Tăng triglyceride và bệnh tim mạch do xơ vữa

Bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch

(BTMXV) là nguyên nhân gây tử vong hàng

đầu và người ta đã khẳng định tăng

cholesterol của lipoprotein tỷ trọng thấp

(LDL-C) là một yếu tố nguy cơ độc lập của

xơ vữa động mạch. Gần đây, các bằng chứng

ngày càng nhiều cho thấy tăng triglycerid

(TG) máu có liên quan đến nguy cơ gia tăng

BTMXV. Tăng TG máu là một vấn đề rất phổ

biến trong thực hành lâm sàng với tỷ lệ

khoảng 10%. Nồng độ TG cao là dấu hiệu cho

một số loại lipoprotein giàu TG (TRL) như

VLDL, IDL, đặc biệt là LDLsd và

apolipoprotein C-III.

pdf 11 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Tăng triglyceride và bệnh tim mạch do xơ vữa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng triglyceride và bệnh tim mạch do xơ vữa

Tăng triglyceride và bệnh tim mạch do xơ vữa
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
7 
TĂNG TRIGLYCERIDE VÀ BỆNH TIM MẠCH DO XƠ VỮA 
Nguyễn Hải Thủy 
Trường Đại học Y Dược Huế 
DOI: 10.47122/vjde.2020.41.1 
ABSTRACT 
Hypertriglyceride and Atherosclerotic 
Cardiovascular Disease 
Atherosclerotic cardiovascular disease 
(ASCVD) is the leading cause of death and it 
has been confirmed that increased low density 
lipoprotein cholesterol (LDL-C) is an 
independent risk factor for atherosclerosis. 
Recently, the increasing evidence has showed 
that hypertriglyceridemia (HTG) is associated 
with incremental ASCVD risk. 
Hypertriglyceridemia is a very common 
problem in clinical practice with a prevalence 
of approximately 10%. High triglyceride 
concentration are markers for several type of 
TG rich lipoproteins (TRL) such as VLDL, 
IDL, especially LDLsdand apolipoproteinsC-
III. Patients with HTG may be at significant 
risk for ASCVD even if LDL cholesterol 
levels are at goal with Statins, and therefore 
warrant treatment that promotes regular 
exercise, optimizes diet and reduces 
overweight.... HTG in patients with type 2 
Diabetes Mellitus, ASCVD, or metabolic 
syndrome may benefit from additional drug 
including Fibtrates, Omega-3 polyunsaturated 
fatty acids (PUFAs) treatment aside from a 
Statins to address other lipid abnormalities. 
Keywords: Atherosclerotic Cardiovascular 
disease (ASCVD), hypertriglyceride 
TÓM TẮT 
Bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch 
(BTMXV) là nguyên nhân gây tử vong hàng 
đầu và người ta đã khẳng định tăng 
cholesterol của lipoprotein tỷ trọng thấp 
(LDL-C) là một yếu tố nguy cơ độc lập của 
xơ vữa động mạch. Gần đây, các bằng chứng 
ngày càng nhiều cho thấy tăng triglycerid 
(TG) máu có liên quan đến nguy cơ gia tăng 
BTMXV. Tăng TG máu là một vấn đề rất phổ 
biến trong thực hành lâm sàng với tỷ lệ 
khoảng 10%. Nồng độ TG cao là dấu hiệu cho 
một số loại lipoprotein giàu TG (TRL) như 
VLDL, IDL, đặc biệt là LDLsd và 
apolipoprotein C-III. Bệnh nhân tăng TG có 
thể có nguy cơ đáng kể đối với BTMXV ngay 
cả khi mức cholesterol LDL đạt mục tiêu với 
Statins, và do đó đảm bảo điều trị nhằm thúc 
đẩy luyện tập thể dục thường xuyên, tối ưu 
hóa chế độ ăn uống và giảm thừa cân... Tăng 
TG ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, 
BTMXV hoặc hội chứng chuyển hóa có thể 
được hưởng lợi từ các loại thuốc bổ sung bao 
gồm Fibtrates, Omega-3 axit béo không bão 
hòa đa nối đôi (PUFAs) bên cạnh Statin để 
giải quyết các bất thường lipid khác. 
Từ khóa: Bệnh tim mạch do xơ vữa động 
mạch (BTMXV), tăng triglyceride 
Từ viết tắt: Atherosclerotic 
Cardiovascular disease (ASCVD); 
Lipoprotein remnants; Lipoprotein lipase 
(LPL); Triglycerides (TG); Triglyceride-rich 
lipoproteins (TRL). 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hải Thủy 
Ngày nhận bài: 1/8/2020 
Ngày duyệt bài: 11/10/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0903574457 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Triglyceride (TG) là một dạng chất béo 
mà cơ thể chúng ta vẫn tiêu thụ hàng ngày có 
nguồn gốc chủ yếu từ mỡ động vật và thực 
vậtchứa trong thực phẩm. Sau khi vào cơ 
thể, TG sẽ kết hợp với cholesterol và một số 
thành phần lipid khác được vận chuyển bởi 
lipoprotein như Chylomicron và nhiều loại 
lipoprotein khác để cung cấp năng lượng 
thông qua enzyme lipoprotein lipase (LPL). 
Sau đó được tích trữ chủ yếu ở các tế bào 
gan và tế bào mỡ. Nếu cơ thể tích tụ quá 
nhiều TG gây tác hại cho cơ thể thông qua 
các bệnh lý nổi bật trên lâm sàng trong 
những năm gần đây như hội chứng chuyển 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
8 
hóa, gan nhiểm mỡ, đái tháo đường týp 2, 
bệnh tim mạch xơ vữa 
Đối tượng tăng TG máu đã và đang tăng 
trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đã và 
đang phát triển. Tại Hoa Kỳ ghi nhận có sự 
gia tăng nồng độ TG huyết tương trung bình 
gấp 7 lần so với cách đây 30 năm. Sự gia tăng 
TG này trùng hợp, một phần, với sự gia tăng 
các đối tượng thừa cân béo phì, hội chứng 
chuyển hóa và đái tháo đường týp 2. Vì thế 
tăng TG thường tập trung vào các đối tượng 
béo phì dạng nam, kháng insulin, hội chứng 
chuyển hóa và đái tháo đường típ 2. 
Phân loại của tăng TG cho đến nay vẫn 
dựa theo khuyến cáo của Hội đồng chuyên gia 
về Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc 
gia lần III (NCEP III), theo đó phân loại nồng 
độ TG<150 mg/dL được xem bình thường. 
giá trị 150 - 199 mg/dL được coi là giới hạn 
cao và trên 200 mg/dL (2,3 mmol/l) đều được 
gọi là cao và trên 500 mg/dL được coi là rất 
cao. Tăng TG máu do nhiều nguyên nhân 
nhưng nói chung là kết quả của sự gia tăng 
một hoặc nhiều chất lipoprotein giàu TG như 
chylomicrons, VLDL hoặc dạng thừa của 
chúng (Hình 1). 
Hình 1. Các lipoprotein giàu triglyceride (TRLs) 
Sự gia tăng TG xảy ra do gia tăng tổng 
hợp, giảm quá trình dị hóa hoặc do cả hai, với 
nguyên nhân cơ bản thường là kết quả của sự 
thay đổi các yếu tố như apolipoprotein C-II, 
apolipoprotein C-III, CETP (cholesterol ester 
transfer protein) và enzyme LPL. Ngoài ra, 
tăng TG máu cũng có thể là thứ phát sau các 
tình trạng bệnh khác (đái tháo đường, suy 
giáp, bệnh thận và hội chứng thận hư). Đặc 
biệt điều kiện môi trường hiện nay chế độ ăn 
uống những chất có chỉ số đường cao hoặc 
chất béo cao và mất cân bằng giữa tiêu thụ và 
sử dụng năng lượng, có liên quan đến tăng 
TG máu. Ngoài ra lối sống không lành mạnh, 
ít hoạt động, tiêu thụ rượu bia quá nhiều là 
một trong những đóng góp chính cho sự gia 
tăng nồng độ TG lưu hành ở các nước đã và 
đang phát triển. 
Tăng Triglycerides và kháng insulin 
Kháng insulin là một tình trạng bệnh lý 
liên quan chủ yếu đến béo phì dạng nam, hội 
chứng chuyển hóa, ĐTĐ típ 2, trong đó vai 
trò của Insulin mất đi tác dụng ức chế quá 
trình phân giải mỡ trong tế bào mỡ làm nồng 
độ FFA gia tăng và được vận chuyển đến gan, 
nơi có sẵn lipid ổn định việc sản xuất apoB, 
apolipoprotein chính của các hạt VLDL. 
Ngoài ra sự giảm tác dụng insulin làm giảm 
các con đường thoái hóa cho apoB, điều này 
cũng góp phần làm gia tăng sản xuất VLDL. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
9 
Hình 2. Sơ đồ cơ chế kháng insulin với tăng TG và rối loạn các lipoprotein 
Enzyme Lipoprotein lipase (LPL) hiện 
diện trong tế bào nội mô mao mạch ngoại 
biên và giới hạn tốc độ cho sự thanh thải các 
lipoprotein giàu triglyceride, bị giảm trong 
kháng insulin. 
 Do đó, tăng triglyceride máu trong kháng 
insulin (phản ánh gia tăng các hạt VLDL) xảy 
ra do sự kết hợp của việc tăng sản xuất VLDL 
và giảm sự thanh thải VLDL. Các VLDL 
được chuyển hóa thành các lipoprotein thừa 
và thúc đẩy sự hình thành mảng xơ vữa. 
Sự hiện diện của các hạt VLDL tăng cũng 
ảnh hưởng đến chuyển hóa HDL. 
Triglyceride trong hạt VLDL lại được 
chuyển sang HDL nhờ chất protein chuyển 
cholesteryl ester (CETP). Quá trình này dẫn 
đến hình thành các hạt HDL chứa nhiều TG, 
được loại bỏ nhanh hơn khỏi máu lưu thông, 
khiến cho ít hạt HDL hơn để thu nhận 
cholesterol từ mạch máu. 
Kháng insulin làm tác dụng chuyển hóa 
của insulin bị giảm bao gồm tăng quá trình 
phân giải mỡ cơ bản và ít ức chế quá trình 
phân giải mỡ do ăn và insulin. Ngoài ra, có sự 
giảm tác dụng trong gan của insulin liên quan 
đến chuyển hóa apolipoprotein. Trong điều 
kiện sinh lý, insulin ức chế quá trình phiên mã 
gen apolipoprotein C-III (apo C-III) và làm 
tăng sự thoái biến apolipoprotein B-100 (apo 
B-100) và cả hai tác dụng của insulin đều bị 
giảm trong kháng insulin. Tuy nhiên, khả 
năng của insulin để tăng phiên mã gen gắn 
protein-1c của yếu tố điều hòa sterol vẫn bảo 
tồn. Do đó, với tăng lượng axit béo tự do 
(FFA) và ester hóa thành triglyceride (TG) và 
tăng tạo mỡ, gan nhiễm mỡ thường xảy ra. 
Hơn nữa, với sự hiện diện nhiều TG , sự 
sẵn có của apo C-III và apo B-100 tăng cường 
khả năng tổng hợp và bài tiết VLDL. Ngoài 
ra, trong tuần hoàn, tác dụng ức chế của 
VLDL apo C-III đối với lipoprotein lipase 
(LPL) làm giảm tốc độ dị hóa phân đoạn của 
VLDL và góp phần vào gánh nặng của tăng 
triglyceride máu. 
2. TĂNG TG MÁU LÀ YẾU TỐ NGUY 
CƠ ĐỘC LẬP ĐỐI VỚI BỆNH TIM 
MẠCH 
Nghiên cứu Framingham ghi nhận sự 
liên quan giữa tăng TG máu với bệnh tim 
mạch, đặc biệt ở phụ nữ. Ngoài ra nhiều 
nghiên cứu khác trước đó cũng đã cho thấy 
mối liên hệ giữa tăng TGvà tăng nguy cơ 
mắc bệnh tim mạch. 
Câu hỏi được đặt ra liệu TG có phải là yếu 
tố nguy cơ độc lập hay không đối với bệnh 
tim mạch xơ vữa. Ví dụ, qua phân tích tổng 
hợp các dữ liệu về các yếu tố nguy cơ mới nổi 
lên cho thấy TG là yếu tố nguy cơ đối với 
bệnh tim mạch và đột quỵ, nhưng sau khi điều 
chỉnh các yếu tố nguy cơ chuẩn (chủ yếu là 
cholesterol liên quan đến lipoprotein), một số 
các nhà nghiên cứu cho rằng nồng độ TG ít có 
giá trị nhiều trong dự đoán. Tuy nhiên, một số 
khuyến cáo khác ở bệnh nhân có nồng độ TG 
trên 500 mg/dL có nguy cơ cao viêm tụy và 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
10 
khuyến cáo việc định lượng nồng độ TG và 
điều trị cho những người có nồng độ TG cao 
bất kể có hay không có nguy cơ tim mạch. 
Liên quan giữa nồng độ TG với bệnh tim 
mạch (sau khi tính đến các yếu tố nguy cơ 
khác như tăng LDL-C và giảm HDL-C) 
không được thuyết phục khiến câu hỏi đặt ra 
là liệu đo nồng độ TG có giúp ích gì cho việc 
quản lý bệnh nhân BTMXV không. Tuy 
nhiên, có một số lý do quan trọng để đánh giá 
nồng độ TG ở bệnh nhân hội chứng chuyển 
hóa, gan nhiễm mỡ, đái tháo đường típ 2. 
Ngoài ra, ngày càng có nhiều nghiên cứu 
chỉ ra TG là yếu tố nguy cơ độc lập đối với 
bệnh tim mạch ngay cả khi điều chỉnh nồng 
độ cholesterol toàn phần, LDL-C và HDL-C. 
Ví dụ, nghiên cứu PROCAM cho thấy tăng 
nguy cơ biến cố tim mạch khi nồng độ TG 
tăng và nguy cơ tồn tại sau khi tính đến các 
yếu tố nguy cơ chính khác, và nghiên cứu 
PRISE IT-TIMI 22 cho thấy nồng độ TG có 
tác động đáng kể đến kết quả tim mạch ở 
bệnh nhân mắc hội chứng mạch vành cấp tính 
độc lập với LDL-C. Nghiên cứu ngẫu nhiên 
Mendel cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa 
các yếu tố liên quan đến việc điều chỉnh nồng 
độ các lipoprotein giàu TG và bệnh tim mạch. 
Phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu Tim mạch tại 
Copenhagen cho thấy các biến thể di truyền 
của enzyme LPL dẫn đến giảm nồng độ TG 
cũng làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên 
nhân. Các phân tích tổng hợp của các thử 
nghiệm ngẫu nhiên đã minh chứng rằng gia 
tăng nồng độ TG được xem như là một yếu tố 
nguy cơ độc lập về bệnh tim mạch do xơ vữa. 
Một phân tích đánh giá tác động của việc 
giảm nồng độ cholesterol máu bằng Statin đã 
chỉ ra rằng, ở những bệnh nhân mắc bệnh tim 
mạch từ trước, việc giảm nguy cơ tồn dư 
không liên quan đến giảm LDL-C có thể liên 
quan đến các lipoprotein giàu TG. Một cách 
thuyết phục nhất, một phân tích tổng hợp gần 
đây của 29 nghiên cứu tiền cứu đã cho thấy 
nồng độ TGcóchỉ số nguy cơ (OR) là 1,72 
(95%, CI=1,56-1,90) cho những người ở nồng 
độ TGcao sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy 
cơ khác. Một tỷ lệ tương tự đã được báo cáo 
trong một phân tích tổng hợp bao gồm dữ liệu 
từ 26 nghiên cứu tiền cứu ở dân số châu Á và 
Thái Bình Dương. Với các bằng chứng ngày 
càng tăng cho thấy tăng TG là dấu hiệu tăng 
nguy cơ mắc bệnh tim mạch, một câu hỏi 
được đặt ra chính là liệu giảm mức TG có 
giúp bảo vệ tim mạch hay không. Kết quả của 
một số nghiên cứu cho thấy rằng giảm nồng 
độ TG có thể làm giảm nguy cơ biến cố tim 
mạch. Một phân tích về hai thử nghiệm phòng 
ngừa thứ phát của Pravastatin cho thấy rằng 
HDL-C cao và TG thấp là những yếu tố dự 
báo quan trọng về giảm nguy cơ mắc các biến 
cố bệnh tim mạch. 
Một phân tích tổng hợp gần đây của 18 thử 
nghiệm đánh giá tác dụng của Fibrates đối với 
biến cố tim mạch đã ghi nhận giảm 10% nguy 
cơ tương đối đối với các biến cố tim mạch lớn 
ở những người bị tăng TG máu đơn thuần 
hoặc kết hợp với HDL-C thấp. Các phân tích 
tổng hợp khác cho thấy mối liên quan nồng 
độ TG thấp và dự phòng biến cố tim mạch 
độc lập với các yếu tố nguy cơ chính khác. 
Do đó, bằng chứng cho thấy vai trò độc lập 
của nồng độ TG trong nguy cơ tim mạch và 
xác định nồng TG ở bệnh nhân có nguy cơ. 
3. CÓ PHẢI TĂNG TG MÁU CÓ VAI 
TRÒ TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP TRONG 
VIỆC THÚC ĐẨY BỆNH TIM MẠCH XƠ 
VỮA KHÔNG? 
Cơ chế tăng TG máu tác động trực tiếp 
đến bệnh tim mạch xơ vữa vẫn chưa rõ. Tuy 
nhiên một số giả thuyết và bằng chứng cho 
thấy TG có thể liên quan đến tổn thương xơ 
vữa động mạch. 
Gia tăng nồng độ TG sẽ gây rối loạn các 
lipoprotein giàu TG (VLDL, IDL) làm gia 
tăng lượng phenotype LDL với kích thước bé 
dần (LDLsd) và LDLs do không tiếp nhận với 
thụ thể LDL tại gan (Hình 3) dễ dàng xâm 
nhập vào nội mạc thành mạch gây xơ vữa 
động mạch, làm các mảng vữa có thành mỏng 
nguy cơ dễ bóc tách và lấp mạch (hình 4 và 
hình 5). 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
11 
Hình 3. Giả thuyết về mối liên quan giữa rối loạn chuyển hóa của các lipoprotein giàu TG 
trong sự phát triển các phenotype của lipoprotein gây xơ vữa. 
Nồng độ TG càng cao thì càng gia tăng số 
lượng LDLsd. Các lipoprotein nhỏ này sẽ 
không được thu nhận với thụ thể LDL tại gan 
dẫn đến gia tăng tình trạng xâm nhập vào nội 
mạc làm gia tăng xơ vữa. Bên cạnh đó HDL 
cũng tăng biến đổi thành HDLsd loại HDL 
này mất chức năng chống xơ vữa. (CETP, 
cholesterol ester transfer protein; Chol, chole 
sterol; HL, hepatic lipase; LDLR, LDL 
receptor; LPL, lipoprotein lipase). 
Hình 4. Cơ chế bệnh sinh gây xơ vữa của LDLsd 
Hình 5. So sánh hình ảnh tổn thương mảng xơ vữa ổn định với bao xơ dày và không ổn định bao 
xơ mỏng liên quan LDLsd. Mảng xơ vữa không ổn định nguy cơ bóc tách gây lấp mạch. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
12 
Bên cạnh đó, một số giả thuyết dựa trên thực tế lâm sàng là các lipoprotein giàu TG (VLDL, 
chylomicron, IDL) cũng chứa một lượng cholesterol đáng kể và có thể thúc đẩy sự hình thành tế 
bào bọt bằng cách đóng góp cholesterol vào tổn thương. Tại các mảng xơ vữa động mạch, ngoài 
hạt LDL người ta còn tìm thấy nhiều lipoprotein khác (IDL, VLDL thừa, Lp (a)) Hình 4. 
. 
Hình 6. Các hạt lipoprotein (IDL, VLDL thừa, Lp (a) hiện diện trong các mảng xơ vữa 
Các hạt VLDL và Chylomicron thừa được 
tạo ra sau khi bị thủy phân một phần TG của 
chúng thông qua hoạt động của enzyme LPL. 
Những hạt này cũng có chứa cholesterol và có 
thể thu được cholesterol bổ sung bằng cách 
chuyển từ HDL thông qua hoạt động của 
protein chuyển cholesterol ester (CETP). 
Trong tăng TG máu, có sự gia tăng tổng hợp 
VLDL, độ thanh thải chậm và thường gia tăng 
trong các hạt lipoprotein thừa. 
Trên thực tế, nồng độ TGmáu lúc đói chủ 
yếu phản ánh các hạt lipoprotein thừa, đặc 
biệt là trong tăng TG máu và các hạt này có 
thể gây xơ vữa (hình 4). Mặc dù chylomicron 
ở một mức độ nào đó, VLDL kích thước 
thường quá lớn để vượt qua lớp tế bào nội mô 
và xâm nhập vào lớp áo trong thành mạch, 
chuyển đổi thành phần thừa cho phép các hạt 
này tích tụ trong tổn thương xơ vữa động 
mạch và lắ ...  ra acid béo tự do (FFA) 
và monoglyceride. Các nghiên cứu nuôi cấy 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
13 
tế bào đã chứng minh rằng các axit béo chuỗi 
dài, đặc biệt là các axit béo bão hòa như 
Palmitate và Stearate, là các chất gây độc cho 
tế bào. Do đó, sự hiện diện của TG do thoái 
biến lipid trong các tổn thương xơ vữa động 
mạch có thể làm tăng nồng độ axit béo tự do 
gây độc trong các tế bào của thành động 
mạch, sẽ thúc đẩy sự chết của tế bào và gây 
viêm. Cả sự gia tăng chết tế bào và các tín 
hiệu viêm là mấu chốt chính của quá trình 
phát sinh xơ vữa. 
Để hỗ trợ quá trình phân giải lipid TG như 
tiến trình điều khiển gây xơ vữa, đại thực bào 
tạo và tiết enzyme lipoprotein lipase và người 
ta ước tính rằng đại thực bào là nguồn LPL 
chính trong các mảng xơ vữa động mạch. 
Thoái biến lipid cục bộ của lipoprotein 
giàu TG và tàn dư của chúng cũng có thể giải 
phóng các axit béo oxy hóa khác, có thể thúc 
đẩy độc tế bào và viêm; nguồn gốc chính 
trong sự phát triển tổn thương xơ vữa động 
mạch. Tăng lipoprotein lipase đại thực bào 
kích thích gây độc đại thực bào, trong khi làm 
giảm lipoprotein lipase đại thực bào ở chuột 
làm giảm kích thước mảng xơ vữa động 
mạch. Do đó, sự thủy phân cục bộ các hạt 
giàu triglyceride bằng đại thực bào có khả 
năng tạo ra tác dụng gây độc tế bào và viêm. 
Thành phần axit béo của lipoprotein, bao 
gồm cả lipoprotein giàu TG, ảnh hưởng đến 
quá trình trao đổi chất của chúng rất phức tạp. 
Thành phần axit béo của lipoprotein (cũng 
như phospholipids và cholesteryl ester) bị ảnh 
hưởng nhiều bởi acid béo của chế độ ăn uống. 
Mặc dù acid béo bão hòa của chế độ ăn uống 
được cho là xấu, cho dù tiêu thụ chất béo bão 
hòa, làm tăng nguy cơ tim mạch vẫn còn gây 
tranh cãi dựa trên bằng chứng có sẵn. 
Tuy nhiên, ở những người mắc FH, tăng 
chất béo bão hòa trong chế độ ăn làm tăng 
nồng độ LDL-C. Điều cũng có vẻ rõ ràng là 
việc thay thế axit béo bão hòa trong chế độ ăn 
uống bằng axit béo đa không bão hòa (PUFA) 
làm giảm các biến cố tim mạch. 
Omega-6 PUFA là PUFA đầu tiên được 
tìm thấy trong chế độ ăn uống phương Tây. 
Có bằng chứng cho thấy nồng độ TG thấp 
hơn, một phần, bằng cách tăng quá trình phân 
giải lipid của lipoprotein giàu TG.Omega-3 
PUFA là nguồn PUFA chính khác của thức ăn. 
Cá là một nguồn phong phú Omega-3 chuỗi 
dài, và có bằng chứng thuyết phục rằng PUFA 
omega-3 (nguồn hải sản) làm giảm cả nồng 
độ TG và nguy cơ tim mạch. 
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát 
quy mô lớn gần đây (REDUCE-IT) sử dụng 
EPA sản phẩm dầu cá đã làm giảm 25% biến 
cố tim mạch lớn ở những bệnh nhân bị tăng 
TG máu. Thay thế chất béo bão hòa bằng axit 
béo không bão hòa đơn có thể giúp giảm một 
số biến cố tim mạch, nhưng PUFA dường như 
có mối liên quan nhiều hơn về sự cải thiện 
nguy cơ tim mạchso với axit béo không bão 
hòa đơn. 
Trái ngược với axit béo dạng Cis, axit béo 
không bão hòa dạng Trans, thường thấy trong 
thực phẩm chế biến, có liên quan đáng kể với 
tăng nguy cơ tim mạch. Đưa ra bằng chứng 
này và bằng chứng khác, một báo cáo gần đây 
từ Hội đồng chuyên gia của Hiệp hội Lipid 
quốc gia khuyến cáo, đối với những bệnh 
nhân có nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp 
hoặc trung bình, nên giảm lượng axit béo bão 
hòa xuống <7% tổng năng lượng và axit béo 
dạng Trans. Việc giảm chất béo bão hòa và 
dạng Trans nên được thay thế bằng PUFA, 
protein và carbohydrate. 
 Các khuyến cáo đề nghị ăn cá hai lần mỗi 
tuần. Đối với những người có nồng độ TG 
cao, Hội đồng chuyên gia cũng khuyến nghị 
bổ sung axit béo không bão hòa đa Omega-3 
từ các nguồn hải sản. AHA/ACC năm 2018 
liệt kê tăng TG máu liên tục là chất tăng nguy 
cơ phát triển ASCVD và khuyến nghị sử dụng 
dầu cá Omega-3 cho những người có nồng độ 
TG cao để ngăn ngừa viêm tụy. 
Khuyến cáo AHA/ACC đã không loại trừ 
bằng chứng về thử nghiệm REDUCE-IT. Do 
đó, ở những người bị tăng TG máu và các yếu 
tố nguy cơ khác đối với ASCVD, người ta 
nên xem xét bắt đầu sử dụng dầu cá Omega-3 
hoặc tăng cường trị liệu bằng statin. 
Thủy phân TG qua LPL không phải là cơ 
chế duy nhất tại thành động mạch về chuyển 
hóa các hạt giàu TG để tạo ra các hợp chất có 
khả năng gây xơ vữa. Các tế bào bọt cũng có 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
14 
khả năng nhập bào các VLDL và các hạt 
lipoprotein thừa, sau đó có thể được thoái 
biến trong tiêu thể (lysosome) 
Bằng chứng cho thấy dưới tác động của xơ 
vữa, bao gồm cả sự kết hợp của đại thực bào, 
con đường chuyển hóa TG trong các đại thực 
bào có thể chuyển sang ưu tiên cung cấp 
lipoprotein giàu TG hơn là sự thủy phân ở bề 
mặt. Ngoài ra trong khi thủy phân bề mặt TG 
bằng lipase bề mặt chủ yếu chỉ cung cấp axit 
béo tự do cho các tế bào, sự thu nhận nhập 
bào của các hạt sẽ bao gồm việc cung cấp các 
hạt đầy đủ, bao gồm cả sterol của nó, sẽ làm 
trầm trọng sự tích tụ của tế bào bọt. 
Một tiềm năng khác mà lipoprotein giàu 
TG có thể ảnh hưởng đến xơ vữa động 
mạch nhắm vào apolipoprotein CIII của 
VLDL và các phần thừa. ApoCIII ức chế 
enzyme lipoprotein lipase, ức chế sự thu 
nhận các phần thừa vào gan và nồng độ của 
nó liên quan đến tăng TG máu. Do đó, nồng 
độ apolipoprotein CIII cao có thể thúc đẩy 
sự lưu giữ tại động mạch VLDL và phần 
thừa làm cho chúng gây xơ vữa hơn, từ đó 
đề xuất apolipoprotein CIII như là mục tiêu 
điều trị. Trên thực tế, những cá nhân có vài 
đột biến trong ApoCIII có giảm nồng độ TG 
và LDL-C. 
Hình 7. Cơ chế xơ vữa động mạch do Lipoprotein giàu Triglyceride (TRLPs) 
Hình 8. Cơ chế xơ vữa động mạch do Lipoprotein giàu Triglyceride thừa (TRLP-R) 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
15 
Lipoprotein giàu triglyceride (TRLs) và 
các sản phẩm thoái biến lipid của nó bị thủy 
phân bởi lipoprotein lipase (LPL) và CETP 
(cholesterol ester transporter protein), chứa 
TRL thừa (TRL-R), sd-LDL, HDL3 (HDL tái 
tạo), axit béo tự do oxy hóa (ox-FFA) và các 
loại khác, có thể làm gia tăng sản xuất các 
loại oxy phản ứng (ROS) và giảm oxit nitric 
(NO) được giải phóng bởi nội mô và điều 
chỉnh tăng biểu hiện nội mô của một số phân 
tử (ICAM-1= intercelluar adhesion 
molecule-1) VCAM-1 =vascular cell 
adhesion molecule-1) NLRP-1 = nucleotide-
bindingdomain - like receptor family pyrin 
domain-containing protein 1), thúc đẩy rối 
loạn chức năng nội mô. TRLs và các sản 
phẩm của chúng thâm nhập vào nội mạc mạch 
máu và gây ra tình trạng viêm góp phần kích 
hoạt tế bào đơn nhân, bám dính và xâm nhập. 
Trong khi đó, bạch cầu nội mạc cũng có thể 
lấy TG hoặc cholesterol trong TRL-R để tạo 
thành các tế bào bọt, sau đó phát triển thành 
lõi của mảng xơ vữa động mạch.Ngoài ra, 
một số cytokine (TNF-α =tumor necrosis 
factor-α, IL-1β =interleukin-1 β và các loại 
khác) và các tế bào T tham gia vào quá trình 
xơ vữa động mạch và toàn bộ quá trình xơ 
vữa động mạch liên quan đến tiểu cầu kích 
hoạt và tập hợp để gây ra một trạng thái tiền 
đông máu (procoagulant state) và hình thành 
cục máu đông, trong chứng tăng triglyceride 
máu. 
Hai nghiên cứu gần đây cho thấy mất chức 
năng đột biến ApoCIII làm giảm TG huyết 
thanh> 39%, giảm đáng kể LDL-C và tăng 
HDL-C, và giảm tỷ lệ biến cố tim mạch> 
36%. Một chất ức chế chọn lọc 
oligonucleotide antisense của ApoCIII đã 
được phát triển làm giảm ApoCIII và TG 
huyết thanh ở chuột, linh trưởng và người 
đang trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2. 
Những nghiên cứu này chỉ ra rằng giảm 
ApoCIII bằng cách ức chế Oligonucleotide 
antisense làm giảm đáng kể nồng độ TG máu. 
Bên cạnh tác dụng của chúng đối với lipid 
máu, các lipoprotein chứa ApoCIII cũng kích 
thích một loạt các quá trình bao gồm kích 
hoạt các tế bào đơn nhân, viêm, tế bào nội mô 
sản xuất NO, dẫn đến rối loạn chức năng 
thành mạchvà tăng quá trình oxy hóa lipid và 
liên kết của lipoprotein với PG chất kích thích 
hình thành tế bào bọt. 
Sau cùng nồng độ TG có thể ảnh hưởng 
đến sự phát sinh xơ vữa có liên quan đến việc 
phát hiện bệnh nhân tăng TG máu cũng có xu 
hướng gia tăng nồng độ các yếu tố gây huyết 
khối như chất ức chế hoạt hóa fibrinogen và 
plasminogen và chất trung gian gây viêm 
(TNF-alpha, IL-6, 1 và MCP-1). Huyết khối 
và viêm là yếu tố chính trong xơ vữa động 
mạch và sự tiến triển của nó gây bệnh mạch 
vành và đột quỵ. 
4. BIỆN PHÁP GIẢM NỒNG ĐỘ TG 
MÁU 
Tăng TG huyết tương có thể đóng góp trực 
tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều khía cạnh của sự 
phát triển tổn thương xơ vữa động mạch. Bất 
kể liệu triglyceride có phải là nguyên nhân 
trực tiếp gây ra bệnh tim mạch hay không, 
nhiều bằng chứng cho thấy việc đánh giá 
nồng độ TG có vai trò quan trọng trong việc 
đánh giá và kiểm soát nguy cơ tim mạch, và 
điều trị làm giảm TG có thể làm giảm nguy 
cơ mắc các bệnh tim mạch. Điều này đặc biệt 
đúng đối với bệnh nhân mắc bệnh mạch vành 
hoặc đái tháo đường. 
Một số tác nhân đã cho thấy hiệu quả 
trong việc giảm TG và cũng làm giảm nguy 
cơ mắc bệnh tim mạch. Hiện nay, các tác 
nhân trị liệu được khuyên dùng để điều trị 
tăng triglyceride máu là fibrate, statin, niacin 
và omega-3 PUFA và những loại khác đang 
được triển khai. Trong số đó liệu pháp fibrate 
là phương pháp hiệu quả để trực tiếp hạ thấp 
nồng độ TG. Fibrate đã được chứng minh là 
làm giảm mức chất béo trung tính 30% -50% 
tùy theo mức cơ bản. 
Mặc dù các thử nghiệm điều trị kết hợp 
statin với fenofibrate đã không đáp ứng được 
các tiêu chí chính của chúng về việc giảm các 
biến cố tim mạch, nhưng phân tích của tất cả 
các thử nghiệm fibrate cho thấy lợi ích đáng 
kể về việc giảm các biến cố bệnh tim mạch xơ 
vữa khi xem xét nhóm phụ của bệnh nhân có 
triglyceride tăng cao và HDL-C thấp và các 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
16 
đặc điểm của hội chứng chuyển hóa hoặc đái 
tháo đường típ 2. 
5. KẾT LUẬN 
Sự liên quan giữa gia tăng nồng độ TG 
máu và bệnh tim mạch xơ vữa đã được chứng 
minh. Vấn đề đang tranh luận là nồng độ TG 
trực tiếp thúc đẩy quá trình tạo xơ vữa hoặc, 
thay vào đó, chỉ là một dấu ấn sinh học cho 
các quá trình khác ảnh hưởng đến nguy cơ 
tim mạch. Tuy nhiên, bằng chứng hỗ trợ việc 
định lượng nồng độ TG và chế độ điều trị 
giảm nồng độ TG cần được tăng cường đặc 
biệt ở những bệnh nhân mắc hội chứng 
chuyển hóa, đái tháo đường và bệnh tim mạch 
xơ vữa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. National Cholesterol Education Program 
Expert Panel on Detection E. Treatment 
of High Blood Cholesterol in A. Third 
Report of the National Cholesterol 
Education Program (NCEP) Expert Panel 
on Detection, Evaluation, and Treatment 
of High Blood Cholesterol in Adults 
(Adult Treatment Panel III) final report. 
Circulation. 2002;106:3143–3421. 
2. Grundy SM, Cleeman JI, Merz CN, 
Brewer HB Jr, Clark LT, Hunninghake 
DB, Pasternak RC, Smith SC Jr, Stone 
NJ. National Heart L, Blood I, American 
College of Cardiology F, American Heart 
A. Implications of recent clinical trials 
for the National Cholesterol Education 
Program Adult Treatment Panel III 
guidelines. Circulation. 2004;110:227–
239. 
3. Brinton E. Management of 
Hypertriglyceridemia for Prevention of 
Atherosclerotic Cardiovascular Disease. 
Cardiology clinics. 2015;33:309–323. 
4. Miller M, Stone N, Ballantyne C, Bittner 
V, Criqui M, Ginsberg H, Goldberg A, 
Howard W, Jacobson M, Kris-Etherton P, 
Lennie T, Levi M, Mazzone T, Pennathur 
S. American Heart Association Clinical 
Lipidology T, Prevention Committee of 
the Council on Nutrition PA, 
Metabolism, Council on Arteriosclerosis 
T, Vascular B, Council on Cardiovascular 
N, Council on the Kidney in 
Cardiovascular D. Triglycerides and 
cardiovascular disease: a scientific 
statement from the American Heart 
Association. Circulation. 2011;123:2292–
2333. 
5. Austin M, Hokanson J, Edwards K. 
Hypertriglyceridemia as a cardiovascular 
risk factor. The American journal of 
cardiology. 1998;81:7B–12B. 
6. Sarwar N, Danesh J, Eiriksdottir G, 
Sigurdsson G, Wareham N, Bingham S, 
Boekholdt S, Khaw K, Gudnason V. 
Triglycerides and the risk of coronary 
heart disease: 10,158 incident cases 
among 262,525 participants in 29 
Western prospective studies. Circulation. 
2007;115:450–458. 
7. Castelli W. The triglyceride issue: a view 
from Framingham. American heart 
journal. 1986;112:432–437. 
8. Miller M. Chapter 9. High-density 
lipoprotein cholesterol and triglycerides 
in coronary heart disease risk assessment. 
In: Ballantyne C, ed. Clinical lipidology: 
A companion to Braunwald's Heart 
Disease, Second Edition. Philadelphia: 
Elsevier Saunders; 2015:100-108. 
9. Talayero B, Sacks F. The role of 
triglycerides in atherosclerosis. Current 
cardiology reports. 2011;13:544–552. 
10. Assmann G, Cullen P, Schulte H. The 
Munster Heart Study (PROCAM). 
Results of follow-up at 8 years. European 
heart journal 1998; 19 Suppl A:A2-A11. 
11. Patel A, Barzi F, Jamrozik K, Lam T, 
Ueshima H, Whitlock G, Woodward M, 
Asia Pacific Cohort Studies C. Serum 
triglycerides as a risk factor for 
cardiovascular diseases in the Asia-
Pacific region. Circulation. 
2004;110:2678–2686. 
12. Chang W, Lin J, Dong J, Li D. 
Pyroptosis: an inflammatory cell death 
implicates in atherosclerosis. Medical 
hypotheses. 2013;81:484–486. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
17 
13. Third Report of the National Cholesterol 
Education Program (NCEP) Expert Panel 
on Detection, Evaluation, and Treatment 
of High Blood Cholesterol in Adults 
(Adult Treatment Panel III). Circulation. 
2002;106:3143–3421.] 
14. Brunzell J, Davidson M, Furberg C, 
Goldberg R, Howard B, Stein J, Witztum 
J. American Diabetes A, American 
College of Cardiology F. Lipoprotein 
management in patients with 
cardiometabolic risk: consensus 
statement from the American Diabetes 
Association and the American College of 
Cardiology Foundation. Diabetes Care. 
2008;31:811–822. 
15. Keech A, Simes R, Barter P, Best J, Scott 
R, Taskinen M, Forder P, Pillai A, Davis 
T, Glasziou P, Drury P, Kesaniemi Y, 
Sullivan D, Hunt D, Colman P, d'Emden 
M, Whiting M, Ehnholm C, Laakso M. 
investigators Fs. Effects of long-term 
fenofibrate therapy on cardiovascular 
events in 9795 people with type 2 
diabetes mellitus (the FIELD study): 
randomised controlled trial. Lancet. 
2005;366:1849–1861. 
16. Barter P, Rye K. Is there a role for 
fibrates in the management of 
dyslipidemia in the metabolic syndrome? 
Arteriosclerosis, thrombosis, and 
vascular biology. 2008;28:39–46. 
17. Elam M, Lovato L, Ginsberg H. Role of 
fibrates in cardiovascular disease 
prevention, the ACCORD-Lipid 
perspective. Current opinion in 
lipidology. 2011;22:55–61. 
18. Deepak L. Bhatt, Michael Miller,Eliot A. 
Brinton, et al (2020). REDUCE-
IT(Reduction of Cardiovascular Events 
with Icosapent Ethyl - Intervention Trial) 
USA.Results From the 3146 Patients 
Randomized in the United 
States.Circulation. 2020;141:367–375. 

File đính kèm:

  • pdftang_triglyceride_va_benh_tim_mach_do_xo_vua.pdf