Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai

Khớp vai là khớp linh hoạt nhất của cơ thể. Nó có nhiều động tác, động tác của cánh tay (ra trước, ra sau, lên trên, vào trong, ra ngoài, xoay tròn) và động tác của riêng vai (lên trên, ra trước, ra sau) . Khớp vai có vận động linh hoạt nhưng bao khớp mỏng, lỏng lẻo, dây chằng không đủ chắc nên nó cũng dễ bị tổn thương nhất. Trong đó bệnh lý viêm quanh khớp vai (VQKV) là tổn thương rất hay gặp. VQKV là tên gọi của các trường hợp đau và hạn chế vận động khớp vai mà tổn thương ở phần mềm quanh khớp vai chủ yếu là gân, cơ, dây chằng, bao khớp

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai

Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
113
Khớp vai là khớp linh hoạt nhất của 
cơ thể. Nó có nhiều động tác, động tác 
của cánh tay (ra trước, ra sau, lên trên, 
vào trong, ra ngoài, xoay tròn) và động 
tác của riêng vai (lên trên, ra trước, ra 
sau) . Khớp vai có vận động linh hoạt 
nhưng bao khớp mỏng, lỏng lẻo, dây 
chằng không đủ chắc nên nó cũng dễ bị 
tổn thương nhất. Trong đó bệnh lý viêm 
quanh khớp vai (VQKV) là tổn thương 
rất hay gặp. VQKV là tên gọi của các 
trường hợp đau và hạn chế vận động 
khớp vai mà tổn thương ở phần mềm 
quanh khớp vai chủ yếu là gân, cơ, dây 
chằng, bao khớp.
Điều trị VQKV có nhiều phương 
pháp như điều trị bằng thuốc, điều trị 
bằng y học cổ truyền, điều trị phẫu thuật 
với thể đứt rách dây chằng chóp xoay. 
Đặc biệt điều trị bằng các tác nhân vật 
lý kết hợp tập vận động là phương pháp 
được lựa chọn tối ưu nhất với cả thầy 
thuốc và bệnh nhân được điều trị. Với 
những bệnh nhân đến điều trị tại khoa 
Vật Lý Trị Liệu – Phục Hồi Chức Năng 
(VLTL-PHCN) Bệnh viện Quân Y 175 
sau khi được hướng dẫn tập bài tập Dịch 
cân kinh kết hợp, tập hàng ngày, tại nhà 
đã đem lại kết quả điều trị rất khả quan 
và nhận được nhiều phản hồi tích cực từ 
phía người bệnh, không chỉ riêng bệnh 
lý khớp vai mà tình trạng sức khỏe cũng 
các như bệnh lý khác cải thiện rõ.
Dịch Cân Kinh hay Đạt Ma Dịch 
Cân Kinh hay Vẩy tay Đạt Ma Dịch 
Cân Kinh do Đạt Ma Sư tổ, sư trụ trì đầu 
tiên chùa Thiếu Lâm truyền đạt. Năm 
Đinh Sửu (theo công lịch là năm 917) 
nhà sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung 
Quốc thuyết pháp, truyền giáo rồi ở lại 
Trung Sơn, Hà Nam (của Trung Hoa) 
xây dựng Thiếu Lâm Tự (Chùa Thiếu 
Lâm). Việc truyền tụng một tín ngưỡng 
mới, khác với niềm tin cũ của người bản 
xứ, thường dễ sảy ra mâu thuẫn, xung 
đột nên các đệ tử của Ông vừa lo tu 
TẬP DỊCH CÂN KINH HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ 
VIÊM QUANH KHỚP VAI
(Yijin Jing exercises in Periarthritis humeroscapularis treatment)
Trần Quang Khang1, Vũ Đăng Quyền 1
Nguyễn Ngọc Phương Trang1, Phan Thế Anh1
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Trần Quang Khang ([email protected] )
Ngày nhận bài: 09/10/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/10/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
114
dưỡng, học Phật pháp, vừa phải ra công 
luyện tập võ nghệ để tự vệ. Từ đó môn 
võ Thiếu Lâm ra đời và tồn tại mãi đến 
ngày nay.
Nhiều người xin nhập môn nhưng 
thể chất kém không thể luyện võ được. 
Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập 
luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch 
Cân Kinh.
“Dịch – thay đổi, Cân – gân cốt, 
Kinh – sách quí”
Cách tập này rất đơn giản, chỉ cần 
kiên trì tập vẩy tay đúng phương pháp 
là sẽ đạt hiệu quả rất lớn: ăn ngon, 
ngủ tốt, gân cốt thư thái sức khỏe tăng 
cường và đặc biệt là trừ được bệnh tật 
như: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, 
hen xuyễn, các bệnh tim mạch, các bệnh 
dạ dày, đường ruột, thận, gan, ống mật, 
trĩ nội  rồi bán thân bất toại, đột quỵ, 
méo mồm lệch mắt,  đều tiến triển 
rất tốt. Nhất là các loại bệnh mãn tính 
của người cao tuổi hay gặp là thoái hóa 
cột sống, thoái hóa xương khớp. Trong 
đó có bệnh lý Viêm quanh khớp vai rất 
thường gặp ở cả người cao tuổi cũng 
như người trẻ tuổi do những nguyên 
nhân khác nhau.
Phương pháp tập luyện:
Trước khi tập, chọn nơi thoáng mát, 
yên tĩnh càng tốt, đứng bình tĩnh cho 
tâm được thoải mái, đầu óc được thư 
thái để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. 
Có thể làm những động tác khởi động 
nhẹ nhàng thoải mái. Phải đi chân trần 
và đứng trên một tấm thảm lót chân 
hoặc bất cứ miếng đệm lót nào, nhằm 
ngăn cách sự tiếp xúc của bàn chân với 
mặt đất, nếu không luồng điện sinh học 
trong quá trình tập luyện sẽ bị thất thoát 
làm bài tập hiệu quả không cao.
 Đứng thẳng người ưỡn ngực ra để 
cột sống được tự nhiên, hai bàn chân 
song song với nhau dạng ra, ngang với 
tầm vai của mình. Co các đầu ngón chân 
lại, bám chặt vào mặt thảm như vậy bắp 
chân và đùi sẽ săn chắc. Thót hậu môn 
_ niệu đạo lại, giống như động tác nín 
đi cầu và nín đi tiểu, như vậy tầng sinh 
môn, mông và vùng tiểu khung cũng sẽ 
săn chắc, đồng thời thả lỏng cơ thể từ 
vùng thắt lưng trở lên. Suốt buổi tập hai 
chân như trồng cây xuống đất, từ thắt 
lưng trở xuống luôn luôn cứng chắc, 
không suy chuyển. Tóm lại đó là tư thế 
đứng tấn của người luyện võ, cả buổi 
tập phải làm đúng như thế, nếu không 
công phu luyện tập sẽ mất gần hết không 
mang lại kết quả mong muốn.
Đầu như dây treo để cổ được thẳng, 
mặt hướng về phía trước, mắt nhìn một 
điểm cao hơn mình một tý để cổ không 
chùng xuống. Miệng ngậm tự nhiên, 
hai hàm răng chạm nhau, lưỡi chạm 
vùng lợi giữa hai chân răng hàm trên, 
để luồng điện được lưu thông. Hơi thở 
bình thường, tư tưởng tập trung trên 
đỉnh đầu.
Ở mỗi bàn tay, năm ngón tay luôn 
dính vào nhau, thả lỏng tự nhiên chứ 
không xòe ra. Khi đánh tay, lòng bàn 
tay hướng về phía sau( tức mu tay 
hướng ra trước). Động tác duy nhất là 
đánh hai tay từ phía sau. Khi đưa hai tay 
ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với 
thân người một góc 30 độ, Khi đánh tay 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
115
ra phía sau một góc 60 độ. Tóm lại, khi 
đánh hết tay thì đưa tay ra phía trước chỉ 
là một cái trớn, không dùng sức, chỉ do 
quán tính của việc đánh tay từ phía sau 
còn lại mà thôi, do đó chỉ có 30 độ. Mỗi 
lần đánh tay từ phía trước ra phía sau thì 
tính một cái đánh tay (thời gian 1 giây).
Trên phải không, dưới nên có 
(thượng hư hạ thực). Đầu nên lơ lửng, 
miệng không hoạt động, bụng phải 
mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm 
dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng 
và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại 
phía sau, ngón tay khép tự nhiên. Khi 
vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót 
chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân 
phải cứng, ngón chân bấm chặt đất như 
trên đất trơn. Đây là những quy định cụ 
thể của các yếu lĩnh khi luyện “Vẩy tay 
Đạt Ma Dịch Cân Kinh’. Dựa trên yêu 
cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành 
trở lên, phải giữ cho được trống không, 
buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ 
ngợi lung tung, chỉ chú ý tập chung vào 
tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có 
cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ 
tự nhiên (không mím môi), ngực nên 
buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, 
cánh tay buông tự nhiên, giống như hai 
mái trèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở 
xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, 
bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, 
mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, 
giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái 
căng thẳng, xương mông thẳng như cây 
gỗ.
Khi vẩy tay cần nhớ “lên không, 
xuống có”, nghĩa là lấy sức vẩy tay về 
phía sau, khi tay trở lại phía trước là do 
quán tính, không dùng sức đưa ra phía 
trước.
“Trên ba, dưới bảy” là phần trên để 
lỏng chỉ độ 3 phần khí lực, phần dưới 
lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn 
đề này phải thấu hiểu đầy đủ thì hiệu 
quả mới tốt.
Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ 
ngợi có thể nhẩm đếm lần vẫy tay.
MỘT SỐ ĐIỂM CẨN CHÚ Ý
Tập đúng: Tập phải tuân theo yếu 
lĩnh như trên.
Tập đủ: Thời gian tập phải đủ 30 
phút, 30 phút mới là đạt yêu cầu cho một 
lần tập. Tương ứng với số lần vẩy tay 
không nên ít: từ 600 lần đến 1.800 lần 
cho một bài tập. Tập được đến khoảng 
20 phút mà thấy trung tiện nhiều chứng 
tỏ hiệu quả tập rất tốt.
Tập đều: Khi đã tập thì tập thường 
xuyên, tập hàng ngày kể cả các ngày lễ, 
tết. Bài tập thường sẽ có hiệu quả sau 3 
đến 6 tháng tập liên tục. Nếu tập gián 
đoạn vì một lý do nào đó thì hiệu quả 
không cao, dẫn đến mất niềm tin vào bài 
tập. Vì vậy cần phải kiên trì duy trì bài 
tập hàng ngày ít nhất vào buổi sáng sớm 
sau khi thức dậy hoặc buổi tối trước khi 
đi ngủ.
Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà 
vẫy tay, tuy ngồi nhưng vẫn phải nhớ 
thót đít và bấm 10 ngón chân
Số buổi tập: Có thể tập càng nhiều 
càng tốt. Ngưỡng cửa của sự chuyển 
biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh 
nhân vẫy 3.000 tới 6.000. Nếu sau khi 
tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
116
điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ 
con số ta tập là thích hợp.
Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc 
thì nên chậm, chứ không nên nhanh. 
Bình thường vẫy 1.800 cái hết 30 phút. 
Vẫy tay tới lúc nửa trừng thường nhanh 
hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục 
động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng 
và chậm một chút. Khi đã thuần thì hẹp 
vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh 
và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì 
nên vẫy chậm và hẹp vòng.
Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim 
đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không 
đạt tới mục đích luyện tập là cần cho 
mạch máu lưu thông
Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, 
nặng hay nhẹ ? Vẫy tay là môn thể dục 
chữa bệnh chứ không phải môn thể thao 
đặc biệt. Đây là môn thể dục mền dẻo, 
đặc biệt là không dùng sức. Nhưng nếu 
vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp 
vai không được lắc mạnh thì lưng và 
ngực, cũng không được.
Tóm lại đây là bài tập kinh điển, 
tổng hợp động tác của nhiều bài tập 
hiện đại như bài tập Kegel điều trị bệnh 
lý vùng tiểu khung, bài tập William và 
bài tập McKENZIE điều trị bệnh lý 
cột sống, và bài tập khí công cổ truyền 
(luyện vòng TIỂU CHU SINH), và bài 
tập quăng tay hỗ trợ điều trị các bệnh về 
gân _ cơ _ khớp trong đó rất hiệu quả 
với điều trị các bệnh liên quan đến khớp 
vai nói chung và viêm quanh khớp vai 
nói riêng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thu Hiền (2005), 
Đánh giá hiệu quả phương pháp xoa bóp 
bấm huyệt ĐT VQKV thể đơn thần tại 
khoa Y học cổ truyền bệnh viện Xanh 
Pôn Hà Nội. Luận văn Bác sỹ chuyên 
khoa cấp II, trường Đại học Y Hà Nội.
2. 10. Lê Thị Kiều Hoa (2006), 
“Tập theo tầm vận động khớp”, Vật lý 
trị liệu và Phục hồi chức năng, NXB 
Quân đội, tr. 181-185.
3. Thái Bình Minh & Cộng sự 
(2009) “Bước đầu đánh giá hiệu quả 
ĐT VQKV tại khoa đông y bệnh viện II 
Lâm Đồng”.
4. Liez P, Hoffmann P, Fellêiter P, 
Horauf K (1998), Interscalene plexus 
block for mobilizing chronic shoulder 
stiffness, Wien klin wochenschr. Nov 
13; 110(21), pp. 766-769.
5. Sabeti.Aschraf et al (2005): The 
American journal of Sports medicine. 
Vol 33.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
117
Định nghĩa
Pemphigus là thuật ngữ chỉ một nhóm bệnh, có đặc điểm là mất sự kết dính 
giữa các tế bào thượng bì, biểu hiện trên lâm sàng là bóng nước và trên mô học 
là hiện tượng tiêu gai.
Define
Pemphigus is a term for a group of disorders, is characterized by a loss of 
cohesion between epidermal cells, clinical manifestations are boils on and on 
histological criteria phenomenon spikes.
 ĐẶT VẤN ĐỀ
Pemphigus là bệnh da bóng nước 
hiếm gặp, diễn tiến mạn tính và có 
những cơn bộc phát liên tục.
Phân loại:
1. Pemphigus tự miễn: 
- Pemphigus sâu: sự tách xảy ra sàn 
trên màng đáy.
+ Pemphigus thông thường 
(Pemphigus vulgaris).
+ Pemphigus sùi (Pemphigus 
vegetans).
- Pemphigus nông: sự tách xảy ra ở 
nông, dưới lớp sừng, ở lớp hạt
+ Pemphigus lá ( Pemphigus 
foliaceus).
+ Pemphigus bã (Pemphigus 
seborrheicus).
- Dạng đặc biệt: Pemphigus do 
thuốc.
2. Pemphigus không do tự miễn:
Cận tăng sinh.
Pemphigus do thuốc có thể phát 
triển qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều 
tháng sau khi sử dụng thuốc.
+ Thuốc có thể là nguồn nguyên 
nhân hoặc kích ứng bùng phát 
Nhân một trường hợp điều trị tại khoa A8 Bệnh viện Quân y 175:
MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ BỆNH PEMPHIGUS DO THUỐC
Nguyễn Đình Tổng1, Nguyễn Thị Bích Huê1, Dương Minh Chiến1
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Đình Tổng ([email protected])
Ngày nhận bài: 16/10/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 21/10/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
118
pemphigus. Các bệnh lý tự miễn dịch 
khác như lupus, bóng nước dạng 
pemphigus, nhược cơ năng thì thuốc 
là nguồn gây kích ứng. Tuy nhiên phát 
triển pemphigus do thuốc được xác 
định một phần bởi yếu tố di truyền. 
+ Pemphigus do thuốc biến mất tự 
nhiên trong vòng vài tháng trong đa số 
các trường hợp sau khi ngưng thuốc và 
dưới điều trị bằng corticoide.
+ Pemphigus do thuốc: có lâm sàng 
giống như pemphigus thông thường và 
pemphigus lá. Tổn thương là các bóng 
nước nông, vở ra nhanh chóng, lột từng 
lớp chảy nước và đóng mài, bóng nước 
vỡ ra tạo thành vết lở đau rát, ngứa 
không là triệu chứng thường gặp. Niêm 
mạc miệng có thể bị ảnh hưởng. Khàn 
tiếng, khó nuốt, mất vị giác ở miệng. 
Dấu Nikolsky (+).
+ Nhóm Thiol của thuốc thường 
gây Pemphigus do thuốc, các thuốc 
đó là rifampicine, amoxicillin, 
ampicillin, captopril, cephalosporins, 
penicillamine, penicilline, piritinol...
TÓM TẮT BỆNH ÁN
- Bệnh nhân: Nguyễn Đăng D, 
Nam, Sinh 1994. 
- Địa chỉ: xã thuận an, huyện phú 
vang, Thừa Thiên Huế.
- Vào viện: ngày 30/09/2016. Số 
BA: 16.37486
Bệnh sử: Phát hiện lao phổi khoảng 
3 năm điều trị không cơ bản. Cách 
nhập viện hơn 1 tháng, xuất hiện sốt 
nhẹ, ho nhiều, có đàm xanh khám tại 
BV Phạm Ngọc Thạch được chẩn 
đoán: lao phổi AFB (+) có dùng thuốc 
Sumakin 750mg và duy trì AKuriT4 
(Rifampin, Isoniazid, Pyrazinamide và 
Ethambutol), sau uống thuốc khoảng 1 
tuần thì nổi nụm nước ở da vùng cổ và 
miệng lan ra mặt, thân mình kèm ngứa 
ít. Trước nhập viện 10 ngày khám tại 
BV175 được chẩn đoán: thủy đậu, có 
dùng Aciclovir + Doxycycline, sau 1-2 
ngày bệnh tiến triển rầm rộ xuất hiện 
thêm nhiều bóng nước to cùng tính chất 
như trên vùng vai và tay 2 bên kèm 
sốt cao, ho nhiều. Nhập khoa Da Liễu 
BV175.
Khám: Tổng trạng gày yếu, mệt 
mỏi, sốt cao. Đau bụng vùng thượng vị, 
đi cầu phân lỏng 4-5 lần/ngày.
Tổn thương cơ bản: Bóng nước 
không căng, dễ vỡ trên nền hồng ban, 
kích thước 1 - 5cm, vỡ ra nhanh đóng 
mài, bóng nước vỡ ra tạo thành vết 
loét đau rát, bóng nước chứa dịch vàng 
trong, nằm rải rác khắp cơ thể, tập trung 
chủ yếu ở vai và tay 2 bên, tổn thương 
ở niêm mạc miệng là những vết loét 
mặt trong hai má. Dấu Nikolsky (+). 
Ho nhiều, đàm trắng dính số lượng 
vừa có lẫn ít dịch hồng, rì rào phế nang 
2 phổi rõ, không có ran.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
119
Các xét nghiệm: 
- Công thức máu BC 4,1K/uL (N: 46,1%) ; HC: 3,96M/uL ; TC:146K/Ul
- Sinh hóa máu Ure: 4,19mmol/L ; Creatinin: 79,6umol/L ; AST: 102,4U/L 
; ALT: 44,3U/L ; Na: 124mmol/L ; Ca: 1,79mmol/L ; 
Albumin: 24,9g/L
- Miễn dịch Procalcitonin: 2,4ng/ml
- Vi sinh AFB (+)
- X-Quang tim 
phổi thẳng
Tổn thương thâm nhiễm phá hủy phổi phải 
- Giải phẫu bệnh Bọng nước ở thượng bì, trong lớp sừng. Lòng chứa dịch phù 
xen lẫn tế bào viêm gồm tương bào, bạch cầu đa nhân xâm 
nhiễm viêm rải rác ở lớp bì nông.
	Nghĩ tới: bệnh Pemphigus, nghĩ do dị ứng thuốc
Chẩn đoán sơ bộ: Pemphigus / lao 
phổi AFB (+).
Chẩn đoán phân biệt: Dị ứng thuốc.
Biện luận chẩn đoán:
- Không nghĩ tới dị ứng thuốc vì:
+ Thời gian đã dùng thuốc hơn 1 
tháng.
+ Không tổn thương niêm mạc.
+ Kang thương đơn dạng chỉ có 
bóng nước.
+ Cận lâm sang: sinh thiết có hình 
Hình minh họa
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
120
ảnh của Pemphigus.
- Nghĩ tới Pemphigus do thuốc lao vì:
+ Sau dùng thuốc lao.
+ Có vết tích bóng nước trong họng.
+ Bóng nước đơn dạng. Tính 
chất bóng nước: Tổn thương ở niêm 
mạc miệng là các vết loét.Ở da bóng 
nước căng, trên nền hồng ban, dễ vỡ, 
Nikolsky (+). 
+ Cận lâm sàng: 
X-Quang tim phổi thẳng: tổn 
thương thâm nhiễm phổi phải, AFB (+) 
Giải phẫu bệnh: Bọng nước ở 
thượng bì, trong lớp sừng. Lòng chứa 
dịch phù xen lẫn tế bào viêm gồm tương 
bào, bạch cầu đa nhân xâm nhiễm viêm 
rải rác ở lớp bì nông.
Chẩn đoán xác định: Pemphigus nghĩ 
nhiều do thuốc lao/ lao phổi AFB (+).
Đã điều trị: 
1. Ngưng thuốc chống lao đang 
dùng.
2. Corticoide, kháng sinh, kháng 
histamin H1, xanh Methylen chấm tại 
chỗ tổn thương, tắm thuốc tím.
3. Bù dịch điện giải, bù đạm, sinh 
tố, nuôi dưỡng. 
Bênh ổn định ra viện ngày...
BÀN LUẬN
Pemphigus do thuốc là bệnh da do 
bóng nước tự miễn có tỷ lệ tử vong cao, 
tiến triển nhanh và nặng.
Trên bệnh nhân này nghĩ nhiều 
Pemphigus nguyên nhân do thuốc lao, 
chưa xác định được cụ thể thuốc điều 
trị lao nhóm nào gây dị ứng vì bệnh 
nhân uống viên phối hợp.
Khi điều trị đã quyết định dừng thuốc 
chống lao, dùng Methylprednisolon 
liều trung bình 1,5mg/kg/ngày, bệnh 
đáp ứng rất tốt trong thời gian ngắn (các 
mụn nước xẹp, đóng mài, tổn thương 
da khô dần và bệnh nhân hết sốt).
Khi tình trạng bệnh nhân tạm 
ổn định, đã nhanh chóng giảm liều 
corticotide và cắt để tránh tình trạng 
lệ thuộc, hạn chế tác dụng phụ của 
corticotide và hạn chế nguy cơ lao phổi 
bùng phát nặng.
Kết hợp với chuyên khoa lao - bệnh 
phổi để dùng thăm dò từng nhóm thuốc 
lao riêng lẻ và tầm soát nhóm thuốc lao 
gây bệnh.
KẾT LUẬN
Pemphigus có tỷ lệ tử vong cao. 
Tuy nhiên, Pemphigus do thuốc thường 
giảm sau khi loại bỏ tác nhân gây bệnh. 
Trong một số bệnh nhân, các tổn thương 
có thể diễn tiến lâu dài, ở trường hợp 
này thuốc giống như là nguồn kích 
thích bùng phát Pemphigus.
Khi xác định điều trị Pemphigus 
do thuốc chống lao khi BN đang điều 
trị phác đồ chống lao, phải phối hợp 
với chuyên khoa Lao đánh giá tình 
trạng tổ thương phổi do lao, đáp ứng 
điều trị lao, để có chỉ định điều trị hợp 
lý tránh làm giảm hiệu quả điều trị lao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Habif (2010), Fitzpatrick 2008.
2. Nguyễn Văn Út (1990), Bệnh 
Pemphigus. Da liễu thực hành.

File đính kèm:

  • pdftap_dich_can_kinh_ho_tro_dieu_tri_viem_quanh_khop_vai.pdf