Tạo hình trong bỏng điện da đầu: nhân 3 trường hợp và nhìn lại y văn

Đặt vấn đề: Bỏng điện da đầu là tổn thương hiếm gặp và đặt ra những vấn đề thách

thức cho các bác sỹ tạo hình. Việc lựa chọn các phương pháp tạo hình phụ thuộc vào vị

trí bỏng và độ sâu tổ chức bị mất. Qua nghiên cứu này chúng tôi đưa ra một số vấn đề

cần bàn luận trong điều trị bỏng da đầu và nhìn lại y văn.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong 3 trường hợp bỏng điện vùng da đầu:

100 % đều bị bỏng do điện cao thể. Độ tuổi lao động từ 26-43. 2 trường hợp chúng tôi

sử dụng vạt vi phẫu che phủ tổn khuyết, 1 trường hợp sử dụng vạt giãn tổ chức da đầu

và tạo hình lại hộp sọ bằng titan.

Kết quả và bàn luận: Trong 3 bệnh nhân gồm: 1 bệnh nhân bỏng độ 4 tổn thương mất

da, mất xương sọ và lộ màng cứng. 2 trường hợp bỏng độ 3 tổn thương mất da và mất

bản ngoài xương sọ trong đó có 1 bệnh nhân rò xoang trán. Thời gian chờ để tạo hình

che phủ từ 3 tuần đến 3 tháng sau bỏng điện. Không có trường hợp nào bị hoại tử vạt,

lấy lại được hình dạng của hộp sọ. Kết quả thẩm mỹ đạt mức tốt.

 

pdf 5 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Tạo hình trong bỏng điện da đầu: nhân 3 trường hợp và nhìn lại y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạo hình trong bỏng điện da đầu: nhân 3 trường hợp và nhìn lại y văn

Tạo hình trong bỏng điện da đầu: nhân 3 trường hợp và nhìn lại y văn
Phần 4: Phần vi phẫu
315
Bùi Mai Anh, 
Vũ Trung Trực, 
Trần Thanh Huyền, 
Nguyễn Hồng Hà
Khoa Tạo hình - 
Hàm mặt, BV Việt Đức
Email: drbuimaianh@
gmail.com
TẠO HÌNH TRONG BỎNG ĐIỆN DA ĐẦU: NHÂN 
3 TRƯỜNG HỢP VÀ NHÌN LẠI Y VĂN
Đặt vấn đề: Bỏng điện da đầu là tổn thương hiếm gặp và đặt ra những vấn đề thách 
thức cho các bác sỹ tạo hình. Việc lựa chọn các phương pháp tạo hình phụ thuộc vào vị 
trí bỏng và độ sâu tổ chức bị mất. Qua nghiên cứu này chúng tôi đưa ra một số vấn đề 
cần bàn luận trong điều trị bỏng da đầu và nhìn lại y văn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong 3 trường hợp bỏng điện vùng da đầu: 
100 % đều bị bỏng do điện cao thể. Độ tuổi lao động từ 26-43. 2 trường hợp chúng tôi 
sử dụng vạt vi phẫu che phủ tổn khuyết, 1 trường hợp sử dụng vạt giãn tổ chức da đầu 
và tạo hình lại hộp sọ bằng titan.
Kết quả và bàn luận: Trong 3 bệnh nhân gồm: 1 bệnh nhân bỏng độ 4 tổn thương mất 
da, mất xương sọ và lộ màng cứng. 2 trường hợp bỏng độ 3 tổn thương mất da và mất 
bản ngoài xương sọ trong đó có 1 bệnh nhân rò xoang trán. Thời gian chờ để tạo hình 
che phủ từ 3 tuần đến 3 tháng sau bỏng điện. Không có trường hợp nào bị hoại tử vạt, 
lấy lại được hình dạng của hộp sọ. Kết quả thẩm mỹ đạt mức tốt. 
Kết luận: Bỏng điện da đầu là tổn thương phức tạp ảnh hưởng đến hệ thống thần 
kinh do tính chất bỏng điện thường là bỏng sâu và gây hoại tử dần tổ chức nhất là tổn 
thương xương và màng cứng. Việc tạo hình trong bỏng vùng da đầu sẽ đặt ra nhiều 
vấn đề cho các bác sỹ tạo hình như thời gian nào phù hợp làm tạo hình, việc tạo hình 
lại hộp sọ, vấn đề của vùng mang tóc. 
Từ khóa: Bỏng, bỏng điện, tạo hình da đầu.
TĨM TẮT
RECONSTRUCTION IN SCALP ELECTRICAL BURN: THREE CASES 
AND OVERVIEW 
Bui Mai Anh, 
Vu Trung Truc, 
Tran Thanh Huyen, 
Nguyen Hong Ha
Plastic-Maxillofacial 
Surgery Department
SUMMARY
Background: Scalp electrical burns are rare lesions and pose challenging problems 
for reconstructive surgeons. The choice of method depends on the class skull burns and 
depth of burns organizations lost. Through this study we present some experience in the 
treatment of scalp burns and overview the literature.
Subjects and Methods: In 3 cases of scalp electrical burns: 100% high voltage electrical 
injury. Working age from 26 to 43. 2 cases we used microsurgical flap cover tissue defect, 
1 case using expander flap and reconstruction of skull by titanium.
Results and discussion: In 3 patients, including 1 patient is 4 degree burns with the skin 
loss, bone loss and exposed dura. 2 cases is 3 degree burns with skin loss and exposed 
skull, one case fistule frontal sinus. Standby time to reconstruction covering is from 3 
weeks to 3 months after electrical burns. No cases of flap necrosis, regained the shape of 
the skull. Results aesthetic is good level.
Conclusion: Scalp electrical burns are complication injuries affecting the nervous 
system due to the electrical burns are usually deep burns and necrosis organization is 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
316
gradually, especially damage bones and dura . Reconstruction in the scalp burns will 
pose problems for plastic surgeons as delayed time to reconstruction, reconstruction of 
the skull, the problems of hair bearing skin.
Keywords: Burns, Electrical burns, scalp reconstruction
ĐặT VấN Đề
 Từ khi được thành lập năm 1849, ngành 
cơng nghiệp điện đã sử dụng nguồn điện như một 
mặt hàng thu nhiều lợi nhuận nhưng cũng là mặt 
hàng nguy hiểm. Theo thống kê, tỷ lệ tử vong do điện 
chiếm 0,8-1 % hàng năm. Từ khi sử dụng rộng rãi 
điện, tỷ lệ thương tích do điện tăng lên. Trong các 
thương tổn do bỏng điện, bỏng điện da đầu là tổn 
thương hiếm gặp và đặt ra những vấn đề thách thức 
cho các bác sỹ tạo hình do da đầu là tổ chức đặc biệt 
vì ngồi chức năng che phủ hộp sọ cịn là vùng da 
mang tĩc. Mục đích đầu tiên của việc phẫu thuật tạo 
hình trong điều trị bỏng là khơi phục lại chức năng 
che phủ hộp sọ, sau đĩ là khơi phục lại vấn đề thẩm 
mỹ cho bệnh nhân. Việc lựa chọn các phương pháp 
tạo hình phụ thuộc vào vị trí bỏng, độ rộng và độ sâu 
tổ chức bị mất. Những báo cáo đầu tiên về bỏng điện 
da đầu được tác giả Lewis (1918) với 1 trường hợp 
bỏng hoại tử da đầu và xương sọ, lộ màng cứng được 
tác giả che phủ bằng da ghép. Đến năm 1974, Edward 
cũng báo cáo 1 trường hợp bỏng điện lộ xương sọ 
được che phủ bằng vạt xoay da đầu tại chỗ (5). Cho 
đến nay cĩ nhiều phương pháp đã được sử dụng như 
tạo hình che phủ ngay bằng da ghép, vạt tại chỗ, vạt 
vi phẫu hoặc tạo hình cĩ trì hỗn như cắt lọc, khoan 
sọ chờ tổ chức hạt, sử dụng vạt giãn, vạt vi phẫu... 
Qua điều trị 03 bệnh nhân bỏng điện da đầu chúng tơi 
đưa ra một số vấn đề bàn luận trong tạo hình che phủ 
bỏng da đầu và nhìn lại y văn.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
Từ năm 2010 đến 2013, tại khoa Tạo hình Bệnh 
viện Việt Đức đã điều trị cho 03 bệnh nhân bỏng điện 
cao thế vùng da đầu. Tỷ lệ nam/nữ là 2/1, độ tuổi 03 
bệnh nhân từ 26-43, bệnh nhân đến điều trị tạo hình 
che phủ sau khi điều trị bỏng 1-6 tháng. 
Bệnh nhân được phân độ theo phân loại Harrison 
(bảng 1). 
Phân loại Harrison bỏng da đầu (3)
Độ I Bỏng gây tổn thương một phần độ dày phần 
mềm da đầu
Độ II Bỏng gây tổn thương tồn bộ độ dày phần 
mềm da đầu
Độ III Bỏng gây tổn thương tồn bộ độ dày phần 
mềm da đầu và bản ngồi xương sọ.
Độ IV Bỏng gây tổn thương tồn bộ độ dày phần 
mềm da đầu và tồn bộ độ dày xương sọ, lộ màng 
cứng hoặc lộ não.
Bỏng độ III Bỏng độ IV
02 bệnh nhân sử dụng vạt vi phẫu che phủ tổn 
khuyết, 01 bệnh nhân sử dụng vạt giãn và mesh titan 
che phủ khuyết da và xương sọ.
 Các bệnh nhân được đánh giá về chức năng 
che phủ hộp sọ và chức năng thẩm mỹ của vùng da 
đầu mang tĩc.
Phần 4: Phần vi phẫu
317
KẾT QUẢ
Chúng tơi điều trị 03 bệnh nhân bỏng da đầu do điện 
cao thế, tỷ lệ nam/nữ là 2/1, độ tuổi trung bình là 34.6.
Theo phân loại Harrison, cĩ 02 bệnh nhân bỏng độ 3, 
01 bệnh nhân bỏng độ 4. 
Khi bệnh nhân đến điều trị tại khoa chúng tơi 2/ 3 bệnh 
nhân đã được điều trị ghép da mỏng vùng khuyết da đầu, 
trong đĩ cĩ 01 bệnh nhân bị rị xoang trán qua da ghép và 
01 bệnh nhân được ghép da trên màng cứng. 01 bệnh nhân 
khuyết da vùng đỉnh lộ xương sọ, chúng tơi đã tiến hành 
khoan sọ bản ngồi nhưng xương tiếp tục hoại tử do vậy 
chúng tơi quyết định phải sử dụng vạt vi phẫu che phủ.
TT Diện tích 
khuyết da
Vị trí tổn 
thương
Lộ xương sọ Lộ màng 
cứng, tổ chức 
não
Vạt che phủ 
da
Che phủ 
xương
1 21x10 cm Đỉnh + + Vạt giãn da 
đầu
Mesh titan
2 9x9 cm Trán-Đỉnh + _ Vạt vi phẫu đùi 
trước ngoài
_
3 20x7 cm Trán + _ Vạt vi phẫu đùi 
trước ngoài
_
Tri giác của 03 bệnh nhân đạt điểm GSC 15 điểm. 01 
bệnh nhân yếu nửa người phải. Khơng cĩ bệnh nhân nào 
cĩ tình trạng suy hơ hấp.
Tỷ lệ sống của vạt che phủ là 100%, vạt che phủ được 
tồn bộ diện tích tổn khuyết, che phủ được tồn bộ vùng 
khuyết sọ. Bệnh nhân khơng cĩ biến chứng nơi cho vạt. 
Thời gian nằm viện từ 7- 30 ngày, trong đĩ cĩ một bệnh 
nhân sử dụng vạt giãn với thời gian bơm giãn là 03 tuần 
thời gian cách 2 lần mổ của bệnh nhân là 1 tháng. 
Vùng da mang tĩc của bệnh nhân sử dụng vạt giãn da 
đầu đạt mức độ che phủ là 100%, 01 bệnh nhân sử dụng 
vạt vi phẫu vùng trán do vậy mức độ thẩm mỹ đạt tốt, 01 
bệnh nhân sử dụng vạt vi phẫu vùng đỉnh nên khơng mọc 
tĩc vùng vạt che phủ.
BÀN LUẬN
Thơng thường, bỏng vùng da đầu thường sẽ ảnh hưởng 
đến xương sọ nhất là với những bệnh nhân bỏng điện vùng 
da đầu thì tỷ lệ này cịn cao hơn so với các nguyên nhân 
bỏng khác. Theo một số nghiên cứu của các tác giả thì tỷ 
lệ bỏng điện gây bỏng độ III và IV theo phân loại Harrison 
là 5.6% so với các nguyên nhân bỏng khác chỉ là 1,2 % 
(4). Bỏng độ III và IV rất khĩ khăn cho việc sử dụng vạt 
tại chỗ để che phủ, bỏng điện thường gây chết dần dần, 
một phần hoặc tồn bộ xương vịm sọ, do vậy việc che phủ 
bằng da ghép là khĩ thực hiện. Việc lựa chọn phương pháp 
tạo hình che phủ cịn phụ thuộc và vị trí, kích thước và độ 
sâu của tổn thương bỏng. 
Một số phương pháp vẫn được sử dụng để che phủ như 
cắt lọc, khoan sọ bản ngồi chờ tổ chức hạt sau đĩ ghép da, 
dùng vạt tại chỗ, vạt vi phẫu hoặc vạt giãn. Mỗi phương 
pháp đều cĩ ưu nhược điểm. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên 
cứu cho thấy phương pháp ghép da thường chỉ dùng trong 
giai đoạn cấp vì chất lượng da ghép sẽ khơng đạt kết 
quả tốt cho che phủ vùng da đầu như khơng đủ dày dặn 
cho chức năng tỳ đè của vùng đầu, da ghép cĩ thể bị co, 
sau một thời gian dài cĩ nguy cơ loét vùng da ghép (3). 
Phương pháp này thường cho tỷ lệ thành cơng cao, tuy 
nhiên cũng cĩ những nhược điểm nhất định như thời gian 
liền vết thương lâu, gây đau đớn cho bệnh nhân khi thay 
băng và cĩ nguy cơ gây hoại tử xương (3). 2/ 3 bệnh nhân 
của chúng tơi được sử dụng da ghép trước đĩ đều bị rị 
hoặc loét vùng da ghép. Theo Sheridan và cộng sự báo 
cáo 4 trường hợp bỏng da đầu ở trẻ em sử dụng phương 
pháp khoan sọ và ghép da thi ¾ trường hợp thời gian liền 
da kín hồn tồn là 35 tháng, ¼ là 5 tháng (7). Thời gian 
nằm viện trong nghiên cứu của chúng tơi từ 7-30 ngày, khi 
bệnh nhân ra viện vùng khuyết da đều được che phủ kín. 
Trong lơ bệnh nhân của chúng tơi cĩ 1 bệnh nhân khi sử 
dụng khoan sọ bản ngồi để chờ mọc tổ chức hạt nhưng 
đã khơng mọc tổ chức hạt do bản ngồi xương sọ cũng bị 
chết do bỏng điện, vì vậy chúng tơi phải tiến hành che phủ 
vùng lộ sọ bằng vạt vi phẫu. 
Việc sử dụng vạt da cĩ mạch nuơi để che phủ khuyết 
da đầu trong bỏng da đầu cũng được nhiều tác giả sử dụng. 
Bizhko và cộng sự đã báo cáo seri gồm 22 bệnh nhân chủ 
yếu là bỏng điện cao thế đều được sử dụng vạt tại chỗ để 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012
318
che phủ vùng lộ sọ, báo cáo cho biết khơng cĩ sự hoại 
tử xương sọ sau dùng vạt và thời gian nằm viện ngắn 
(1). Những vạt da cĩ mạch nuơi được sử dụng như 
vạt tại chỗ, vạt giãn tổ chức, hay vạt vi phẫu cũng 
được nhiều tác giả báo cáo. Theo một số nghiên cứu 
việc sử dụng vạt tại chỗ để che phủ ngay lập tức vùng 
lộ xương sọ là một lựa chọn tốt (2, 3). Vạt tại chỗ 
nên dựa theo nguồn cấp máu chính, độ dài của vạt cĩ 
thể tăng thêm nếu xẻ cân galea, vùng cho vạt thường 
phải ghép da mỏng. Tuy nhiên, theo một số báo cáo 
cho thấy việc sử dụng vạt tại chỗ cho những vùng 
khuyết da rộng và đặc biệt cĩ lộ màng cứng hoặc não 
cĩ thể gây nguy cơ thốt vị não (3).
Trong tạo hình khuyết da đầu, việc sử dụng vạt 
giãn tổ chức là một phương pháp cho chất liệu tạo 
hình tốt nhất do hiệu quả thẩm mỹ của phương pháp 
mang lại. Sử dụng giãn da vùng đầu cung cấp được 
diện tích da lớn để che phủ đồng thời cung cấp được 
vùng da mang tĩc mà khơng một vạt da cĩ cuống nào 
ở vùng khác cĩ được. Tuy nhiên, phương pháp này 
cũng cĩ những hạn chế nhất định như bệnh nhân phải 
trải qua ít nhất 2 lần phẫu thuật, vùng khuyết da do 
bỏng phải được đĩng kín liền sẹo thì đầu, tồn trạng 
bệnh nhân đủ điều kiện phẫu thuật như điều kiện về 
tri giác Như vậy, phương pháp này thường chỉ 
được áp dụng cho tạo hình bỏng da đầu cĩ trì hỗn 
hoặc thì hai. Trong 3 bệnh nhân của chúng tơi cĩ 1 
bệnh nhân sử dụng vạt giãn tổ chức do bệnh nhân 
khuyết da vùng đỉnh mất tồn bộ xương sọ vùng đỉnh 
cịn màng cứng, bệnh nhân đã được ghép da mỏng thì 
đầu tuy nhiên vùng da ghép cĩ chỗ bị loét, tồn trạng 
bệnh nhân ổn định. Chúng tơi đã tiến hành đặt 2 túi 
giãn da và bơm giãn trong 3 tuần. Kết quả bệnh nhân 
che phủ được tồn bộ diện khuyết da bằng vạt da giãn 
cĩ mang tĩc, đồng thời chúng tơi tiến hành cùng lúc 
việc che phủ khuyết xương sọ bằng mảnh ghép titan. 
Sau thời gian 2 năm vùng da che phủ sống và mọc 
tĩc tốt, khơng cĩ hiện tượng lộ mảnh ghép titan.
Bn T, bỏng độ IV, sử dụng vạt giãn và mesh titan (21x10 cm)
Phần 3. Phần chấn thương chung
319
Cĩ rất nhiều báo cáo về việc che phủ bỏng da đầu lớn 
bằng vạt vi phẫu do những ưu điểm của vạt này như khả 
năng che phủ những tổn khuyết lớn, sức sống tốt, khơng 
gây hiện tương loét hoặc co kéo về sau (2). Tuy nhiên, 
cũng cĩ những nhược điểm như cần phải cĩ trang thiết bị 
đầy đủ và phẫu thuật viên cĩ kinh nghiệm, thời gian phẫu 
thuật dài nên chỉ áp dụng cho những bệnh nhân cĩ tồn 
trạng ổn định, nếu sử dụng cho những vùng khuyết mang 
tĩc thì tính thẩm mỹ khơng cao do khơng mọc tĩc trên vạt. 
Cĩ rất nhiều vạt vi phẫu cĩ thể sử dụng để che phủ như vạt 
mạc nối lớn, vạt cơ lưng to, vạt quay, vạt cơ thẳng bụng
(6). Tuy nhiên, 2 bệnh nhân cĩ sử dụng vạt vi phẫu chúng 
tơi đều sử dụng vạt đùi trước ngồi (ALT). Hiện nay, vạt 
ALT được sử dụng khá rộng rãi do những ưu điểm của vạt 
như dễ bĩc, giải phẫu khá hằng định, cung cấp khối lượng 
vạt lớn, khơng ảnh hưởng chức năng nơi cho vạt, cĩ thể 
đĩng trực tiếp nơi cho nếu độ rộng dưới 8cm (2). Ngồi 
ra, chúng tơi sử dụng vạt ALT để che phủ vì rất thuận lợi 
khi chúng tơi tiến hành đồng thời hai kíp mổ lấy vạt và bĩc 
mạch nhận để giảm thời gian phẫu thuật. Một bệnh nhân 
của chúng tơi dùng vạt ALT để che phủ khuyết da tồn bộ 
trán là vùng khơng mang tĩc nên kết quả thẩm mỹ đạt tốt. 
Một bệnh nhân che phủ vùng trán đỉnh, mặc dù diện tích 
khuyết khơng quá lớn nhưng chúng tơi khơng sử dụng vạt 
tại chỗ do muốn giữ lại vùng da lành để đùng vạt giãn thì 
2 nếu bệnh nhân cĩ nhu cầu, tuy nhiên kết quả sau phẫu 
thuật khá tốt và bệnh nhân đã khơng cĩ nhu cầu làm tạo 
hình thì 2. Chúng tơi đã tiến hành sử dụng vạt vi phẫu cho 
cả trường hợp tạo hình bỏng ngay thì đầu và tạo hình cĩ 
trì hồn thì 2, chúng tơi nhận thấy nếu điều kiện tồn trạng 
bệnh nhân đủ điều kiện việc sử dụng vạt vi phẫu che phủ 
đạt hiệu quả cao đồng thời khơng gây tổn thương những 
vùng lân cận nơi tổn thương như phương pháp ghép da 
hay vạt tại chỗ.
Bn Th, bỏng độ III, sử dụng vạt vi phẫu ALT (9x9 cm)
KẾT LUẬN
Tạo hình trong bỏng điện da đầu cĩ tổn thương xương 
sọ kèm theo khá phức tạp do việc lựa chọn phương pháp 
tạo hình cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phân độ 
bỏng, độ rộng của tổn thương, tình trạng bệnh nhân và 
kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên tạo hình.
Tài liệu tham khảo
1.	 Bizhko	 Ip,	 Slesarenko	 SV. Operative treatment of 
deep burns of the scalp and skull. Burns 1992; 888: 
109-112. 
2.	 Gaye	 Taylan	 Calikapan	 et	 al. One-stage 
reconstruction of large sclap defects: Anterolateral 
thigh flap. Microsurgery 2006; 26: 155-159.
3.	 Kendall	Roehl	et	al. Management of Class IV Skull 
burns using the bipedicled superficial temporal artery 
scalp flap. The journal of craniofacial surgery 2008; 
Volume 19; 4: 970-975.
4.	 Marcus	Spies	et	al.	Management os acute calvarial 
burns in children. The journal of trauma 2003; 54: 
765-769.
5.	 LUCE,	 EDWARD	A,	 HOOPES,	 JOHN	 E. Electrical 
Burn of the Scalp and Skull. Plastic & Reconstructive 
Surgery 1974; Volume 54; 3 : 359-363
6.	 Lutz	BS	et	al. Reconstruction of scalp defects with 
free flaps in 30 cases. Br J Plast Surg 1998; 51: 186-
190.
7.	 Sheridan	 RL,	 Choucair	 RJ,	 Donelan	 MB.	
Management of massive calvarial exposure in young 
children. J Burn Care Rehabil 1998; 19: 29-32.

File đính kèm:

  • pdftao_hinh_trong_bong_dien_da_dau_nhan_3_truong_hop_va_nhin_la.pdf