Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tạiTP. Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể

chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít

nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam.

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm

tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM).

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6

quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh

trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nhân, gia đình, môi trường học tập, rối loạn sức khỏe

tâm thần bằng thang đo DASS-21 và hành vi tự làm tổn thương bằng thang đo FASM.

pdf 8 trang phuongnguyen 360
Bạn đang xem tài liệu "Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tạiTP. Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tạiTP. Hồ Chí Minh

Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tạiTP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 208
TẦN SUẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH VI TỰ LÀM TỔN THƯƠNG 
Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH 
Phạm Vân Thảo*, Nguyễn Phương Thảo*, Thái Thanh Trúc* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể 
chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít 
nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam. 
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm 
tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6 
quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh 
trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nhân, gia đình, môi trường học tập, rối loạn sức khỏe 
tâm thần bằng thang đo DASS-21 và hành vi tự làm tổn thương bằng thang đo FASM. 
Kết quả: Trong số 1316 học sinh tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số (63,3%) và phân bố gần như nhau 
ở các khối lớp (35,3% khối 10; 35,3% khối 11 và 29,4% khối 12). Tỉ lệ học sinh có HVTLTT trong nghiên cứu là 
46,5%. Các hành vithường được học sinh THPT sử dụng là tự đánh mình, chọc phá vết thương, tự cắn và kéo 
giật tóc của mình. Nam có tỉ lệ kéo giật tóc và làm bỏng da cao hơn nữ (p<0,05). Mục đích phổ biến nhất khi thực 
hiện hành vi là ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư 
giãn. Sự khác biệt về các mục đích giữa nam và nữ, khối lớp cũng được xác định. 
Kết luận: Các học sinh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục 
đích khác nhau. Hành vi tự làm bỏng da và kéo giật tóc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Một số mục đích thực 
hiệnHVTLTT có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh 
những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. 
Từ khóa: hành vi tự làm tổn thương, học sinh 
ABSTRACT 
FREQUENCY OF AND REASONS FOR SELF-INJURY BEHAVIOR 
IN HIGH SCHOOL STUDENTS IN HO CHI MINH CITY 
Pham Van Thao, Nguyen Phuong Thao, Thai Thanh Truc 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 208 – 215 
Background: Self-injury behaviors (SIB) include many self-harm activities that cause injury to one’s own 
body. SIB can result in both short term and long term affect on the doers' health. However, little is known about 
this in adolescents in Vietnam. Therefore, this study was to determine the frequency of and reasons for SIB in high 
school students in Ho Chi Minh City. 
Methods: A cross-sectional study was conducted at 36 classes in 6 schools in 6 districts within Ho Chi 
Minh City on May 2019 with the participation of 1316 eligible students. Students completed a self-reported 
questionnaire which included information about demographic characteristics, family environment, school 
environment, mental health measured by the DASS-21 and SIB assessed by the FASM. 
*Khoa Y tế Công Cộng, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Vân Thảo ĐT: 0343661112 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 209
Results: Among 1316 students participated in this study, the majority were female (63.3%) and the number 
of participants was approximately equal in each grade (33.5% grade 10; 35.3% grade 11 and 29.4% grade 12). 
The prevalence of self-injury in the students was 46,5%. The most commonly used behaviors were hitting 
yourself, picking at a wound, bitting yourself, pulling your hair out. Males were more likely to involve in pulling 
their hair out and burning their skin as compared to females (p <0.05). The most common reasons for having SIB 
were to stop bad feelings, followed by to punish yourself, to get control of a situation and to feel relaxed. The 
differences in reasons for SIB between males and females, among different grades were found. 
Conclusion: Students use various types of SIB for different reasons. and Behaviors such as self-burning skin 
and pulling out hair were dissimilar between male and female. There were associations between SIB, reasons for 
SIB with sex and grade. The findings revealed the necessity of an intervention strategy and management to avoid 
consequences of SIB in high school students. 
Keyword: self-injury behavior, reason, student 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) được 
hiểu là hành động có chủ ý, trực tiếp tự gây 
thương tích lên da thịt trên các bộ phận của cơ 
thể. HVTLTT được ghi nhận tỉ lệ nhiều nước 
trên thế giới từ 7,5 – 46,5% ở vị thành niên, 38,9% 
sinh viên đại học(6). Ở thanh thiếu niên các nước 
như Trung Quốc là 46,4%(2), 33,8% ở Ấn Độ(4), 
16,8% ở Nhật Bản(22), 25,2% ở Hoa Kì(14), tỉ lệ 
chung các nước châu Âu là 27,6%(5). Tại Việt 
Nam, điều tra Quốc gia về vị thành niên và 
thanh niên Việt Nam (SAVY) lần 2 năm 2010 báo 
cáo tỉ lệ HVTLTT là 7,5%(20), của Huỳnh Văn Sơn 
trên đối tượng THCS là 31,6%(10). 
Mỗi cá nhân tham gia vào những hành vi 
này với kỳ vọng rằng tổn thương sẽ gây ra đau 
đớn thể chất để điều chỉnh cảm xúc. Các 
HVTLTT phổ biến thường được báo cáo bao 
gồm cắt tay, rạch da, tự đánh chính mình, đập 
đầu, tự cắn mình, tự xăm mình, làm bỏng da, 
kéo giật tóc, chà sát lên da và một số hành động 
làm tổn thương khác được biểu hiện theo nhiều 
cách khác nhau(11). Mục đích để điều tiết cảm xúc 
là mục đích được sử dụng rộng rãi nhất để ngăn 
chặn những cảm xúc tiêu cực như căng thẳng, 
buồn bã, tức giận(13) hay đơn giản muốn gây sự 
chú ý hoặc gây tổn thương chỉ để cảm thấy được 
thư giãn. Thêm vào đó, những người thực hiện 
HVTLTT có thể vì nhiều mục đích khác nhau 
tùy theo vấn đề gặp phải hay khoảng thời gian 
trải qua vấn đề chứ không nhất định chỉ phục vụ 
một mục đích duy nhất(2). 
HVTLTT thường bắt đầu ở tuổi vị thành 
niên(21) và tỉ lệ hành vi có xu hướng tăng theo độ 
tuổi(3), tuy nhiên cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng 
một số thanh thiếu niên không còn thực hiện 
HVTLTT theo thời gian(1,8). Nói cách khác, những 
thay đổi trong HVTLTT của mỗi cá nhân có thay 
đổi theo thời gian trong từng độ tuổi khác nhau. 
Trong khi đó, sự khác biệt về giới tính cũng gây 
tranh cãi khi các y văn cho thấy có sự khác biệt 
giữa nam và nữ khi thực hiện các loại hành vi 
khác nhau(5,6), nhưng nghiên cứu của Lang và 
cộng sự(15) hay Swannel và cộng sự(23) cho kết quả 
rằng các HVTLTT như nhau ở nam và nữ. Đồng 
thời Hilt và cộng sự cũng cho thấy, nữ giới thực 
hiện HVTLTT có liên quan với mục đích điều 
chỉnh cảm xúc hay thư giãn nhiều hơn(9). 
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Savy chú 
trọng tìm hiểu tỉ lệ của HVTLTT và các yếu tố 
liên quan thông qua câu hỏi khá đơn giản “Bạn 
có bao giờ tự gây thương tích cho mình không?” 
hay trong nghiên cứu của Huỳnh Văn Sơn khảo 
sát mức độ biểu hiện và ảnh hưởng của các loại 
hành vi hủy hoại bản thân ở học sinh trung học 
cơ sở (THCS) trong đó có tự làm tổn thương mà 
chưa thực sự khai thác sâu về các loại HVTLTT 
cũng như các mục đích khi thực hiện hành vi có 
hay không liên quan tới giới tính cũng như sự 
khác biệt trong độ tuổi trung học phổ thông 
(THPT). Bên cạnh đó, tác giả Dương Thị Thu 
Hương(7) phát hiện 95% học sinh THPT từng có 
hành vi nguy hại sức khỏe, cũng như nhiều 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 210
hành vi không lành mạnh thường liên kết với 
nhau. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm khu 
vực phía Nam với gần 2000 trường học trên 24 
quận/huyện cùng với số lượng học sinh chiếm tỉ 
lệ cao trên cả nước. Chính vì thế nghiên cứu này 
được tiến hành nhằm tìm hiểu tỉ lệ học sinh 
THPT có HVTLTT, tần suất và mục đích của 
HVTLTT, cũng như sự khác biệt giữa các yếu tố 
này theo giới và theo các nhóm tuổi khác nhau 
trên học sinh THPT tại TP. Hồ Chí Minh với 
mong muốn kết quả sẽ làm tiền đề để đưa ra 
cách phòng ngừa, biện pháp can thiệp, quản lí 
và tư vấn kịp thời cho các em học sinh, góp phần 
nâng cao hiệu quả dạy và học tại nhà trường, 
giúp xã hội, gia đình có những nhìn nhận rõ 
ràng và cụ thể hơn về HVTLTT trên đối tượng 
học sinh THPT. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỉ lệ học sinh THPT có HVTLTT, 
tần suất và mục đích của HVTLTT, và sự khác 
biệt giữa các yếu tố này theo giới và theo các 
nhóm tuổi khác nhau trên học sinh THPT tại TP. 
Hồ Chí Minh. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Được tiến hành trên học sinh THPT tại 6 
quận/huyện thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 
5 năm 2019, bao gồm các quận/huyện sau: quận 
5, Tân Bình, Bình Tân, Bình Chánh, Cần Giờ, 
Hóc Môn. 
Tiêu chí đưa vào 
Tất cả học sinh đang học tại các trường được 
chọn và đồng ý tham gia nghiên cứu, trả lời bộ 
câu hỏi. 
Tiêu chí loại trừ 
Học sinh không được sự đồng ý của 
PHHS/người giám hộ, học sinh không có mặt tại 
thời điểm thu thập dữ liệu và học sinh không trả 
lời cho phần HVTLTT trong bộ câu hỏi. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Cỡ mẫu 
Được tính theo công thức ước lượng một tỉ lệ 
với xác suất sai lầm loại 1 là 0,05, sai số của ước 
lượng là 0,05, tỉ lệ 29% thanh thiếu niên có ít nhất 
một lần HVTLTT theo nghiên cứu của Tang tại 
Trung Quốc được chọn là tỉ lệ ước lượng kết 
cuộc trong dân số(24), hệ số thiết kế là 2. 
Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành thu thập 
mẫu qua 2 bước, xác nhận bằng văn bản có 
chữ ký đồng ý của phụ huynh học sinh 
(PHHS)/người giám hộ, sau đó mới tiến hành 
phát bộ câu hỏi tự điền về nhà trên những học 
sinh được sự đồng ý, theo các nghiên cứu 
trước đây thì khả năng mất mẫu lớn(4). Dự 
phòng mất mẫu 20% nên cỡ mẫu cần lấy ít 
nhất là 1585 người. 
Phương pháp chọn mẫu 
Áp dụng kĩ thuật chọn mẫu nhiều bậc, tại 
mỗi quận/huyện chọn ngẫu nhiên ra một trường 
THPT. Tại từng trường chọn ngẫu nhiên mỗi 
khối 2 lớp. Tất cả học sinh trong lớp được mời 
tham gia nghiên cứu. Trong tổng số 36 lớp được 
chọn có tổng số học sinh là 1707 học sinh. 
Phương pháp thực hiện 
Sau khi nhận được đồng ý của ban giám 
hiệu nhà trường tiến hành tại địa điểm nghiên 
cứu, nghiên cứu viên đến lớp cung cấp thông tin 
về nghiên cứu và gửi xác nhận cho phép các học 
sinh được tham gia nghiên cứu có chữ kí của 
PHHS/người giám hộ cho tất cả học sinh có mặt 
tại lớp khi đó. Có 327 PHHS/người giám 
hộkhông đồng ý cho học sinh tham gia nghiên 
cứu. Các học sinh được phép tham gia nghiên 
cứu hoàn thành bộ câu hỏi tự điền đượcbỏ trong 
phong bì dán kín tại nhà và gửi lại cho nghiên 
cứu viên vào hôm sau. Đồng thời thông tin hỗ 
trợ tư vấn tâm lí và giải đáp những thắc mắc 
cũng được gửi đến những người tham gia. Sự 
tham gia của các học sinh là hoàn toàn tự 
nguyện và mọi thông tin được giữ riêng tư và bí 
mật. Sau khi thu lại bộ câu hỏi, kiểm tra và rà 
soát, nghiên cứu loại 64 bộ câu hỏi không hoàn 
chỉnh thì 1316 bộ câu hỏi hợp lệ được đưa vào 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 211
phân tích. 
Bộ câu hỏi tự điền bao gồm các thông tin về 
đặc điểm cá nhân, gia đình, môi trường học tập, 
các vấn đề sức khỏe tâm thần và hành vi tự làm 
tổn thương. Hiện nay có nhiều thang đo được 
đưa ra để đánh giá HVTLTT, các thang đo đều 
được áp dụng rộng rãi, cho độ tin cậy cao trong 
nhiều nghiên cứu. Chúng tôi quyết định chọn 
thang đo FASM (Functional Assessment of Self-
Mutilation) của Lloyd (1997) do đây là thang đo 
được sử dụng phổ biến trên thế giới và bởi vì 
đặc điểm nội dung của thang đo đánh giá ngắn 
gọn hơn so với các thang đo khác, đồng thời khái 
niệm hành vi trong thang đo cũng phù hơp với 
tiêu chí đánh giá trong nghiên cứu hiện tại(6,16). 
Thang đo bao gồm 2 phần: 
Phần thứ nhất bao gồm 11 hành vi được liệt 
kê như cắt/khắc trên da, tự đánh mình, kéo giật 
tóc, tự xăm, chọc phá một vết thương trên cơ thể, 
làm bỏng da, nhét vật lạ dưới móng tay, tự cắn, 
tự đâm vào một vùng trên cơ thể đến mức chảy 
máu, cạo da, chà sát mạnh lên da và một câu 
“khác” với hệ số Cronbach’s alpha là 0,86(17). 
Phần thứ hai là 22 câu hỏi về mục đích của 
HVTLTT, các lí do được đưa ra để phục vụ cho 
nhiều mục đích khác nhau khi thực hiện hành 
vidẫn đến Cronbach’s alpha cho phần này chỉ 
đạt 0,66(17), phần này được đánh giá theo dạng 
Likert từ 0 (Không bao giờ) đến 3 (Thường 
xuyên). Các mục đích này được chúng tôi phân 
thành nhị giá là có (≥1) và không (0). 
Thang đo DASS-21 (Depression Anxiety and 
Stress Scales) là phiên bản rút gọn của DASS 
phiên bản gốc khảo sát 3 vấn đề sức khỏe tâm 
thần stress, lo âu, trầm cảm gồm 7 câu cho mỗi 
phần. Thang đo đã được áp dụng rộng rãi ở 
nhiều nước trên thế giới và chuẩn hóa tại Việt 
Nam(26) với hệ số Cronbach’s alpha 0,88. 
Xử lý dữ liệu 
Dữ liệu được tổng hợp và nhập bằng phần 
mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm 
Stata 14.2. 
Tần số và tỉ lệ phần trăm được dùng để mô 
tả các biến đặc điểm cá nhân, gia đình, môi 
trường học tập, hành vi tự làm tổn thương. 
Kiểm định Chi bình phương hoặc Fisher 
được sử dụng để so sánh tỉ lệ các hành vi và lý 
do giữa các phân nhóm giới và khối lớp. 
Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. 
Y đức 
Nghiên cứu đã được sự chấp thuận của Hội 
đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh theo số 
136/ĐHYD-HĐĐĐ vào ngày 28/03/2019. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
(n=1316) 
Đặc điểm n % 
Giới tính 
Nam 483 36,7 
Nữ 833 63,3 
Khối lớp 
Khối 10 464 35,3 
Khối 11 465 35,3 
Khối 12 387 29,4 
Học lực 
Giỏi 700 53,2 
Khá 470 35,7 
TB/Dưới TB 146 11,1 
Hạnh kiểm 
Tốt 1218 92,5 
Khá 77 5,9 
TB/Dưới TB 21 1,6 
Sống chung với ai 
Cha và mẹ 1059 80,5 
Cha hoặc mẹ 153 11,6 
Cha/mẹ+cha/mẹ kế 46 3,5 
Khác 36 2,7 
Từ chối trả lời 22 1,7 
Cảm nhận kinh tế gia đình 
Khó khăn 102 7,7 
Bình thường 1135 86,3 
Khá giả 79 6,0 
Bạo hành gia đình 
Không 1133 86,1 
Có 86 6,5 
Từ chối trả lời 97 7,4 
Áp lực học tập 
Có 895 68,0 
Không 421 32,0 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 212
Trong 1316 học sinh THPT tại thành phố Hồ 
Chí Minh, học sinh nữ chiếm đa số (63,3%). Tỉ lệ 
học sinh gần như tương đương nhau ở khối 10 
và 11, khối 12 có tỉ lệ thấp hơn so với hai khối 
còn lại. Hầu hết các học sinh có học lực khá giỏi 
trở lên và hạnh kiểm tốt. Các học sinh sống 
chung với cha và mẹ là chủ yếu. Đa số đều cho 
rằng kinh tế gia đình bình thường. Có 6,5% học 
sinh trả lời mình từng bị bạo hành gia đình. Hơn 
một nửa số học sinh tham gia được ghi nhận 
mình có áp lực về học tập (Bảng 1). 
Hành vi tự làm tổn thương trong tổng số học 
sinh được ghi nhận là 46,5%. Trong các hành vi 
tự làm tổn thươngthì tự đánh mình được s ... Nam 
n (%) 
Nữ 
n (%) 
Khối 10 
n (%) 
Khối 11 
n (%) 
Khối 12 
n (%) 
Để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực 330 (58,0) 117 (57,1) 213 (58,5) 131 (63,3) 102 (49,3) 97 (62,6)** 
Để trừng phạt chính mình 287 (50,4) 92 (44,9) 195 (53,6)* 99 (47,8) 94 (45,4) 94 (60,6)* 
Để kiểm soát được tình hình 259 (45,4) 94 (45,9) 165 (45,2) 100 (48,3) 92 (44,4) 67 (42,9) 
Để cảm thấy thư giãn 251 (44,2) 90 (43,9) 161 (44,4) 99 (47,8) 87 (42,2) 65 (41,9) 
Để cảm nhận một cái gì đó kể cả khi đó chỉ là đau 241 (42,3) 90 (43,9) 161 (44,4) 93 (44,9) 79 (38,2) 69 (44,2) 
Để tránh phải làm điều gì đó khó chịu mà bạn không 
muốn làm 
233 (40,9) 78 (38,0) 155 (42,5) 89 (43,0) 82 (39,6) 62 (39,7) 
Để giảm cảm giác trống rỗng hoặc “tê liệt” 215 (37,7) 77 (37,6) 138 (37,8) 80 (38,6) 73 (35,3) 62 (39,7) 
Để cho bản thân cái gì đó để làm khi một mình 166 (29,2) 64 (31,2) 102 (28,0) 60 (29,0) 58 (28,0) 48 (31,0) 
Để nhận được sự thấu hiểu và quan tâm từ cha mẹ 164 (28,8) 60 (29,3) 104 (28,6) 68 (32,9) 55 (26,6) 41 (26,5) 
Để tránh trường học, công việc hoặc các hoạt động 
khác 
158 (27,7) 57 (27,8) 101 (27,7) 59 (28,5) 60 (29,0) 39 (25,0) 
Để nhận được nhiều sự chú ý hơn từ cha mẹ hoặc 
bạn bè của bạn 
158 (27,7) 60 (29,3) 98 (26,8) 61 (29,5) 55 (26,6) 42 (26,9) 
Để cố gắng có được phản ứng từ ai đó, thậm chí đó 
là phản ứng tiêu cực 
157 (27,5) 61 (29,8) 96 (26,3) 61 (29,5) 44 (21,3) 52 (33,3)* 
Để người khác biết bạn tuyệt vọng như thế nào 154 (27,1) 55 (26,8) 99 (27,2) 49 (23,7) 62 (30,0) 43 (27,7) 
Để người khác đối xử với bạn khác đi hoặc thay đổi 
cách đối xử trước đó của họ 
135 (23,7) 47 (22,9) 88 (24,2) 45 (21,7) 48 (23,2) 42 (27,1) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 213
Mục đích của HVTLTT 
Chung 
n (%) 
Đặc điểm 
Nam 
n (%) 
Nữ 
n (%) 
Khối 10 
n (%) 
Khối 11 
n (%) 
Khối 12 
n (%) 
Để tránh tiếp xúc với mọi người 122 (21,4) 43 (21,0) 79 (21,7) 45 (21,7) 41 (19,8) 36 (23,2) 
Để nhận được sự giúp đỡ 113 (19,9) 48 (23,4) 65 (17,9) 39 (18,8) 43 (20,8) 31 (20,0) 
Để gây sự chú ý 91 (16,0) 36 (17,6) 55 (15,1) 31 (15,0) 34 (16,4) 26 (16,7) 
Để cảm nhận nhiều hơn mình là một phần của một 
nhóm 
91 (16,0) 35 (17,1) 56 (15,4) 37 (17,9) 33 (15,9) 21 (13,5) 
Để làm người khác tức giận 81 (14,2) 36 (17,6) 45 (12,4) 28 (13,5) 32 (15,5) 21 (13,5) 
Để tránh sự trừng phạt hoặc sự lãnh chịu hậu quả 89 (15,6) 39 (19,0) 50 (13,7) 32 (15,5) 40 (19,3) 17 (11,0) 
Để cho bản thân một việc phải làm khi ở bên người 
khác 
69 (12,1) 32 (15,6) 37 (10,2) 28 (13,5) 25 (12,1) 16 (10,3) 
Để cho giống như một người mà bạn tôn sùng 28 (4,9) 18 (8,8) 10 (2,7)** 11 (5,3) 12 (5,8) 5 (3,2) 
**p<0,01; *p<0,05 
Kết quả từ Bảng 3 cho thấymức độ phổ biến 
và tần suất của mục đích khi thực hiện HVTLTT. 
Mục đích phổ biến nhất là để ngăn chặn những 
cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, 
kiểm soát tình hình hoặc để thư giãn. Mục đích 
thực hiện HVTLTT có khác biệt theo giới là 
nhằm trừng phạt chính mình (nữ cao hơn nam) 
và nhằm giống một người mà các em tôn sùng 
(nam cao hơn nữ). Có mối liên quan giữa các 
khối lớp và mục đích khi thực hiện HVTLTT. 
Trong đó học sinh khối 12 có tỉ lệ cao hơn về các 
mục đích như để trừng phạt chính mình, hoặc 
để cố gắng có được phản ứng từ ai đó (thậm chí 
đó là phản ứng tiêu cực). Học sinh khối 10 lại có 
tỉ lệ mục đích thực hiện HVTLTT cao nhất so với 
các khối 11 và 12 là nhằm ngăn chặn những cảm 
xúc tiêu cực. 
BÀN LUẬN 
Tại Việt Nam, HVTLTT đang là vấn đề dần 
trở nên phổ biến, thu hút sự chú ý từ xã hội cũng 
như trở thành mối quan tâm từ các nhà nghiên 
cứu. Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên 
cứu tại Việt Nam cũng như tại TP. Hồ Chí Minh 
tìm hiểu chi tiết về các loại hành vi và mục đích 
khi thực hiện HVTLTT của học sinh THPT cũng 
như sự phân bố của các tỉ lệ này theo phân 
nhóm giới và khối lớp. Từ tổng mẫu ban đầu 
1707 học sinh tham gia nghiên cứu, nghiên cứu 
loại ra 391 học sinh theo như tiêu chí, tỉ lệ phản 
hồi là 77,1%. Tuy nhiên, trong số này có tới 327 
học sinh không được sự đồng ý của 
PHHS/người giám hộ thuộc tiêu chí loại ra và 
chiếm phần lớn tỉ lệ mất mẫu (19,2%). Các 
nghiên cứu trước đây, hình thức lấy đồng thuận 
được tiến hành chủ yếu dưới dạng “bị động” 
trong đó phụ huynh được thông báo và phụ 
huynh nào không muốn học sinh tham gia thì 
gửi phản hồi cho nhà trường, nếu không phản 
hồi thì xem như đồng ý và khi đó tỉ lệ mất mẫu 
thấp. Trong nghiên cứu hiện tại, theo yêu cầu 
của hội đồng đạo đức, chúng tôi tiến hành lấy 
đồng thuận “chủ động”, trong đó học sinh tham 
gia nghiên cứu phải có chữ ký đồng ý của 
PHHS/người giám hộ trước khi được phép tham 
gia trả lời bộ câu hỏi. Điều này dẫn đến tỉ lệ mất 
mẫu cao hơn và khá tương đồng với nghiên cứu 
có hình thức lấy đồng thuận tương tự(4). 
Từ kết quả phân tích, có thể nhận thấy các 
học sinh sử dụng khá nhiều phương pháp để tự 
làm tổn thương. Tần suất sử dụng các hành vi có 
khác so với trong bài phân tích tổng hợp của 
Cipriano và cộng sự(6) khi các hành vi tự cắt/khắc 
trên da, tự đánh và làm bỏng da mình là nhiều 
nhất.Trong khi đó, kết quả của chúng tôi lại khá 
tương đồng khi so với quốc gia có nền văn hóa 
và điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam 
như Trung Quốc với hành vi tự đánh mình là 
nhiều nhất (16,7), kéo giật tóc (11,2%) và tự cắn 
mình (7,0%).Về các mục đích khi thực hiện 
HVTLTT, tương tự như trong nghiên cứu gộp 
của Taylor và cộng sự(25), những mục đích phổ 
biến nhất là kiểm soát tình hình (63,8%), ngăn 
chặn cảm xúc tiêu cực (62,8%), trừng phạt mình 
(41,6%) hay để thư giãn (30,5%). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 214
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
có một số khác biệt giữa nam và nữvới các loại 
hành vi cũng như mục đích khi thực hiện 
HVTLTT. Thống kê từ nhiều y văn trên các quốc 
gia khác nhau cho thấy(3,6,15,23), giới tính là yếu tố 
không hằng định trong các mối liên quan với 
HVTLTT. Nghiên cứu của Tang và cộng sự(24), 
các loại hành vi đều có sự khác nhau giữa nam 
và nữ nhưng nghiên cứu của Lang và cộng sự(15) 
lại không tìm thấy sự khác biệt trong nghiên cứu 
và ở nghiên cứu của Bresin cũng chỉ ra rằng chỉ 
có một số hành vi là đưa đến sự khác biệt, như 
kéo giật tóc, đập đầu vào tường. Theo Tổ ChứcY 
Tế Thế Giới(27), sự khác biệt giữa giới tính được 
tìm thấy trong các rối loạn tâm thần như trầm 
cảm, lo âu, rối loạn ăn uống có xu hướng thiên 
về nữ giới, tuy nhiên ở nam giới, họ có xu hướng 
gặp nhiều vấn đề dễ gây nên sự tức giận cũng 
như có nhiều hành vi có ý nghĩ nguy hiểm táo 
bạo hơn. Nói cách khác, cả nam và nữ đều có 
nhu cầu điều tiết cảm xúc của mình, nhưng mục 
đích của HVTLTT có thể khác nhau. 
Mặc dù tỉ lệ các HVTLTT là cao ở các khối 
lớp nhưng nghiên cứu của chúng tôi không thấy 
sự khác biệt về các HVTLTT giữa các khối lớp. 
Tuy nhiên, một số mục đích thực hiện HVTLTT 
lại có sự khác nhau giữa các khối lớp. Các 
nghiên cứu trước thường không đề cập đến khối 
lớp nhưng thay vào đó là độ tuổi, trong đó thể 
hiện mối liên hệ giữa độ tuổi và HVTLTT cũng 
như các mục đích của nó là không rõ ràng. Hành 
vi có thể tăng hoặc giảm theođộ tuổi(2) cũng như 
cách nhìn nhận về hành vi sẽ thay đổi theo thời 
gian(1,8). Đồng thời dù ở độ tuổi nào, mọi người 
đều có nhu cầu sử dụng hành vi để điều chỉnh 
những áp lực, căng thẳngvà những người thực 
hiện HVTLTT có thể sử dụng nhiều phương 
pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ 
cho các mục đích khác nhau(18). HVTLTT được 
xem là hành vi đối phó không lành mạnh bởi 
mức độ tổn thương thể chất để lại cũng như mối 
liên quan với tự tử vẫn đang là vấn đề tranh cãi 
khi có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng HVTLTT là 
những bước đầu ở những người có ý định tự tử 
về sau(12,19). Từ kết quả phân tích kết hợp với 
bằng chứng hiện có trên y văn cho thấy cần có 
những chương trình can thiệp, phòng ngừa các 
HVTLTT của học sinh. 
Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi bổ sung 
phần nào những hiểu biết chưa đầy đủ về 
HVTLTT ở học sinh THPT; cung cấp bằng 
chứng khoa học cho nhà trường, các nhà nghiên 
cứu, chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm 
thần hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe tâm 
thần, tâm lí hành vi cho trẻ vị thành niên ngày 
một tốt hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này có một 
số điểm hạn chế cần cân nhắc khi ứng dụng. 
Thứ nhất, đây này là một trong những 
nghiên cứu đầu tiên nên chủ yếu dựa vào thang 
đo đánh giá FASM vốn chỉ được dịch sang tiếng 
Việt mà chưa có nghiên cứu đánh giá tính giá trị 
và tính tin cậy trên vị thành niên Việt Nam. Điều 
này có thể dẫn đến một số sai lệch thông tin. 
Thứ hai, tỉ lệ phụ huynh từ chối tham gia 
nghiên cứu là cao. Có khả năng những học sinh 
mà phụ huynh từ chối cho tham gia nghiên cứu 
là những đối tượng có HVTLTT. Vì vậy, nghiên 
cứu này có thể có sai lệch trong chọn mẫu. Tuy 
nhiên, điều này là không tránh khỏi vì hội đồng 
đạo đức yêu cầu phải có sự đồng ý của phụ 
huynh trước khi học sinh được phép trả lời bộ 
câu hỏi. Trong khi đó các nghiên cứu trước 
thường lấy thông tin trực tiếp từ học sinh và 
đồng ý tham gia hay không là do chính học sinh. 
KẾT LUẬN 
Các học sinh THPT tại thành phố Hồ Chí 
Minh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn 
thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích 
khác nhau. Một số HVTLTL và lý do của nó có 
liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy 
cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh 
những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học 
sinh THPT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andrews T, Martin G, Hasking P, Page A (2013). "Predictors of 
continuation and cessation of nonsuicidal self-injury". J Adolesc 
Health, 53(1):40-46. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 215
2. Barrocas AL, Giletta M, Hankin BL, Prinstein M, Abela JRZ 
(2014). "Nonsuicidal Self-Injury in Adolescence: Longitudinal 
Course, Trajectories, and Intrapersonal Predictor". J Abnorm 
Child Psycho, 43(2):369-380. 
3. Barrocas AL, Hankin BL, Young JF, Abela JR (2012). "Rates of 
nonsuicidal self-injury in youth: age, sex, and behavioral 
methods in a community sample". Pediatrics, 130(1):39-45. 
4. Bhola P, Manjula M, Rajappa V, Phillip M (2017). "Predictors of 
non-suicidal and suicidal self−injurious behaviours, among 
adolescents and young adults in urban India". Asian Journal of 
Psychiatry, 29:123-128. 
5. Brunner R, Kaess M, Parzer P, Fischer G, Carli V, Hoven CW, et 
al (2013). "Life-time prevalence and psychosocial correlates of 
adolescent direct self-injurious behavior: A comparative study 
of findings in 11 European countries". Journal of Child Psychology 
and Psychiatry, 55(4):337–348. 
6. Cipriano A, Cella S, Cotrufo P (2017). "Nonsuicidal Self-injury: 
A Systematic Review". Front Psychol, 8:1946. 
7. Dương Thị Thu Hương (2017). Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội 
và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông. Luận án Tiến 
sĩ, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
8. Hamza C, Willoughby T (2014). "A Longitudinal Person-
Centered Examination of Nonsuicidal Self-injury Among 
University Students". Journal of Youth and Adolescence, 43(3):671–
685. 
9. Hilt LM, Cha CB, Nolen-Hoeksema S (2008). "Nonsuicidal self-
injury in young adolescent girls: moderators of the distress-
function relationship". J Consult Clin Psychol, 76(1):63-71. 
10. Huỳnh Văn Sơn và cộng sự (2018). Hiện tượng tự hủy hoại bản 
thân của học sinh trung học cơ sở (THCS) và biện pháp phòng 
ngừa. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Viện chiến lược và chính sách 
tài chính, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 24 trang. 
11. International Society for the Study of Self Injury (ISSS) (2018). 
What is Nonsuicidal Self-injury? URL: 
https://itriples.org/category/about-self-injury/. 
12. Klonsky ED, May AM, Glenn CR (2013). "The relationship 
between nonsuicidal self-injury and attempted suicide: 
converging evidence from four samples". J Abnorm Child Psychol, 
122(1):231-237. 
13. Klonsky ED (2007). "The functions of deliberate self-injury: a 
review of the evidence". Clinical Psychology Review, 27(2):226-239. 
14. Klonsky ED, Olino TM (2008). "Identifying clinically distinct 
subgroups of self-injurers among young adults: a latent class 
analysis". J Consult Clin Psychol, 76(1):22-27. 
15. Lang J, Yao YS (2018). "Prevalence of nonsuicidal self-injury in 
chinese middle school and high school students: A meta-
analysis". Medicine (Baltimore), 97(42):e1916. 
16. Lloyd EE, Kelley ML (1997). Self-Mutilation in a Community 
Sample of Adolescents. Ph.D thesis, Psychology, Louisiana State 
University and Agricultural & Mechanical College. 
17. Lloyd-Richardson EE, Perrine N, Dierker L, Kelley ML (2007). 
"Characteristics and functions of non-suicidal self-injury in a 
community sample of adolescents". Psychol Med, 37(8):1183–
1192. 
18. Muehlenkamp JJ, Brausch AM, Quicgley K, Whitlock JL (2013). 
"Interpersonal Features and Functions of Nonsuicidal Self-
injury". Suicide and Life-Threatening Behavior, 43(1):67. 
19. Müller A, Claes L, Smits D, Brähler E, Zwaan M (2016). 
"Prevalence and Correlates of Self-Harm in the German General 
Population". PLoS One, 11(6):e0157928. 
20. Nguyễn Thanh Hương (2010). Điều tra Quốc gia về vị thành 
niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2. Báo cáo chuyên đề Sức 
khỏe tâm thần của vị thành niên và thanh niên Việt Nam, pp.26-
30. 
21. Nock MK, Favazza AR (2009). "Nonsuicidal self-injury: 
Definition and classification". Understanding nonsuicidal self-
injury: Origins, assessment, and treatment. American 
Psychological Association, pp.9-18. 
22. Ohira T, Munesue T, Oi M, Suzuki K, Saito D (2018). 
"Investigation of the reliability and validity of the Japanese 
DeliberateSelf-HarmInventory". Journal of Brain Science, 48:14-42. 
23. Swannell SV, Martin GE, Page A, Hasking P, St John NJ (2014). 
"Prevalence of nonsuicidal self-injury in nonclinical samples: 
systematic review, meta-analysis and meta-regression". Suicide 
Life Threat Behav, 44(3):273-303. 
24. Tang J, Li G, Chen B, Huang Z, Zhang Y, Chang H, et al (2018). 
"Prevalence of and risk factors for non-suicidal self-injury in 
rural China: Results from a nationwide survey in China". J Affect 
Disord, 226:188-195. 
25. Taylor PJ, Jomar K, Dhingra K, Forrester R, Shahmalak U, 
Dickson JM (2017). "A meta-analysis of the prevalence of 
different functions of non-suicidal selfinjury". Journal of Affective 
Disorders, 227:759-769. 
26. Tran DT (2013). "Validation of the depression anxiety stress 
scales (DASS) 21 as a screening instrument for depression and 
anxiety in a rural community-based cohort of northern 
Vietnamese women". BMC Psychiatry, doi: 10.1186/1471-244X-
13-24. 
27. WHO (2002). Gender and Mental Health. URL: 
https://www.who.int/gender/other_health/genderMH.pdf. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdftan_suat_va_muc_dich_cua_hanh_vi_tu_lam_ton_thuong_o_hoc_sin.pdf