Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai
Khớp vai là khớp linh hoạt nhất của cơ thể. Nó có nhiều động tác, động tác của cánh tay (ra trước, ra sau, lên trên, vào trong, ra ngoài, xoay tròn) và động tác của riêng vai (lên trên, ra trước, ra sau) . Khớp vai có vận động linh hoạt nhưng bao khớp mỏng, lỏng lẻo, dây chằng không đủ chắc nên nó cũng dễ bị tổn thương nhất. Trong đó bệnh lý viêm quanh khớp vai (VQKV) là tổn thương rất hay gặp. VQKV là tên gọi của các trường hợp đau và hạn chế vận động khớp vai mà tổn thương ở phần mềm quanh khớp vai chủ yếu là gân, cơ, dây chằng, bao khớp
Bạn đang xem tài liệu "Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tập dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 113 Khớp vai là khớp linh hoạt nhất của cơ thể. Nó có nhiều động tác, động tác của cánh tay (ra trước, ra sau, lên trên, vào trong, ra ngoài, xoay tròn) và động tác của riêng vai (lên trên, ra trước, ra sau) . Khớp vai có vận động linh hoạt nhưng bao khớp mỏng, lỏng lẻo, dây chằng không đủ chắc nên nó cũng dễ bị tổn thương nhất. Trong đó bệnh lý viêm quanh khớp vai (VQKV) là tổn thương rất hay gặp. VQKV là tên gọi của các trường hợp đau và hạn chế vận động khớp vai mà tổn thương ở phần mềm quanh khớp vai chủ yếu là gân, cơ, dây chằng, bao khớp. Điều trị VQKV có nhiều phương pháp như điều trị bằng thuốc, điều trị bằng y học cổ truyền, điều trị phẫu thuật với thể đứt rách dây chằng chóp xoay. Đặc biệt điều trị bằng các tác nhân vật lý kết hợp tập vận động là phương pháp được lựa chọn tối ưu nhất với cả thầy thuốc và bệnh nhân được điều trị. Với những bệnh nhân đến điều trị tại khoa Vật Lý Trị Liệu – Phục Hồi Chức Năng (VLTL-PHCN) Bệnh viện Quân Y 175 sau khi được hướng dẫn tập bài tập Dịch cân kinh kết hợp, tập hàng ngày, tại nhà đã đem lại kết quả điều trị rất khả quan và nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía người bệnh, không chỉ riêng bệnh lý khớp vai mà tình trạng sức khỏe cũng các như bệnh lý khác cải thiện rõ. Dịch Cân Kinh hay Đạt Ma Dịch Cân Kinh hay Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh do Đạt Ma Sư tổ, sư trụ trì đầu tiên chùa Thiếu Lâm truyền đạt. Năm Đinh Sửu (theo công lịch là năm 917) nhà sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp, truyền giáo rồi ở lại Trung Sơn, Hà Nam (của Trung Hoa) xây dựng Thiếu Lâm Tự (Chùa Thiếu Lâm). Việc truyền tụng một tín ngưỡng mới, khác với niềm tin cũ của người bản xứ, thường dễ sảy ra mâu thuẫn, xung đột nên các đệ tử của Ông vừa lo tu TẬP DỊCH CÂN KINH HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ VIÊM QUANH KHỚP VAI (Yijin Jing exercises in Periarthritis humeroscapularis treatment) Trần Quang Khang1, Vũ Đăng Quyền 1 Nguyễn Ngọc Phương Trang1, Phan Thế Anh1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Trần Quang Khang ([email protected] ) Ngày nhận bài: 09/10/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/10/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 114 dưỡng, học Phật pháp, vừa phải ra công luyện tập võ nghệ để tự vệ. Từ đó môn võ Thiếu Lâm ra đời và tồn tại mãi đến ngày nay. Nhiều người xin nhập môn nhưng thể chất kém không thể luyện võ được. Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch Cân Kinh. “Dịch – thay đổi, Cân – gân cốt, Kinh – sách quí” Cách tập này rất đơn giản, chỉ cần kiên trì tập vẩy tay đúng phương pháp là sẽ đạt hiệu quả rất lớn: ăn ngon, ngủ tốt, gân cốt thư thái sức khỏe tăng cường và đặc biệt là trừ được bệnh tật như: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, hen xuyễn, các bệnh tim mạch, các bệnh dạ dày, đường ruột, thận, gan, ống mật, trĩ nội rồi bán thân bất toại, đột quỵ, méo mồm lệch mắt, đều tiến triển rất tốt. Nhất là các loại bệnh mãn tính của người cao tuổi hay gặp là thoái hóa cột sống, thoái hóa xương khớp. Trong đó có bệnh lý Viêm quanh khớp vai rất thường gặp ở cả người cao tuổi cũng như người trẻ tuổi do những nguyên nhân khác nhau. Phương pháp tập luyện: Trước khi tập, chọn nơi thoáng mát, yên tĩnh càng tốt, đứng bình tĩnh cho tâm được thoải mái, đầu óc được thư thái để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Có thể làm những động tác khởi động nhẹ nhàng thoải mái. Phải đi chân trần và đứng trên một tấm thảm lót chân hoặc bất cứ miếng đệm lót nào, nhằm ngăn cách sự tiếp xúc của bàn chân với mặt đất, nếu không luồng điện sinh học trong quá trình tập luyện sẽ bị thất thoát làm bài tập hiệu quả không cao. Đứng thẳng người ưỡn ngực ra để cột sống được tự nhiên, hai bàn chân song song với nhau dạng ra, ngang với tầm vai của mình. Co các đầu ngón chân lại, bám chặt vào mặt thảm như vậy bắp chân và đùi sẽ săn chắc. Thót hậu môn _ niệu đạo lại, giống như động tác nín đi cầu và nín đi tiểu, như vậy tầng sinh môn, mông và vùng tiểu khung cũng sẽ săn chắc, đồng thời thả lỏng cơ thể từ vùng thắt lưng trở lên. Suốt buổi tập hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng chắc, không suy chuyển. Tóm lại đó là tư thế đứng tấn của người luyện võ, cả buổi tập phải làm đúng như thế, nếu không công phu luyện tập sẽ mất gần hết không mang lại kết quả mong muốn. Đầu như dây treo để cổ được thẳng, mặt hướng về phía trước, mắt nhìn một điểm cao hơn mình một tý để cổ không chùng xuống. Miệng ngậm tự nhiên, hai hàm răng chạm nhau, lưỡi chạm vùng lợi giữa hai chân răng hàm trên, để luồng điện được lưu thông. Hơi thở bình thường, tư tưởng tập trung trên đỉnh đầu. Ở mỗi bàn tay, năm ngón tay luôn dính vào nhau, thả lỏng tự nhiên chứ không xòe ra. Khi đánh tay, lòng bàn tay hướng về phía sau( tức mu tay hướng ra trước). Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người một góc 30 độ, Khi đánh tay TỔNG QUAN TÀI LIỆU 115 ra phía sau một góc 60 độ. Tóm lại, khi đánh hết tay thì đưa tay ra phía trước chỉ là một cái trớn, không dùng sức, chỉ do quán tính của việc đánh tay từ phía sau còn lại mà thôi, do đó chỉ có 30 độ. Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra phía sau thì tính một cái đánh tay (thời gian 1 giây). Trên phải không, dưới nên có (thượng hư hạ thực). Đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón tay khép tự nhiên. Khi vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, ngón chân bấm chặt đất như trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yếu lĩnh khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh’. Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý tập chung vào tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái trèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ. Khi vẩy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẩy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước. “Trên ba, dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ 3 phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải thấu hiểu đầy đủ thì hiệu quả mới tốt. Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi có thể nhẩm đếm lần vẫy tay. MỘT SỐ ĐIỂM CẨN CHÚ Ý Tập đúng: Tập phải tuân theo yếu lĩnh như trên. Tập đủ: Thời gian tập phải đủ 30 phút, 30 phút mới là đạt yêu cầu cho một lần tập. Tương ứng với số lần vẩy tay không nên ít: từ 600 lần đến 1.800 lần cho một bài tập. Tập được đến khoảng 20 phút mà thấy trung tiện nhiều chứng tỏ hiệu quả tập rất tốt. Tập đều: Khi đã tập thì tập thường xuyên, tập hàng ngày kể cả các ngày lễ, tết. Bài tập thường sẽ có hiệu quả sau 3 đến 6 tháng tập liên tục. Nếu tập gián đoạn vì một lý do nào đó thì hiệu quả không cao, dẫn đến mất niềm tin vào bài tập. Vì vậy cần phải kiên trì duy trì bài tập hàng ngày ít nhất vào buổi sáng sớm sau khi thức dậy hoặc buổi tối trước khi đi ngủ. Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng vẫn phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân Số buổi tập: Có thể tập càng nhiều càng tốt. Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy 3.000 tới 6.000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 116 điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp. Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẫy 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa trừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng. Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ ? Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao đặc biệt. Đây là môn thể dục mền dẻo, đặc biệt là không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực, cũng không được. Tóm lại đây là bài tập kinh điển, tổng hợp động tác của nhiều bài tập hiện đại như bài tập Kegel điều trị bệnh lý vùng tiểu khung, bài tập William và bài tập McKENZIE điều trị bệnh lý cột sống, và bài tập khí công cổ truyền (luyện vòng TIỂU CHU SINH), và bài tập quăng tay hỗ trợ điều trị các bệnh về gân _ cơ _ khớp trong đó rất hiệu quả với điều trị các bệnh liên quan đến khớp vai nói chung và viêm quanh khớp vai nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Thu Hiền (2005), Đánh giá hiệu quả phương pháp xoa bóp bấm huyệt ĐT VQKV thể đơn thần tại khoa Y học cổ truyền bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội. Luận văn Bác sỹ chuyên khoa cấp II, trường Đại học Y Hà Nội. 2. 10. Lê Thị Kiều Hoa (2006), “Tập theo tầm vận động khớp”, Vật lý trị liệu và Phục hồi chức năng, NXB Quân đội, tr. 181-185. 3. Thái Bình Minh & Cộng sự (2009) “Bước đầu đánh giá hiệu quả ĐT VQKV tại khoa đông y bệnh viện II Lâm Đồng”. 4. Liez P, Hoffmann P, Fellêiter P, Horauf K (1998), Interscalene plexus block for mobilizing chronic shoulder stiffness, Wien klin wochenschr. Nov 13; 110(21), pp. 766-769. 5. Sabeti.Aschraf et al (2005): The American journal of Sports medicine. Vol 33. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 117 Định nghĩa Pemphigus là thuật ngữ chỉ một nhóm bệnh, có đặc điểm là mất sự kết dính giữa các tế bào thượng bì, biểu hiện trên lâm sàng là bóng nước và trên mô học là hiện tượng tiêu gai. Define Pemphigus is a term for a group of disorders, is characterized by a loss of cohesion between epidermal cells, clinical manifestations are boils on and on histological criteria phenomenon spikes. ĐẶT VẤN ĐỀ Pemphigus là bệnh da bóng nước hiếm gặp, diễn tiến mạn tính và có những cơn bộc phát liên tục. Phân loại: 1. Pemphigus tự miễn: - Pemphigus sâu: sự tách xảy ra sàn trên màng đáy. + Pemphigus thông thường (Pemphigus vulgaris). + Pemphigus sùi (Pemphigus vegetans). - Pemphigus nông: sự tách xảy ra ở nông, dưới lớp sừng, ở lớp hạt + Pemphigus lá ( Pemphigus foliaceus). + Pemphigus bã (Pemphigus seborrheicus). - Dạng đặc biệt: Pemphigus do thuốc. 2. Pemphigus không do tự miễn: Cận tăng sinh. Pemphigus do thuốc có thể phát triển qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng sau khi sử dụng thuốc. + Thuốc có thể là nguồn nguyên nhân hoặc kích ứng bùng phát Nhân một trường hợp điều trị tại khoa A8 Bệnh viện Quân y 175: MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ BỆNH PEMPHIGUS DO THUỐC Nguyễn Đình Tổng1, Nguyễn Thị Bích Huê1, Dương Minh Chiến1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Đình Tổng ([email protected]) Ngày nhận bài: 16/10/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 21/10/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 118 pemphigus. Các bệnh lý tự miễn dịch khác như lupus, bóng nước dạng pemphigus, nhược cơ năng thì thuốc là nguồn gây kích ứng. Tuy nhiên phát triển pemphigus do thuốc được xác định một phần bởi yếu tố di truyền. + Pemphigus do thuốc biến mất tự nhiên trong vòng vài tháng trong đa số các trường hợp sau khi ngưng thuốc và dưới điều trị bằng corticoide. + Pemphigus do thuốc: có lâm sàng giống như pemphigus thông thường và pemphigus lá. Tổn thương là các bóng nước nông, vở ra nhanh chóng, lột từng lớp chảy nước và đóng mài, bóng nước vỡ ra tạo thành vết lở đau rát, ngứa không là triệu chứng thường gặp. Niêm mạc miệng có thể bị ảnh hưởng. Khàn tiếng, khó nuốt, mất vị giác ở miệng. Dấu Nikolsky (+). + Nhóm Thiol của thuốc thường gây Pemphigus do thuốc, các thuốc đó là rifampicine, amoxicillin, ampicillin, captopril, cephalosporins, penicillamine, penicilline, piritinol... TÓM TẮT BỆNH ÁN - Bệnh nhân: Nguyễn Đăng D, Nam, Sinh 1994. - Địa chỉ: xã thuận an, huyện phú vang, Thừa Thiên Huế. - Vào viện: ngày 30/09/2016. Số BA: 16.37486 Bệnh sử: Phát hiện lao phổi khoảng 3 năm điều trị không cơ bản. Cách nhập viện hơn 1 tháng, xuất hiện sốt nhẹ, ho nhiều, có đàm xanh khám tại BV Phạm Ngọc Thạch được chẩn đoán: lao phổi AFB (+) có dùng thuốc Sumakin 750mg và duy trì AKuriT4 (Rifampin, Isoniazid, Pyrazinamide và Ethambutol), sau uống thuốc khoảng 1 tuần thì nổi nụm nước ở da vùng cổ và miệng lan ra mặt, thân mình kèm ngứa ít. Trước nhập viện 10 ngày khám tại BV175 được chẩn đoán: thủy đậu, có dùng Aciclovir + Doxycycline, sau 1-2 ngày bệnh tiến triển rầm rộ xuất hiện thêm nhiều bóng nước to cùng tính chất như trên vùng vai và tay 2 bên kèm sốt cao, ho nhiều. Nhập khoa Da Liễu BV175. Khám: Tổng trạng gày yếu, mệt mỏi, sốt cao. Đau bụng vùng thượng vị, đi cầu phân lỏng 4-5 lần/ngày. Tổn thương cơ bản: Bóng nước không căng, dễ vỡ trên nền hồng ban, kích thước 1 - 5cm, vỡ ra nhanh đóng mài, bóng nước vỡ ra tạo thành vết loét đau rát, bóng nước chứa dịch vàng trong, nằm rải rác khắp cơ thể, tập trung chủ yếu ở vai và tay 2 bên, tổn thương ở niêm mạc miệng là những vết loét mặt trong hai má. Dấu Nikolsky (+). Ho nhiều, đàm trắng dính số lượng vừa có lẫn ít dịch hồng, rì rào phế nang 2 phổi rõ, không có ran. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 119 Các xét nghiệm: - Công thức máu BC 4,1K/uL (N: 46,1%) ; HC: 3,96M/uL ; TC:146K/Ul - Sinh hóa máu Ure: 4,19mmol/L ; Creatinin: 79,6umol/L ; AST: 102,4U/L ; ALT: 44,3U/L ; Na: 124mmol/L ; Ca: 1,79mmol/L ; Albumin: 24,9g/L - Miễn dịch Procalcitonin: 2,4ng/ml - Vi sinh AFB (+) - X-Quang tim phổi thẳng Tổn thương thâm nhiễm phá hủy phổi phải - Giải phẫu bệnh Bọng nước ở thượng bì, trong lớp sừng. Lòng chứa dịch phù xen lẫn tế bào viêm gồm tương bào, bạch cầu đa nhân xâm nhiễm viêm rải rác ở lớp bì nông. Nghĩ tới: bệnh Pemphigus, nghĩ do dị ứng thuốc Chẩn đoán sơ bộ: Pemphigus / lao phổi AFB (+). Chẩn đoán phân biệt: Dị ứng thuốc. Biện luận chẩn đoán: - Không nghĩ tới dị ứng thuốc vì: + Thời gian đã dùng thuốc hơn 1 tháng. + Không tổn thương niêm mạc. + Kang thương đơn dạng chỉ có bóng nước. + Cận lâm sang: sinh thiết có hình Hình minh họa TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 120 ảnh của Pemphigus. - Nghĩ tới Pemphigus do thuốc lao vì: + Sau dùng thuốc lao. + Có vết tích bóng nước trong họng. + Bóng nước đơn dạng. Tính chất bóng nước: Tổn thương ở niêm mạc miệng là các vết loét.Ở da bóng nước căng, trên nền hồng ban, dễ vỡ, Nikolsky (+). + Cận lâm sàng: X-Quang tim phổi thẳng: tổn thương thâm nhiễm phổi phải, AFB (+) Giải phẫu bệnh: Bọng nước ở thượng bì, trong lớp sừng. Lòng chứa dịch phù xen lẫn tế bào viêm gồm tương bào, bạch cầu đa nhân xâm nhiễm viêm rải rác ở lớp bì nông. Chẩn đoán xác định: Pemphigus nghĩ nhiều do thuốc lao/ lao phổi AFB (+). Đã điều trị: 1. Ngưng thuốc chống lao đang dùng. 2. Corticoide, kháng sinh, kháng histamin H1, xanh Methylen chấm tại chỗ tổn thương, tắm thuốc tím. 3. Bù dịch điện giải, bù đạm, sinh tố, nuôi dưỡng. Bênh ổn định ra viện ngày... BÀN LUẬN Pemphigus do thuốc là bệnh da do bóng nước tự miễn có tỷ lệ tử vong cao, tiến triển nhanh và nặng. Trên bệnh nhân này nghĩ nhiều Pemphigus nguyên nhân do thuốc lao, chưa xác định được cụ thể thuốc điều trị lao nhóm nào gây dị ứng vì bệnh nhân uống viên phối hợp. Khi điều trị đã quyết định dừng thuốc chống lao, dùng Methylprednisolon liều trung bình 1,5mg/kg/ngày, bệnh đáp ứng rất tốt trong thời gian ngắn (các mụn nước xẹp, đóng mài, tổn thương da khô dần và bệnh nhân hết sốt). Khi tình trạng bệnh nhân tạm ổn định, đã nhanh chóng giảm liều corticotide và cắt để tránh tình trạng lệ thuộc, hạn chế tác dụng phụ của corticotide và hạn chế nguy cơ lao phổi bùng phát nặng. Kết hợp với chuyên khoa lao - bệnh phổi để dùng thăm dò từng nhóm thuốc lao riêng lẻ và tầm soát nhóm thuốc lao gây bệnh. KẾT LUẬN Pemphigus có tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên, Pemphigus do thuốc thường giảm sau khi loại bỏ tác nhân gây bệnh. Trong một số bệnh nhân, các tổn thương có thể diễn tiến lâu dài, ở trường hợp này thuốc giống như là nguồn kích thích bùng phát Pemphigus. Khi xác định điều trị Pemphigus do thuốc chống lao khi BN đang điều trị phác đồ chống lao, phải phối hợp với chuyên khoa Lao đánh giá tình trạng tổ thương phổi do lao, đáp ứng điều trị lao, để có chỉ định điều trị hợp lý tránh làm giảm hiệu quả điều trị lao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Habif (2010), Fitzpatrick 2008. 2. Nguyễn Văn Út (1990), Bệnh Pemphigus. Da liễu thực hành.
File đính kèm:
tap_dich_can_kinh_ho_tro_dieu_tri_viem_quanh_khop_vai.pdf

