai bám vào mặt sau tử cung và đại tràng có vẻ hướng về phía nguyên phát vì cấu trúc tử cung và vòi trứng nguyên vẹn, trường hợp còn lại nhau và dây rốn bám vào phần phụ phải có thể hướng về phía thứ phát do thai ngoài ở vòi trứng vỡ dẫn đến thai rơi vào ổ bụng và nhau và dây rốn vẫn bám vào cấu trúc vòi trứng vỡ để tiếp tục phát triển. Tỉ lệ tử vong mẹ của thai trong ổ bụng 0,5-20%, cao gấp 7,7 lần so với thai ở vòi trứng và gấp 90 lần so với thai trong tử cung tại Hoa Kỳ [3, 7, 8]. Thai trong ổ bụng có 10-25% cơ hội sống sót. Tuy nhiên, 20-40% trẻ sinh sống sẽ bị dị dạng và chỉ có 50% sẽ sống sót sau 1 tuần. Hơn nữa, dị dạng thai như vẹo cổ, bất cân xứng khuôn mặt, biến dạng chi, đầu dẹt, và dị dạng lồng ngực có thể xảy ra ở những trường hợp thiểu ối nặng trong môi trường ở ngoài tử cung. [2, 3, 9] Ngoài ra, ngày nay người ta còn chọn điểm cắt 20 tuần tuổi thai để chia ra: thai trong ổ bụng sớm (Early abdominal pregnancy, EAP) và thai trong ở bụng trễ (Advanced abdominal pregnancy, AAP). Với những thai kỳ hơn 20 tuần tiên lượng cho mẹ là trầm trọng hơn vì thai đã lớn, chiếm thể tích trong ổ bụng và nhau thai có thể đã xâm lấn nhiều vào các cấu trúc trong ổ bụng, đặc biệt là những cơ quan quan trọng như gan, lách hay mạch máu lớn, nguy cơ chảy máu ồ ạt, DIC hay tổn thương các cơ quan này dẫn đến tử vong đến 20% [1, 8, 10-13]. Trong bài báo cáo này chúng tôi có 2 trường hợp, 1 trường hợp EAP thai 17 tuần và 1 trường hợp AAP thai hơn 20 tuần, việc điều trị cả 2 bệnh nhân đều vô cùng khó khăn, thách thức, đòi hỏi 1 ekip gồm nhiều nhân viên y tế có kinh nghiệm, PTV xuất sắc, đội ngũ hồi sức và chăm sóc hậu phẫu tích cực. May mắn thay, cả 2 trường hợp đều diễn tiến tốt, và không ghi nhận biến chứng nào trong điều trị. Tỷ lệ thai ngoài tử cung trong ổ bụng khoảng 10,9/10.000 trẻ sinh sống [3, 7, 8], số lượng ngày càng giảm mặc dù xu hướng thai ngoài tử cung ngày càng tăng dần, có thể do sự tiến bộ trong y học, chẩn đoán và điều trị những trường hợp thai ngoài tử cung ở đoạn bóng vỡ kịp thời. Mặt khác, khái niệm “ngưỡng phân định” β-hCG và siêu âm ngã âm đạo hay ngã bụng trong chẩn đoán thai ngoài đã cho phép điều trị những trường hợp thai ngoài tử cung sớm (bao gồm cả thai trong ổ bụng nguyên phát) bằng MTX. [3, 7] Chẩn đoán thai trong ổ bụng là một thách thức, một thống kê trong 10 trường hợp thai trong ổ bụng thì có tới 9 trường hợp chỉ chẩn đoán được sau khi phẫu thuật mà trước đó không hề được nghĩ tới [2, 4]. Yếu tố nguy cơ: IVF, ứ dịch vòi trứng, endometriosis, lạc nội mạc trong cơ tử cung, viêm vùng chậu, dính trong ổ bụng [1-4, 8,13]. Triệu chứng rất mơ hồ hoặc đôi khi là vô cùng rầm rộ, nguy kịch. Trong y văn, triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng trằn hoặc đau trên xương vệ (100%), buồn nôn, nôn (70%), ngôi bất thường (70%), sờ thấy khối thai hay phần thai ngay dưới thành bụng, đau bụng nhiều sau cử động thai (40%)... [1-3, 8, 10]. Không có bất kỳ xét nghiệm nào đặc hiệu cho thai THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 39 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC trong ổ bụng, chỉ thấy rằng AFP có tăng, siêu âm là công cụ rất giá trị trong chẩn đoán: buồng tử cung rỗng, thấy phần thai nằm sát thành bụng, không có cơ tử cung nằm giữa bàng quang và thai, ngôi bất thường, vô ối, dịch ổ bụng, bất thường Doppler động mạch rốn. MRI có thể được chỉ định khi siêu âm cho hình ảnh không rõ ràng, chẩn đoán xác định khi nội soi ổ bụng hoặc mở bụng chẩn đoán và điều trị [1-3, 8]. Trong 2 trường hợp trên, chúng tôi đều không nghĩ đến thai trong ổ bụng đầu tiên, ca thứ nhất thật sự khó khăn do thai đã lưu trong ổ bụng, triệu chứng mơ hồ giống 1 thai kỳ bình thường, hình ảnh siêu âm đầu tiên cho thấy thai trong tử cung khiến chúng tôi can thiệp thủ thuật nong gắp thai, sau đó chính diễn tiến lâm sàng đã dẫn đến chẩn đoán thai trong ổ bụng và chẩn đoán được xác lập thông qua phẫu thuật. Có lẽ do tình trạng viêm dính do vết mổ cũ và thai lưu sớm trong ổ bụng gây khó khăn cho khảo sát hình ảnh học kèm lâm sàng rất mơ hồ, không rầm rộ khiến các bác sĩ đã bỏ lỡ chẩn đoán. Trường hợp thứ 2, lâm sàng đau bụng rầm rộ, nhập viện cấp cứu với hình ảnh siêu âm phần thai trong ổ bụng khiến chúng tôi nghĩ ngay đến vỡ tử cung (1 tình huống thường gặp hơn) tuy nhiên với một số yếu tố gợi ý như sinh hiệu ổn, không tiền căn vết mổ trên cơ tử cung, dịch ổ bụng lượng ít khiến các bác sĩ vẫn chưa loại trừ 1 trường hợp thai trong ổ bụng, và chẩn đoán được xác lập sau phẫu thuật. Tóm lại, ngay cả các bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm, chẩn đoán thai trong ổ bụng vô cùng khó khăn và chỉ khi chúng ta nghĩ đến bệnh lý này thì mới có thể đưa ra chẩn đoán chính xác. Có nhiều cách tiếp cận điều trị thai trong ổ bụng, phụ thuộc vào tuổi thai và tình trạng lâm sàng của mẹ. Giống như các hình thái thai ngoài tử cung khác, điều trị nội khoa bằng MTX toàn thân, tại chỗ có thể kèm theo hủy thai bằng KCL, Glucose ưu trương được ưu tiên khi thai trong ổ bụng giai đoạn sớm hay thai bám vào các cơ quan có thể gây chảy máu đe dọa tính mạng khi phẫu thuật như gan, lách, mạch máu lớn [1, 3, 4] Thật không may, đối với thai giai đoạn trễ vai trò của MTX không thật sự lớn vì lúc này thai đã lớn, bánh nhau đã hoàn thiện hoặc tình trạng sinh hiệu người mẹ không ổn định. Phẫu thuật lúc này là lựa chọn hàng đầu, vừa là để chẩn đoán và điều trị. Thai < 24 tuần, điều trị phẫu thuật là cần thiết. Nếu tuổi thai > 24 tuần và thai nhi còn sống vẫn có thể theo dõi thai kỳ đến 34 tuần nếu bệnh nhân tha thiết mong con. Tuy nhiên, trong trường hợp này thai phụ phải được nhập viện, có ekip bác sĩ chăm sóc trước sinh, hồi sức luôn sẵn sàng. Nếu thai hơn 24 tuần, đã chết cần trì hoãn phẫu thuật 3-4 tuần để cho máu nuôi của bánh nhau suy giảm và cần kiểm tra chức năng đông máu để loại trừ DIC [1, 6,8]. Hiện tại, chưa có sự thống nhất trong cách xử trí bánh nhau trong khi mổ thai trong ổ bụng, “cân bằng lợi ích và nguy cơ” là quan điểm được nhắc đến. Nếu chừa lại bánh nhau sẽ giảm chảy máu, tổn thương cơ quan nội tạng nhưng lại đối diện nguy cơ tắc Hình ảnh siêu âm thai trong ổ bụng (Nguồn: Thefetus.net) 40 ruột, nhiễm trùng, áp xe, viêm phúc mạc, chảy máu thứ phát, bệnh lý nguyên bào nuôi tồn tại [1, 2, 8]. Nếu lấy hết bánh nhau thì giảm những nguy cơ đã kể trên nhưng lại có thể gây chảy máu ồ ạt (đặc biệt khi nhau bám vào gan, lách, mạch máu lớn và tăng sinh mạch máu nhiều), tổn thương các tạng như ruột, bàng quang, niệu quản, dạ dày, nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Điều trị thai trong ổ bụng là cả một nghệ thuật, 2 trường hợp của chúng tôi, việc phẫu thuật đặt ra là vô cùng hợp lý, vừa chẩn đoán và đưa ra phương pháp điều trị phù hợp, an toàn mang lại tiên lượng rất tốt cho sản phụ. Trong trường hợp 1, chúng tôi phẫu thuật triệt để, lấy toàn bộ khối thai và nhau vì khối thai bám vào phần phụ phải, một vị trí không có nguy cơ gây tổn thương cơ quan quan trọng trong ổ bụng. Trường hợp 2, chúng tôi không thể lấy triệt để toàn bộ bánh nhau vì bánh nhau bám chặt vào trực tràng và cùng đồ sau, nếu lấy triệt để nguy cơ có thể tổn thương đại trực tràng, chảy máu khó cầm vì vậy chúng tôi tiến hành cắt lọc khối nhau, cầm máu và sau đó trong thời gian hậu phẫu điều trị hỗ trợ MTX làm tiêu khối nhau bám thành công. KẾT LUẬN Thai trong ổ bụng là tình trạng thai ngoài tử cung rất hiếm gặp và gây nhiều khó khăn trong chẩn đoán, điều trị. Điều tiên quyết trong quản lý là chẩn đoán sớm, chính xác đem lại tiên lượng tốt cho cả sản phụ và thai nhi. Nguy cơ cho mẹ và bé là rất lớn cho nên cần một đội ngũ nhân viên y tế xuất sắc về chuyên môn, dày dạn kinh nghiệm để cùng nhau giải quyết “bài toán” hóc búa này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agarwal, Nilesh, Odejinmi, Funlayo,, Early Abdominal Ectopic Pregnancy: Challenges, Update and Review of Current Management. The Obstetrician & Gynaecologist, 2014. 16(3): p. 193-198. 2. Bohiltea R, Radoi V, Tufan C, Horhoianu IA, Bohiltea C,, Abdominal Pregnancy - Case Presentation. Journal of Medicine and Life, December 17th, 2014. 8(1): p. 49-54. 3. F. Gary Cunningham, Kenneth J. Leveno, Steven L. Bloom, Catherine Y. Spong, Jodi S. Dashe, Barbara L. Hoffman, Brian M. Casey, Jeanne S. Sheffield,, Ectopic Pregnancy, in Williams Obstetrics 24th. 2014. p. 377-395. 4. Yildizhan, R., A. Kolusari, F. Adali, E. Adali, M. Kurdoglu, C. Ozgokce, and N. Cim, Primary Abdominal Ectopic Pregnancy: A Case Report. Cases J, 2009. 2: p. 8485. 5. Hsieh, C. H., T. Y. Hsu and C. C. Changchien, Abdominal Pregnancy--Report of Two Cases and Review of Literature. Changgeng Yi Xue Za Zhi, 1994. 17(3): p. 268-75. 6. Mengistu, Z., A. Getachew and M. Adefris, Term Abdominal Pregnancy: A Case Report. J Med Case Rep, 2015. 9: p. 168. 7. Bùi Chí Thương, Nguyễn Chí Quang, Âu Nhựt Luân,, Thai Ngoài Tử Cung, in Team Base Learning. 2014: Bộ Môn Sản Đại Học Y Dược TP HCM. 8. Sharma, Reena, Amit Gupta, Neelam Mahajan, Anju Vij, Ankit Shukla and Versha Verma, Ad- vanced Abdominal Ectopic Pregnancy with Alive Fetus: A Rare Case Report. Vol. SEAJCRR. 2016. 2016. 2226-2231. THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 41 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 9. Matovelo, D. and N. Ng’walida, Hemoperitoneum in Advanced Abdominal Pregnancy with a Live Baby: A Case Report. BMC Res Notes, 2014. 7: p. 106. 10. Brewster, E. M., Sr. Braithwaite, E. A., Brewster, E. M., Jr.,, Advanced Abdominal Pregnancy: A Case Report of Good Maternal and Perinatal Outcome. West Indian Med J, 2011. 60(5): p. 587-9. 11. Gidiri, M. F. and M. Kanyenze, Advanced Abdominal Ectopic Pregnancy: Lessons from Three Cases from Zimbabwe and a Literature Appraisal of Diagnostic and Management Challenges. Wom- ens Health (Lond), 2015. 11(3): p. 275-9. 12. Huang, K., L. Song, L. Wang, Z. Gao, Y. Meng and Y. Lu, Advanced Abdominal Pregnancy: An Increasingly Challenging Clinical Concern for Obstetricians. Int J Clin Exp Pathol, 2014. 7(9): p. 5461-72. 13. Nkusu Nunyalulendho D, Einterz EM, Advanced Abdominal Pregnancy: Case Report and Review of 163 Cases Reported since 1946. Rural Remote Health, 2008. 8(4): p. 1087.
File đính kèm:
thai_trong_o_bung_bao_cao_loat_ca.pdf

