Tăng đường huyết hậu phẫu mổ lấy thai Báo cáo một trường hợp bệnh
Đái tháo đường thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glucose huyết ở nhiều mức độ khác
nhau, được phát hiện lần đầu tiên trong thời gian mang thai, có thể dẫn đến các kết cục
xấu trong thai kỳ, liên quan đến việc gia tăng bệnh suất và tử suất ở cả thai phụ và thai nhi.
Định nghĩa này không loại trừ tình trạng rối loạn dung nạp glucose mà không được phát
hiện trước đó, tồn tại sau thời kỳ mang thai hay mới bắt đầu đồng thời cùng với thai kỳ [1].
Chương trình tầm soát đái tháo đường thai kỳ ngày càng được quan tâm trong công tác
chăm sóc sức khỏe sinh sản trên thế giới và Việt Nam trong thời gian gần đây. Tuy nhiên,
tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, dân cư tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn,
với nghề nghiệp chính của phụ nữ là lao động chân tay, chương trình tầm soát đái tháo
đường thai kỳ chưa được quan tâm đúng mức và cơ sở y tế còn nhiều hạn chế. Tại bệnh
viện chúng tôi thường xuyên tiếp nhận những trường hợp cấp cứu sản khoa mà có ít thông
tin chăm sóc sức khỏe thai kỳ trước đó. Chúng tôi muốn giới thiệu một trường hợp thai phụ
35 tuổi, thai 36 tuần, theo dõi thai kỳ tại phòng mạch tư, Para 1001, không tầm soát đái
tháo đường thai kỳ, nhập viện vì đau bụng, siêu âm thiểu ối, tim thai chậm. Với chỉ định mổ
lấy thai, chúng tôi tiến hành kháng sinh dự phòng, dịch truyền Lactate Ringer và Glucose
5%. Hậu phẫu mổ lấy thai, bé trai 2.200 gram, Apgar 7/9, duy trì kháng sinh dự phòng
và dịch truyền. Hậu phẫu ngày 2, thai phụ lơ mơ, thở nhanh, đầu chi lạnh, phù toàn thân,
đường huyết định lượng 726 mg/dl và được điều trị tại khoa hồi sức tích cực.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng đường huyết hậu phẫu mổ lấy thai Báo cáo một trường hợp bệnh
52 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT HẬU PHẪU MỔ LẤY THAI BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP BỆNH PHAN HOÀNG MẪN ĐẠT* VÕ MINH TUẤN** TÓM TẮT Đái tháo đường thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glucose huyết ở nhiều mức độ khác nhau, được phát hiện lần đầu tiên trong thời gian mang thai, có thể dẫn đến các kết cục xấu trong thai kỳ, liên quan đến việc gia tăng bệnh suất và tử suất ở cả thai phụ và thai nhi. Định nghĩa này không loại trừ tình trạng rối loạn dung nạp glucose mà không được phát hiện trước đó, tồn tại sau thời kỳ mang thai hay mới bắt đầu đồng thời cùng với thai kỳ [1]. Chương trình tầm soát đái tháo đường thai kỳ ngày càng được quan tâm trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản trên thế giới và Việt Nam trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, dân cư tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, với nghề nghiệp chính của phụ nữ là lao động chân tay, chương trình tầm soát đái tháo đường thai kỳ chưa được quan tâm đúng mức và cơ sở y tế còn nhiều hạn chế. Tại bệnh viện chúng tôi thường xuyên tiếp nhận những trường hợp cấp cứu sản khoa mà có ít thông tin chăm sóc sức khỏe thai kỳ trước đó. Chúng tôi muốn giới thiệu một trường hợp thai phụ 35 tuổi, thai 36 tuần, theo dõi thai kỳ tại phòng mạch tư, Para 1001, không tầm soát đái tháo đường thai kỳ, nhập viện vì đau bụng, siêu âm thiểu ối, tim thai chậm. Với chỉ định mổ lấy thai, chúng tôi tiến hành kháng sinh dự phòng, dịch truyền Lactate Ringer và Glucose 5%. Hậu phẫu mổ lấy thai, bé trai 2.200 gram, Apgar 7/9, duy trì kháng sinh dự phòng và dịch truyền. Hậu phẫu ngày 2, thai phụ lơ mơ, thở nhanh, đầu chi lạnh, phù toàn thân, đường huyết định lượng 726 mg/dl và được điều trị tại khoa hồi sức tích cực. HYPERGLYCEMIA AFTER CESAREAN SECTION A CASE REPORT ABSTRACT Gestational diabetes mellitus (GDM), is a condition of abnormally raised blood sugar levels that may occur during pregnancy, can lead to serious complications and even in- crease fatality rate in both mother and baby. This definition does not exclude undiagnosed pre-natal glucose intolerance disorder, post-natal or peri-natal occurrence. Gestational diabetes mellitus Screening Program (GMDSP) has been increasingly highlighted all over the world and also in Vietnam recently. However, in Phan Thiet City (Binh Thuan province), the population is mainly located in rural areas and the majority of women come from low socioeconomic group; GMDSP has not been well-looked at and local clinics is limited. * Học viên Cao học BM Phụ Sản, ĐHYD TPHCM ** PGS. TS. Bộ môn Phụ Sản, ĐHYD TPHCM. DĐ: 0907271999. Email: [email protected] 53 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIỚI THIỆU Phần lớn thai phụ mắc đái tháo đường thai kỳ sẽ không tăng đường huyết nguy cấp sau sanh, do nồng độ hormon sinh sản giảm đột ngột, sự đề kháng insulin giảm nhanh chóng, nhu cầu insulin giảm và nồng độ đường huyết thai kỳ thường giảm trở về bình thường sau 6 tuần. Tuy nhiên, một phần nhỏ thai phụ sẽ tăng đường huyết kéo dài vài ngày sau khi sanh, vì sự đề kháng insulin vẫn tồn tại, thai phụ mắc đái tháo đường thai kỳ có sự nhạy cảm với insulin ít hơn 30-40% so với nhóm thai phụ bình thường [2]. Điều đó nói lên sự cần thiết trong việc quản lý đái tháo đường cũng như các bệnh liên quan khác như các biến chứng của tăng đường huyết, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu [3]. Đái tháo đường nhiễm toan xêtôn trong thai kỳ là một biến chứng nguy hiểm gây ra nhiều thách thức trong việc chẩn đoán, quản lý và phòng ngừa. Bệnh được hình thành do sự thiếu hụt insulin tương đối hoặc tuyệt đối và sự gia tăng đồng thời nồng độ các của hormon trong thai kỳ như corti- sol, catecholamines, glucagon, growth hor- mon. Điều này gây ra sự thay đổi đáng kể trong quá trình trao đổi chất [4], như phân giải lipid, sự phân giải protein, góp phần vào quá trình tăng đường huyết và tạo xêtôn máu. Đái tháo đường nhiễm toan xêtôn điển hình thường là liên quan đến đái tháo đường tuýp 1, nhưng cũng có thể xảy ra ở những bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 và thai phụ đái tháo đường thai kỳ. Các yếu tố thúc đẩy bệnh là nôn ói kéo dài, nhiễm trùng, không tuân thủ điều trị insulin và có thai. Các triệu chứng nổi bật như nôn/buồn nôn, đau bụng, thở gắng sức, tiểu nhiều và lơ mơ/hôn mê. Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường nhiễm toan xêtôn [5] là: - Xêtôn máu ≥ 3.0 mmol/l hay xêtôn niệu 2+. - Nồng độ glucose máu ≥ 250mg/dL. - Bicarbonate < 15mEq/L và/hoặc pH ≤ 7.3. Thai phụ được chẩn đoán mắc đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ hình thành đái tháo đường tuýp 2 lên đến 70% sau 22-28 năm. Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ khuyên nên tầm soát dung nạp glucose ở 6-12 tuần hậu sản, bằng đường huyết lúc đói hay nghiệm pháp dung nạp đường 75 gr - 2 giờ. Việc tầm soát này có lợi ích là ngăn ngừa hoặc kéo dài thời gian trở thành đái tháo đường tuýp 2 qua các biện pháp không dùng thuốc như chế độ ăn hợp lý, hoạt động thể dục, quản lý cân nặng và/ hoặc kết hợp với thuốc khi cần thiết. Tuy nhiên chỉ một phần nhỏ thai phụ được tầm soát dung nạp đường huyết hậu thai kỳ. BỆNH ÁN Thai phụ 35 tuổi, đến khám vì đau bụng trên thai 36 tuần. Tiền căn nội khoa bướu cổ cách đây 3 năm, không Our hospital frequently encounters obstetric emergencies with inadequate pregnancy care record or history. We would like to discuss a case: 35 year old pregnant female at the 36th week of pregnancy, has been examined at a private clinic without GMDSP, G1P1, is admitted with abdominal pain, low omniotic fluid on Ultrasound, foetus is bradycardic. With indication of resuscitative hysterotomy, we commenced prophylactic antibiotics, intravenous Lactate Ringer and Glucose 5%. Post resuscitative operation, infant is 2200g, Apgar 7/9, patient was treated with prophylactic antibiotics and intravenous fluid. Day 2 post –op, patient was drowsy, tachypnoeic, cold peripherally, bodily oedematous, blood glucose 726mg/dl and transferred to Intensive Care Unit. 54 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 điều trị. Tiền căn ngoại khoa chưa ghi nhận bệnh lý. Bệnh nhân có kinh năm 15 tuổi, kinh không đều, hành kinh 5-6 ngày, lượng vừa. Lấy chồng năm 23 tuổi, Para 1001 (sanh thường năm 2009, đủ tháng nặng 3.400 gram). Quá trình mang thai lần này, thai phụ theo dõi tại phòng mạch tư, không làm tầm soát đái tháo đường thai kỳ, chưa phát hiện bất thường khác. Tình trạng lúc nhập viện, thai phụ tỉnh, da niêm hồng, sinh hiệu ổn, bụng mềm, gò thưa, cổ tử cung đóng, ối còn, ngôi đầu, tim thai 100-160 lần/phút, siêu âm AFI 1-2 cm. Được chẩn đoán là thai lần 2, thai 36 tuần, chưa chuyển dạ, thiểu ối, tim thai chậm nên thai phụ được nhập viện và chỉ định mổ lấy thai. Xét nghiệm tiền phẫu: WBC 12,8 K/uL, NEU 60,9%, chức năng đông máu bình thường. Chuẩn bị trước mổ: dịch truyền Ringerlactate và Glucose 5%, kháng sinh dự phòng với Ceftriaxone và Gentamycin. Sau nhập viện 1 giờ, thai phụ được mổ lấy thai, bé trai 2.200 gram, Apgar 7/9. Hậu phẫu ngày 1, thai phụ tỉnh, da niêm hồng, sinh hiệu ổn, tử cung co hồi tốt, vết mổ khô. Duy trì dịch truyền và kháng sinh ngày 2. Hậu phẫu ngày 2, thai phụ lơ mơ, thở nhanh, đầu chi lạnh, phù toàn thân, vết mổ khô, sản dịch ra ít. Sinh hiệu: mạch 90 lần/phút, huyết áp 120/80 mmHg, nhiệt độ 380C, nhịp thở 32 lần/phút. Xét ng- hiệm: WBC 38,04 K/uL, NEU 74%, Hct 67%, CRP 168,2 mg/l, pH 6,93, pCO2 18,9 mmHg, pO2 155mmHg, bicarbon- ate 6,3 mmol/L, Cl- 89 mmol.l, natri 128 mmol/L, kali 4,74 mmol/L, glucose máu 728 mg/dL, HbA1C 6,6%, X-quang ngực chưa ghi nhận bất thường, ECG nhịp xoang dài. Thai phụ được chẩn đoán là đái tháo đường nhiễm toan xêtôn thai kỳ. Thai phụ được thở oxy 3l/phút, bồi hoàn điện giải bằng NaCl 0,9%, theo dõi lượng dịch xuất nhập qua CVP và qua sonde tiểu. Và bắt đầu sử dụng insulin 0,1 UI/ kg bolus và 0,1 UI/kg/h SE. Theo dõi sinh hiệu, đường huyết mỗi 30 phút. Sau 3 giờ, thai phụ tỉnh, tiếp xúc được, đầu chi lạnh, mạch rõ. Đường huyết mao mạch 266 mg/dL, pH 7.15, pCO2 18.9 mmHg, pO2 155 mmHg, bicarbonate 6.3 mmol/L. Bệnh nhân tiếp tục được điều trị bồi hoàn dịch theo CVP, truyền insulin, cân bằng điện giải, cân bằng kiềm toan. Kiểm tra đường huyết mao mạch mỗi giờ, duy trì đường huyết 200 mg/dL. Hậu phẫu ngày 3, thai phụ tỉnh, tiếp xúc được, khỏe hơn, da niêm hồng, sinh hiệu ổn. Đường huyết mao mạch dao động từ 180 mg/dL đến 300 mg/dL. Xét nghiệm: WBC 21.44 K/uL, NEU 81.2, pH 7.24, pCO2 45.7 mmHg, pO2 94mmHg, bicar- bonate 19.0 mmol/L, Cl- 107 mmol/l, na- tri 128 mmol/L, kali 2.74 mmol/L, maggie 0.63mmol/L. Thai phụ tiếp tục được bồi hoàn dịch, điện giải, kháng sinh và insu- lin. Hậu phẫu ngày 4, thai phụ tỉnh, tiếp xúc tốt, da niêm hồng, sinh hiệu ổn. Đường huyết mao mạch dao động từ 157 mg/dL đến 313 mg/dL. Xét nghiệm: WBC 21.44 K/uL, NEU 81.2, pH 7.33, pCO2 47.8 mmHg, pO2 121 mmHg, bicarbonate 24.4 mmol/L, Cl- 109 mmol/l, natri 131 mmol/L, kali 2.92 mmol/L, maggie 0.76 mmol/L. Thai phụ được bồi hoàn dịch và điện giải, kháng sinh và insulin. Thai phụ được điều trị tại bệnh viện thêm 5 ngày, tỉnh, tiếp xúc tốt, da niêm hồng, sinh hiệu ổn, vết mổ khô. Đường huyết được kiểm soát dao động từ 150mg/ dL đến 300mg/dL. Thai phụ được xuất viện, sử dụng insu- lin tiêm dưới da trước mỗi bữa ăn với sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ nội tiết. Theo dõi đường huyết mao mạch tại nhà và dặn dò các dấu hiệu cấp cứu. Tái khám sau 1 tuần. 55 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Thai phụ tái khám sau khi xuất viện 2 tuần, tỉnh, tiếp xúc tốt, da niêm hồng, sinh hiệu ổn định. Đường huyết 113 mg/ dL, HbA1C 8.1%. BÀN LUẬN Ngày nay thuật ngữ “Đái tháo đường thai kỳ” để mô tả bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) được chẩn đoán lần đầu tiên ở tam cá nguyệt thứ 2 hoặc thứ 3 của thai kỳ mà không biết rằng trước đó thai phụ có mắc ĐTĐ tuýp 1 hay 2 không. Thuật ngữ “Đái tháo đường quá mức” hay “Đái tháo đường trong thai kỳ” để mô tả bệnh lý ĐTĐ đã được chẩn đoán trước khi mang thai. Nhiều phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không được tầm soát ĐTĐ trước khi mang thai nên khó có thể phân biệt bệnh ĐTĐ thai kỳ với bệnh đái tháo đường từ trước. Tuy nhiên, ước tính rằng có khoảng 6-9% phụ nữ mang thai bị ĐTĐ và trong đó có 90% là ĐTĐ thai kỳ [6]. Trong đó, cứ mỗi 1 trong 6 bé sinh sống ở người mẹ có tình trạng tăng đường huyết [7]. Vì vậy đứng trước một thai phụ nhập viện vì có chỉ định mổ lấy thai cấp cứu mà không biết được tình trạng chăm sóc sức khỏe trong thai kỳ lần này hay việc sản khoa được Bộ Y tế công nhận. Với tình trạng hậu phẫu mổ lấy thai đường huyết tăng cao quá mức 728 mg/ dL, thai phụ lơ mơ, thở nhanh, phù toàn thân, đôi khi bệnh cảnh ĐTĐ nhiễm toan xêton phải được nghĩ đến đầu tiên [8]. Tiếp cận điều trị bệnh cảnh ĐTĐ nhiễm toan xêton trong thai kỳ cần có sự kết hợp của bác sĩ sản khoa, bác sĩ nội tiết và điều dưỡng, dựa vào các nguyên tắc sau [5]: - Bồi hoàn dịch qua truyền tĩnh mạch và CVP. - Truyền insulin tĩnh mạch. - Cân bằng điện giải. - Cân bằng toan kiềm. - Tìm và điều trị các yếu tố nguy cơ. - Theo dõi sự đáp ứng điều trị ở cả mẹ và bé. Theo dõi sinh hiệu và đường huyết mỗi 1 giờ, cho đến khi đường huyết ổn định và duy trì 150-200 mg/dL tới khi không còn khoảng trống anion. Thai phụ được chỉ định tầm soát dung nạp glucose máu ở giai đoạn 6-12 tuần hậu sản, bằng xét nghiệm đường huyết đói hay nghiệm pháp dung nạp glucose 75gr – 2 giờ theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ [9],[10]: Đường huyết bất kỳ (mg/dL) 2h NPDNG 75gr – giờ (mg/dL) Bình thường < 100 < 140 Nguy cơ 100 – 125 140 - 199 Đái tháo đường tạm thời ≥ 126 ≥ 200 tầm soát đái tháo đường không được ghi nhận, nhân viên y tế nên kiểm tra đường huyết cho mọi sản phụ trước và sau khi phẫu thuật, mặc dù kiểm tra đường huyết không có trong bộ xét nghiệm tiền phẫu Kết quả: - Bình thường: Tầm soát đái tháo đường bằng HbA1C mỗi 3 năm. - Nguy cơ: Tầm soát đái tháo đường bằng HbA1C mỗi năm. 56 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 - Đái tháo đường tạm thời: Giới thiệu thai phụ đến gặp bác sĩ nội tiết. Chương trình tầm soát đái tháo đường thai kỳ cho tất cả phụ nữ mang thai ở tuần 24-28 tuần phải được quan tâm hơn. Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên tầm soát đái tháo đường trước khi mang thai, ở gian đoạn 24-28 tuần tuổi thai và 6-12 tuần hậu thai kỳ. KẾT LUẬN Tăng đường huyết hậu thai kỳ có thể xảy ra với tỷ lệ thấp. Ở những thai phụ không được tầm soát đường huyết trước đó, có thể tăng đường huyết quá mức dẫn đến những biến chứng xấu cho thai phụ. Tầm soát đái tháo đường trước, trong và sau thai kỳ là mục tiêu hàng đầu của các bác sĩ sản khoa và của ngành y tế, nhằm giảm các kết cục xấu trong thai kỳ liên quan đến tỷ lệ bệnh suất và tử suất ở cả thai phụ và thai nhi. Ngoài ra tầm soát đái tháo đường thai kỳ còn có ý nghĩa phòng ngừa hoặc kéo dài thời gian hình thành bệnh béo phì và đái tháo đường tuýp 2 sau này cho cả mẹ và con. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Association, A. D. (2015). “Classification and Diagnosis of Diabetes”. Diabetes Care, 38(Supplement 1), S8-S16. 2. Homko, C., et al. (2001). “Insulin secretion during and after pregnancy in patients with gestational diabetes mellitus.” The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism 86(2): 568-573. 3. Kitzmiller, J. L., et al. (2007). “Gestational diabetes after delivery: short-term management and long- term risks.” Diabetes Care 30(Supplement 2): S225-S235. 4. Kitabchi, Abbas E., et al. (2009). “Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes.” Diabetes care 32.7 : 1335-1343. 5. Dhatariya, K., et al. (2013). “Joint British Diabetes Societies Inpatient Care Group. The management of diabetic ketoacidosis in adults.” Update: September 2013. 6. DeSisto, C. L., Kim, S. Y., & Sharma, A. J. (2014). “Prevalence Estimates of Gestational Diabetes Mellitus in the United States, Pregnancy Risk Assessment Monitoring System (PRAMS), 2007–2010”. Preventing Chronic Disease, 11, E104. 7. Hod, M., et al. (2015). “The International Federation of Gynecology and Obstetrics (FIGO) Initiative on gestational diabetes mellitus: A pragmatic guide for diagnosis, management, and care.” International Journal of Gynecology & Obstetrics 131: S173-S211. 8. Sibai BM, Viteri OA. (2014). “Diabetic ketoacidosis in pregnancy.” Obstet Gynecol 2014;123:167– 78. 9. Nathan, D. M., et al. (2007). “Impaired fasting glucose and impaired glucose tolerance: implications for care.” Diabetes Care 30(3): 753-759. 10. Metzger, B. E., et al. (2007). “Summary and recommendations of the fifth international work- shop-conference on gestational diabetes mellitus.” Diabetes Care 30(Supplement 2): S251-S260.
File đính kèm:
tang_duong_huyet_hau_phau_mo_lay_thai_bao_cao_mot_truong_hop.pdf

