Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ
Hò Bả trạo là loại hình nghệ thuật diễn
xướng dân gian phổ biến ở vùng ven
biển Nam Trung Bộ. Loại hình nghệ thuật này có một số tên gọi khác
nhau: hò/hát Bả trạo, hò Bá trạo, hò Chèo cạn, hò Đưa
linh tùy theo địa phương và mục đích sử dụng của
nó, song tên gọi phổ biến nhất là hò Bả trạo. Trong
tiếng Hán Việt, “bả” nghĩa là “nắm chắc”, "trạo" nghĩa
là “chèo”, hò Bả trạo nghĩa là “nắm chắc tay chèo”. Đây
là nghệ thuật diễn xướng gắn với tục thờ cúng cá
Ông (cá voi) - một loại hình tín ngưỡng dân gian của
ngư dân ven biển. Ngoài ra, hình thức diễn xướng hò
Bả trạo còn được dùng trong đám tang người chết
và một số trường hợp khác, song bài viết này chỉ giới
hạn phạm vi của hò Bả trạo trong tín ngưỡng thờ cá
Ông ở Nam Trung Bộ để nhấn mạnh đến mối liên hệ
của nó với ngư dân ven biển ở vùng đất này
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ

38 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi H ò Bả trạo là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian phổ biến ở vùng ven biển Nam Trung Bộ. Loại hình nghệ thuật này có một số tên gọi khác nhau: hò/hát Bả trạo, hò Bá trạo, hò Chèo cạn, hò Đưa linh tùy theo địa phương và mục đích sử dụng của nó, song tên gọi phổ biến nhất là hò Bả trạo. Trong tiếng Hán Việt, “bả” nghĩa là “nắm chắc”, "trạo" nghĩa là “chèo”, hò Bả trạo nghĩa là “nắm chắc tay chèo”. Đây là nghệ thuật diễn xướng gắn với tục thờ cúng cá Ông (cá voi) - một loại hình tín ngưỡng dân gian của ngư dân ven biển. Ngoài ra, hình thức diễn xướng hò Bả trạo còn được dùng trong đám tang người chết và một số trường hợp khác, song bài viết này chỉ giới hạn phạm vi của hò Bả trạo trong tín ngưỡng thờ cá Ông ở Nam Trung Bộ để nhấn mạnh đến mối liên hệ của nó với ngư dân ven biển ở vùng đất này. Diễn xướng hò Bả trạo có đội hình sắp xếp theo dạng một con thuyền, trong đó các “con trạo” là những người chèo thuyền, mỗi người cầm trên tay một mái chèo thể hiện động tác chèo thuyền; đóng vai chính là các “ông tổng”, có “tổng lái” là người lái thuyền, “tổng mũi” là người dẫn đường, “tổng khoang” (hoặc “tổng thương”) là người lo việc bếp núc và tát nước1, Với những động tác phối hợp nhịp nhàng, tất cả làm thành một đội hình nhất quán là con thuyền lướt sóng ra khơi. Nói đến tâm thức là nói đến “tình cảm và nhận thức đã ăn sâu và bền vững” (theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở). Những tình cảm và nhận thức về biển hiển nhiên đã ăn sâu trong ý thức của cư dân duyên hải Nam Trung Bộ, từ đó được phản ánh trong hò Bả trạo như sẽ được phân tích dưới đây. TÂM THỨC VỀ BIỂN TRONG HÒ BẢ TRẠO Ở NAM TRUNG BỘ ? PHaN THUẬN THẢo* * TS., Học viện Âm nhạc Huế. 1. Tâm thức về biển trong tư tưởng tín ngưỡng của hò Bả trạo - tục thờ thần Nam Hải (cá ông) Cư dân duyên hải Nam Trung Bộ đã sáng tạo và thực hành hò Bả trạo bắt nguồn từ sự tiếp xúc lâu dài và thường xuyên với biển. Từ đó, trong họ đã hình thành những nhận thức, tình cảm lớn, sâu sắc đối với biển. Trước hết, đó là sự tôn kính thần biển và duy trì việc thờ cúng vị thần này qua hàng trăm năm nay. Nam Trung Bộ trên bản đồ địa lý là vùng đất uốn mình ra Biển Đông ngày đêm sóng vỗ, càng nối dài cánh tay ra phía biển bởi các cồn, đảo, cù lao và các quần đảo xa xa. Trải qua nhiều thế hệ, dân cư ở đây dù muốn dù không vẫn phải có cái nhìn hướng biển bởi họ ngày đêm tiếp xúc, hành nghề kiếm miếng ăn trên biển. Cuộc sống mưu sinh của người dân vùng duyên hải phụ thuộc nhiều vào biển cả, từ những ngư dân đánh bắt hải sản ngoài khơi xa đến những người chuyên nghề “đi rỗi” (buôn cá từ các tàu đánh bắt xa Diễn xướng hò Bả trạo trong lễ Cầu ngư ở thôn Tuyết Diêm, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 3.4.2015. Ảnh: Khánh Hào. 39Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi bờ về đất liền), cho đến những người chế biến, những người phân phối hải sản đi các chợ xa Tất cả tạo thành một sợi dây liên hoàn của nghề đánh bắt và phân phối hải sản từ bao đời nay. Nhưng quan trọng và chịu nhiều hiểm nguy hơn cả vẫn là những ngư dân lênh đênh trên biển để mang về nguồn lợi hải sản. Họ có thể là những người đi “bãi ngang”2 tối đi sáng về, hoặc những người đi xa hơn trong khoảng một tuần, với những tàu đánh bắt xa bờ thì ba bốn tháng lênh đênh trên biển là chuyện bình thường. Trước đây, khi phương tiện thuyền bè, máy móc liên lạc còn thô sơ, những chuyến mưu sinh trên biển thực đầy hiểm nguy. Những cơn lốc, những trận bão biển có thể thình lình ập đến bất cứ lúc nào, nuốt chửng con thuyền nhỏ bé giữa những con sóng cuồng nộ của biển khơi. Biết bao nhân mạng đã phải vùi mình dưới làn nước đen thăm thẳm, thế nhưng người ta vẫn phải ra khơi, nghề cá vẫn được tiếp nối tự ngàn đời nay. Trong những cuộc mưu sinh đầy hiểm nguy này, ngư dân không khỏi trông chờ vào sự cứu giúp của lực lượng siêu nhiên. Các dân tộc khác nhau có những vị thần hộ mệnh trên biển khác nhau. Với người Hoa, đó là Mặc Nương, Hải Tiên Hoa hay Thiên Hậu Thánh Mẫu - các vị nữ thần cứu giúp các con thuyền trong những cơn bão biển.3 Người Chăm có Po Riyak là thần sóng biển, thường hóa thân thành cá voi để cứu giúp thuyền bè.4 Và với ngư dân người Việt, họ tôn thờ cá voi - sinh vật to lớn nhất của đại dương lắm lúc giúp họ vượt qua sóng gió hiểm nguy. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tục thờ cá voi của người Việt có nguồn gốc từ văn hóa Chăm, do tục lệ này chỉ có từ đèo Ngang trở vào phía Nam vốn là đất cư trú của người Chăm trước đây.5 Các nhà khoa học giải thích rằng trong những đợt sóng to gió lớn, bản thân cá voi cũng cảm thấy bất ổn, nó tìm một vật gì đó để tựa vào. Giữa biển cả mênh mông, nó tìm đến một vật khá lớn là con thuyền, áp thân hình đồ sộ của mình vào mạn thuyền và vì thế nâng đỡ khiến thuyền khỏi bị chìm giữa những cơn sóng dữ. Cứ thế, hai bên tựa vào nhau, cùng vượt qua cơn bão. Ngư dân từng kể rằng họ đã nghĩ sẽ không bao giờ sống sót trong cơn cuồng phong, bỗng dưng cá voi tiến đến áp vào mạn thuyền, nâng thuyền lên và cứu sống họ. Đến khi sóng yên biển lặng thì cá voi đã đưa họ vào gần bờ, xong nó lại quay đầu thủng thẳng bơi về khơi xa trong khi ngư dân rập đầu khấn vái để tạ ơn cứu mạng. Như thế, với ngư dân, cá voi như một vị thần xuất hiện giữa phong ba bão tố, cứu sống họ và đưa họ vào bờ. Từ đó, họ tôn thờ cá voi như một vị thần hộ mệnh trên biển và gọi một cách tôn kính là Ông hay cá Ông. Tương truyền khi Nguyễn Ánh (1762 - 1820) (tức vua Gia Long sau này) đi thuyền chạy loạn ra đảo Phú Quốc cũng đã được cá voi cứu sống trong một trận bão biển, nên sau khi làm vua, ông đã sắc phong cho cá voi là Ngọc Long Tôn thần hay thần Nam Hải. Nội dung ca ngợi cá Ông luôn được thể hiện rõ trong hò Bả trạo ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Bản tuồng hò Bả trạo của ông Nguyễn Mè ở thôn 3, xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã kể rõ việc cá Ông giúp đỡ ngư dân như thế nào: Ông là bực thánh hiển linh Ông quản trong đông hải thinh thinh muôn đời Ông ơi Ông mới trở mình Vì thân Ông đỡ chiếc thuyền ngoài khơi Ông ngăn mây đón gió cũng tài Ba đồ [đào?]6 phẳng lặng phép tài thần tiên Ghe nào chìm đắm nhấp nhô Ông liền đến cứu đem vô tới bờ Ai mà bị rớt chơi vơi Ông đưa đến cõi tấp dời lên khô... Trong bản hát Bả trạo của Phú Yên cũng có những đoạn ca ngợi cá Ông cứu thuyền: Nào khi thuyền thấp sóng cao Nhờ Ông nâng đỡ công cao đức dày Không chỉ là thần hộ mệnh, đối với ngư dân, cá Ông còn là một vị phúc thần, mang lại luồng cá. Anh N.V.H., thành viên trong đội Bả trạo ở đình Trường Đông, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa kể cho chúng tôi nghe rằng: “Có lần tui đi câu mực, nhưng câu mãi không được. Đến khi tui cầu khấn thần Nam Hải thì câu được rất nhiều, các thuyền bên cạnh cũng thế”.7 Những câu chuyện như thế khiến niềm tin của ngư dân đối với thần Nam Hải càng được củng cố. Chính vì vậy, bản Long thần Bả trạo ca ở Quảng Nam có câu: Đem mồi dẫn cá sớm trưa Giúp người chài lưới dư thừa ấm no. Như thế, cá Ông vừa là một vị thần cứu mạng ngư dân trên biển, vừa mang đến mùa màng bội thu, cuộc 40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi sống ấm no cho cư dân vùng duyên hải. Đó chính là nhận thức, tình cảm và là niềm tin của người dân được thể hiện rõ trong hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ. 2. Tâm thức về biển trong môi trường diễn xướng của hò Bả trạo - lễ cầu ngư Môi trường diễn xướng thường được hiểu là nơi mà một loại hình nghệ thuật trình diễn nào đó diễn ra như những khung cảnh sinh hoạt đời thường của con người hay trong các dịp lễ hội, hội thi... Nói đến môi trường diễn xướng của hò Bả trạo là phải nói đến lễ Cầu ngư - cuộc lễ được ngư dân tổ chức định kỳ để cầu mong mùa cá bội thu. Trong các đợt điền dã ở các làng chài ven biển Nam Trung Bộ, chúng tôi nhận thấy các lễ Cầu ngư thường được tổ chức theo một mô thức gần như nhau, trong đó, đội Bả trạo tham gia hầu như suốt tiến trình nghi lễ. Cuộc lễ bắt đầu vào lúc sáng sớm, khi ngư dân dong những chiếc thuyền lớn có chuẩn bị sẵn đồ lễ, có cả đội Bả trạo, ra biển để làm lễ rước thần Nam Hải. Đến vị trí quan trọng như cửa sông, cửa biển, đoàn thuyền dừng lại để tiến hành nghi lễ rước thần với sự tham gia của đội Bả trạo. Nghi lễ kéo dài chừng 20 - 30 phút thì xong, cả đoàn thuyền nô nức rước thần Nam Hải về đình/lăng Ông của làng mình trong tiếng hò điệu múa Bả trạo hòa cùng tiếng sóng, âm vang cả một vùng trời biển bao la. Đội Bả trạo cùng đám rước thành kính đưa bài vị thần Nam Hải từ biển khơi về đến lăng Ông trong sự tôn kính của ngư dân trong làng. Đến nơi, người ta làm lễ tế thần và ngay sau đó, đội Bả trạo trình diễn trước hương án để cúng thần (cá Ông). Cuộc trình diễn kéo dài khoảng 1 - 3 giờ tùy theo từng địa phương và bao giờ cũng kết thúc bằng việc cầu mong Ông phù hộ cho những chuyến đi biển bình yên, mùa cá bội thu và phước lành cho dân làng. Sau phần hò Bả trạo thường có diễn tuồng để cúng Ông và để nhân dân trong làng cùng thưởng thức. Đối với ngư dân, Cầu ngư là lễ hội bắt buộc phải được tổ chức hàng năm, nếu không thì “thất lễ” với thần thánh, sẽ không được thần thánh phò trợ. Ở một số nơi, người dân “xin” thần cứ 2, 3 hoặc 5 năm một lần tổ chức cuộc lễ một cách quy củ, đầy đủ, trong đó có trình diễn hò Bả trạo. Còn vào những năm khác, các bô lão vẫn phải đến lăng/miếu/đình làm lễ một cách đơn giản. Vào những kỳ lễ lớn, bao giờ cũng phải mời đội Bả trạo. Chúng tôi hỏi lão ngư Lê Bé (xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) - người trong ban tổ chức lễ Cầu ngư năm 2016 - rằng lễ Cầu ngư không có hò Bả trạo được không, ông xua tay: “Không được, phải có hò Bả trạo để cúng Ông chớ, truyền thống từ bao đời, nay phải giữ”.8 Đội Bả trạo đi thuyền ra biển rước thần Nam Hải. Ảnh: Khánh Hào. 41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Như thế, hò Bả trạo là một thành phần không thể thiếu trong lễ Cầu ngư, thể hiện ước vọng của ngư dân về một mùa biển dồi dào, bình an và lòng biết ơn đối với các thần linh đã giúp mình trong cuộc mưu sinh đầy hiểm nguy trên biển. 3. Hò Bả trạo - chuyến hành trình trên biển Xét về nội dung, diễn xướng hò Bả trạo kể về một chuyến đi biển với các tình tiết diễn ra mang tính hiện thực khá cao. Dù có nhiều dị bản khác nhau theo từng địa phương và theo mục đích, nội dung nghi lễ9, song hò Bả trạo nhìn chung có cấu trúc như sau: Phần mở đầu: đội Bả trạo tiến vào trước hương án, thực hiện bước lễ tế cáo thần linh, phần này còn có nội dung giới thiệu lý do diễn ra hò Bả trạo. Bản Long thần Bả trạo ca ở Quảng Nam có đoạn sau đây nằm trong phần mở đầu: Nay ta vâng Thiên đình lịnh dạy, Truyền Đà trưởng thiên hành, Nay tới ngày từ tế siêu sanh Ngươi cấp soạn Long thuyền chính túc. Chốn Phật hải rước người thủy tộc Nơi Thiên đường đưa tới liên hoa Như thế, ta biết rằng bản tuồng hò Bả trạo này được trình diễn trong lễ tế cá Ông định kỳ. Bản tuồng hò Bả trạo thu thập được ở lăng Lương Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa lại có những câu cho biết hò Bả trạo diễn ra trong dịp lễ khánh thành tu sửa miễu/lăng mới: Đêm nay các thợ kinh thành Sửa sang lăng miễu giữ gìn đèn hương Nay lập thành lăng mới Thỉnh Trạo phu làm lễ ca ngâm Trong phần này thường có nội dung ca ngợi công đức thần Nam Hải khi đội Bả trạo vái lạy trước án thờ thần. Trên thánh thần chứng dám Dưới làng Lạch [lạch] cuối [cúi] đầu Tràng Bả Trạo đến hầu Nghinh ông vào bái yết (Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang) Lớp 1: Hành trình trên biển. Đây có thể là sự mô tả hiện thực chuyến đi đánh cá trên biển của ngư dân hay là cảnh ngư dân rước Ông về đình/lăng của làng mình, hoặc có khi đó là con thuyền Bát nhã rước Ông về chốn Phật đài. Đồng lòng cất giọng hò khoan Rước thần Nam Hải đưa sang Phật đài (Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) Có những đoạn tả các sinh hoạt lao động của ngư dân ngoài biển khơi: Trước mũi gát [gác] mõ [mỏ] neo Sau phan công coi mà tát nước Anh em lo giữ trước Sau lái để mặc ta hảo a ... (Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang) Lớp 2: Đêm khuya, mọi người đã ngủ. Tổng thương thức canh, tát nước và hát những bài tự sự. Như tôi quê ngụ chốn làng cựu An Lương, Mỗ danh xưng Tổng Thương Tánh đã thiệt không hề nói phách Tôi lại có cái tài Tài lại hay giữ việc cầm gàu Việc nước non, ngày tháng dồi trau Cơn dông tố ngày vui nhấm nhí Vừa gặp lúc đêm khuya vắng vẻ Nhìn trong thuyền ngó cũng quạnh hiu Buồn cha chả là buồn (Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) Tôi tát nước rồi tôi nghĩ tôi buồn Tôi ngâm một đôi câu tôi chơi à Chòm mây phú quý khi tan hợp Ngọn sóng văn minh lúc bọt bồng 42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi (Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang) Lớp 3: Dông gió nổi lên, con thuyền chao đảo, ngư dân hợp sức lèo lái con thuyền, cầu khấn cá Ông cứu thuyền khỏi hiểm nguy. Mây kéo phủ khói lang Mói sóng bổ ngang Giông ra mù mịt Âu là mau mau đến trước thăm neo Chong chóng lui sau thưa chú tổng Giông bớ chú tổng giông ... Trực khứ qua miền bắc hải Quý không sao đâu anh em ôi Có lòng thành Ông độ biển đông (Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang) Lớp 4: Dông bão đã tan, ngư dân lui thuyền về bến trong niềm cảm tạ đối với cá Ông. Nước săn rồi lại nước êm Hết cơn bỉ cực tới điềm thái lai Điềm thái lai không mai thì mốt Cá được mùa đáy chốt no nê ... Đức Ông có tiếng nhân từ Sắc vua phong tặng công tư phụng thờ (Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) Từ nội dung cơ bản này, các đội Bả trạo ở các địa phương đã sáng tạo nên các dị bản, tạo nên sự đa dạng trong nội dung trình diễn hò Bả trạo ở vùng Nam Trung Bộ. Đây được xem như là một vở diễn kể về hành trình của một chuyến đi biển, từ lúc thuyền ra khơi, gặp dông tố, vượt qua gió bão và trở về bờ bình yên với niềm vui được mùa. Vở diễn kết thúc bằng việc cầu xin thần Nam Hải phù hộ cho dân làng. Như vậy, có thể thấy nội dung hò Bả trạo thấm đẫm tâm thức biển của những người ngư dân. Toàn bộ phần trình diễn này đều gắn liền với biển, đó chính là cuộc sống của họ, nơi ấy cung cấp nguồn sống cho cả cộng đồng, cũng là nơi chứa đầy hiểm nguy. Thông qua hò Bả trạo, ngư dân kể cho chúng ta biết về những hoạt động của họ trên biển cũng như những tâm tư, tình cảm của họ với biển cả bao la: Khiển lái giữa dòng biển thẳm Gió thuận buồm mấy dặm xa xa Mênh mông một dải ngân hà Thuyền lan tách dậm quê nhà càng trông (Bổn tuồng hò Bả trạo của đình Trường Tây, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang) 4. Tri thức dân gian về biển trong hò Bả trạo Nhận thức về biển của ngư dân còn được thể hiện qua tri thức, kinh nghiệm có được sau quá trình lâu dài mưu sinh trên biển. Đó là kinh nghiệm đối phó với giông tố trên biển. Khi trời nổi dông, tổng lái hỏi tổng thương: “Bớ tổng thương! Vậy chớ dòng gió phía nào vậy ngươi ?” Khi nghe báo mây bay về phía đông nam, gió thổi từ hướng tây bắc, bằng kinh nghiệm, tổng lái kết luận: “Vậy giông ngoài đó ngươi không có chi mô mà ngươi lo sợ”, rồi chỉ huy mọi người cùng vượt qua cơn dông tố. Tri thức dân gian ở đây cũng có thể là kinh nghiệm xem phương trời, đón hướng gió khi lênh đênh trên biển: Tổng lái: Nghe ta dặn giương bườm [buồm] phải coi gió Cầm lái phải xem sao... (Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang) Quan sát các hiện tượng thiên nhiên, ngư dân có thể có thêm kinh nghiệm về các quy luật thời tiết: Bóng trăng vừa đã qua đầu Bóng trăng dọi trước nắng lâu mấy hồi (Bổn tuồng lăng Lương Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa) Những tri thức ấy chỉ có thể được đúc rút sau nhiều năm tiếp xúc với biển cả chứ không thể có được trong ngày một ngày hai. Nội dung hò Bả trạo chứng minh rằng ngư dân hiểu biết sâu sắc về biển, hiểu từng ngọn gió, con nước để có thể ứng phó với bất trắc và khai thác tốt nguồn lợi hải sản. 43Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi 5. Tâm thức về biển trong nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo Nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo được thể hiện một cách phù hợp với các nội dung tư tưởng như vừa nêu, có thể được tìm thấy ở các khía cạnh dưới đây. Ở phần mở đầu, các ông tổng và con trạo phải thực hiện nghi lễ thắp hương khấn vái trước bàn thờ cá Ông với ý nghĩa cuộc trình diễn sắp diễn ra là để dâng cúng Ông - vị phúc thần của biển cả. Đây là một thủ tục bắt buộc, cho thấy trình diễn hò Bả trạo gắn liền với văn hóa biển. Trong phần trình diễn chính, đội hình múa Bả trạo sắp theo dạng một con thuyền đang thực hiện một chuyến hành trình trên biển. Các con trạo tay cầm đạo cụ là mái chèo và hầu như chỉ thực hiện một động tác duy nhất là chèo thuyền. Các ông tổng cũng dùng các đạo cụ gắn với con thuyền: tổng lái cầm một mái chèo lớn, tổng thương cầm gàu tát nước và cần câu. Tất cả các nhân vật phối hợp nhịp nhàng với nhau, cùng lắc lư di chuyển tại chỗ như trên một con thuyền đang bập bềnh cưỡi sóng. Về mặt âm nhạc, hò Bả trạo sử dụng một số điệu hò biển của ngư dân Nam Trung Bộ như hò Kéo neo ở Quảng Nam, hò Giựt chì ở Quảng Ngãi, hò Mái ngơi, hò Mái dặm ở Khánh Hòa... Thuyền trình vào lộng ra khơi Sông sâu sóng cả biển ngời nước săng. (Hò Kéo neo, tỉnh Quảng Nam) Ra đi sóng biển mịt mù Trời cho lưới nặng dô hò ta kéo lên. (Hò Giựt chì, tỉnh Quảng Ngãi) Ngoài ra, còn có các điệu lý tát nước, vè tên cá ở Khánh Hòa. Những điệu hát dân gian này gắn liền với văn hóa biển, thể hiện tình cảm sâu nặng của ngư dân đối với biển cả yêu thương. Nhìn chung, nghệ thuật diễn xướng của hò Bả Đội Bả trạo làm lễ trước khi diễn xướng. Ảnh chụp trong lễ Cầu ngư ở xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ngày 18.3.2016. Ảnh: Phan Thuận Thảo 44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi trạo thể hiện rõ truyền thống ra khơi đánh cá của ngư dân duyên hải Nam Trung Bộ. Đó là một truyền thống lâu đời, từ thực tại cuộc sống được đúc kết lại trong nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo. Cuộc diễn xướng kéo dài 1 - 3 giờ với hình thức, động tác, đội hình lặp đi lặp lại như thế khẳng định rõ tính chất biển của cuộc trình diễn, thể hiện tâm thức về biển của cộng đồng ngư dân nơi đây. 6. Thay lời kết Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống, song không phải bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong cuộc sống cũng được đưa vào nghệ thuật. Một hiện tượng trong cuộc sống được khái quát hóa, được đúc kết thành nghệ thuật khi nó có ý nghĩa nhất định nào đó trong tâm thức của con người. Đối với cư dân duyên hải Nam Trung Bộ, từ bao đời nay, biển chính là cuộc sống của họ. Họ sinh ra đã nghe tiếng sóng biển, lớn lên từ biển, kiếm ăn và nuôi sống gia đình từ biển. Nghề cá từ lâu đã là nguồn sống của cư dân nơi đây. Thực tế đó đã tác động vào tình cảm và ý thức của bao thế hệ người dân và ăn sâu vào tiềm thức của họ để từ đó, họ đã sáng tạo ra nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo để dâng cúng thần biển thông qua việc thể hiện hiện thực cuộc mưu sinh trên biển của bản thân và cộng đồng. Đến nay, dù phương tiện thuyền bè, máy móc đã hiện đại hơn xưa, giúp ngư dân tránh bớt rủi ro trước phong ba bão táp, những tiến bộ của khoa học cũng đã giải thích được những hiện tượng tự nhiên, song niềm tin về sự giúp đỡ, phù hộ của cá Ông vẫn còn đó trong tâm thức của cư dân duyên hải. Do đó, họ vẫn duy trì các cuộc lễ Cầu ngư và diễn xướng hò Bả trạo. Theo định kỳ, ngư dân tự nguyện góp tiền của, công sức tổ chức lễ tế trang trọng, trong đó có trình diễn hò Bả trạo để dâng cúng cá Ông. Nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo sẽ không mất đi khi mà niềm tin của con người vẫn còn đó với thời gian. Ngày nay, vấn đề biển đảo nổi lên bức bách trong đời sống chính trị quốc gia, khu vực và quốc tế, việc nghiên cứu về văn hóa biển cũng trở nên cấp thiết. Các nhà nghiên cứu đã bước đầu thống kê các loại hình di sản văn hóa biển gồm di sản vật thể và phi vật thể, trong đó văn hóa phi vật thể được kể đến gồm: “Đó là kinh nghiệm sống và làm ăn của cư dân biển, đảo được truyền lại từ nhiều thế hệ, bao gồm kỹ thuật chế tạo công cụ, phương tiện đi lại trên biển, hệ tri thức về thời tiết biển, về ngư trường, luồng lạch. Đó là nghệ thuật bảo quản, chế biến hải sản, các phương thuốc chữa trị dân gian của cư dân biển đảo bằng những nguyên vật liệu từ biển và ở các vùng ven biển, hải đảo Trong các di sản phi vật thể, lễ hội là một sáng tạo văn hóa đặc sắc”.10 Thiết nghĩ nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo, cũng như các loại hình nghệ thuật trình diễn khác liên quan đến biển, cũng cần được chú trọng như một thành tố văn hóa phi vật thể của văn hóa biển đảo, bởi nó thể hiện tâm thức về biển của người dân duyên hải Nam Trung Bộ, góp phần khẳng định văn hóa hướng biển của người dân Việt. Câu chuyện được kể trong hò Bả trạo về một chuyến đi biển ngoài khơi xa là một bằng chứng nữa chứng minh rằng người Việt đã khai thác, đánh bắt hải sản trong ngư trường của mình hàng trăm năm nay. Họ chính là chủ sở hữu của vùng biển này. Dù trước đây người Việt chưa có phương tiện tàu thuyền lớn, trang bị máy móc hiện đại để đánh bắt xa bờ như ngày nay, song qua nội dung câu chuyện được kể trong hò Bả trạo, chúng ta biết được ngư dân Việt ngày xưa đã có những giao tiếp trên thực tế với cá voi mà họ suy tôn là thần Nam Hải, chứng tỏ họ đã vươn ra đến đại dương xa xôi, nơi có cá voi sinh sống. Hiện nay, những tranh chấp trên Biển Đông đang ảnh hưởng không nhỏ đến những chuyến đánh bắt xa bờ của ngư dân Việt Nam. Hiện tượng xảy ra khá thường xuyên là ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá, thậm chí bị bắn, bị đuổi khỏi ngư trường của mình. Nhà nước Việt Nam với sự hợp lực của các nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử đã và đang tìm kiếm những bằng chứng chứng minh chủ quyền biển đảo của quốc gia. Chúng tôi cho rằng hiện tượng văn hóa biển hằn sâu trong tâm thức của cư dân Việt và thể hiện trong hò Bả trạo bằng câu chuyện đánh cá ngoài khơi xa cũng là một bằng chứng nữa chứng minh cho chủ quyền trên biển của người Việt Nam. Nội dung hò Bả trạo chứng minh cho truyền thống đánh bắt xa bờ của ngư dân Việt. Truyền thống đó đã tồn tại từ lâu đời, đã ăn sâu vào tâm thức của người dân và được thể hiện qua việc thờ cúng cá voi và nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo. Không ai có thể lấy mất ngư trường của ngư dân Việt, nó thuộc về chủ quyền của họ và gắn liền với cuộc sống của họ từ bao đời nay. Vấn đề này cần được nhận diện và phát huy trong việc đấu tranh cho chủ quyền lãnh hải của Việt Nam hiện nay. P.T.T. 45Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi cHÚ THÍcH 1 Tùy theo địa phương mà có thể có 3 hoặc 4 ông tổng, tên gọi của các ông tổng cũng có thể khác nhau theo từng địa phương. 2 Tức thuyền đi và về từ bãi biển chứ không qua cửa biển. 3 Vũ Hoài An, “Hải thần trong tín ngưỡng người Hoa ở Hội An”, Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Số 50/2014, 41 - 46. 4 - Truyện cổ dân gian Chăm, (Hà Nội: Văn hóa Dân tộc, 2000), 59 - 62. - Đình Hy, Văn hóa xã hội cư dân vùng biển tỉnh Bình Thuận, (Hà Nội: Thanh niên), 80 - 81. 5 - Nhiều tác giả, Tập tục lễ hội đất Quảng, (Hà Nội: Lao động, 2011), tập 3, 622. - Trần Sỹ Huệ, Đất Phú Trời Yên, (Hà Nội: Lao động, 2011), 381. - Đình Hy, Văn hóa xã hội cư dân vùng biển Bình Thuận, (Hà Nội: Thanh niên, 2011), 84. 6 Những chữ nằm trong ngoặc vuông là do tác giả bài viết thêm vào với mục đích bổ khuyết cho chữ đứng trước có trong nguyên bản. 7 Trò chuyện với các thành viên đội Bả trạo tại đình Trường Đông, làng Cửa Bé, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa ngày 30.3.2015. 8 Phỏng vấn lão ngư Lê Bé tại lăng Ông, xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, ngày 17.3.2016. 9 Cũng là thờ cá Ông, nhưng nội dung hò Bả trạo trong lễ cúng tế hàng năm khác với lễ đưa tang cá Ông, và cũng khác với lễ khánh thành lăng Ông Tuy vậy, quá trình nghiên cứu điền dã tại các tỉnh Nam Trung Bộ cho chúng tôi thấy rằng nội dung diễn xướng hò Bả trạo có những nét tương đồng. 10 Vũ Minh Giang, “Văn hóa biển đảo Việt Nam”, Xưa & Nay, Số 455, tháng 1/2015, 5. TÀI lIỆU THaM KHẢo I. Tài liệu viết 1. Vũ Hoài An. “Hải thần trong tín ngưỡng người Hoa ở Hội An”, Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số 50/2014, 41 - 46. 2. Lê Đình Chi, Hình Phước Liên, Lê Huy Trâm, Nguyễn Hữu Thu. 2013. Khảo sát tục hát Ca công, hát Trống quân và hò Bá trạo. Hà Nội: Văn hóa Thông tin. 3. Vũ Minh Giang. “Văn hóa biển đảo ở Việt Nam”. Xưa & Nay. Số 455 (1)/2015, 3 - 6. 4. Thanh Hoàng, “Mối liên hệ văn hóa giữa người Chăm với người Việt”. www.hdvvn.vn. Truy cập ngày 8.5.2016. 5. Trần Hồng. 2010. Hát Bả trạo. Hà Nội: Sân khấu. 6. Trần Sỹ Huệ. 2011. Đất Phú Trời Yên. Hà Nội: Lao động. 7. Đình Hy. 2011. Văn hóa xã hội cư dân vùng biển Bình Thuận. Hà Nội: Thanh niên. 8. Nhiều tác giả. 2011. Tập tục lễ hội đất Quảng. Hà Nội: Lao động. Tập 3. 9. Nhiều tác giả. 2012. Văn hóa biển đảo Khánh Hòa. Kỷ yếu hội thảo, Nha Trang: UBND tỉnh Khánh Hòa. 10. Nam Yên, “Tục thờ thần sóng biển Po Riyak của người Chăm”, www.thoidai.com.vn. Truy cập ngày 8.5.2016. II. Các kịch bản 11. Long thần Bả trạo ca (Bài chèo Ông) do nghệ nhân Phạm Đúng ở xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam cung cấp. 12. Bài Ông, bản của ông Nguyễn Mè, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. 13. Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. 14. Bổn tuồng hò Bả trạo của đình Trường Tây, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. 15. Bổn tuồng hò Bả trạo của lăng Lương Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. 16. Nghi lễ hát Bả trạo (chèo thuyền) của ngư dân biển miền Trung, PGS.TS. Đỗ Thị Hảo phiên âm và chú thích, Hà Nội, tháng 9.2007. Tài liệu do nhóm nghệ nhân Bả trạo ở Phú Yên cung cấp. III. Tài liệu điền dã 17. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở đình Trường Đông, Cửa Bé, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, ngày 11 tháng 2 năm Ất Mùi. 30.3.2015. 18. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở thôn Tuyết Diêm, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 15 tháng 2 năm Ất Mùi. 03.4.2015. 19. Lễ Cầu ngư và Hò Bả trạo ở Cửa Đại, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, ngày 16 tháng 2 năm Ất Mùi. 4.4.2015. 20. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở thôn Vạn Lăng, xã Cẩm Thanh, Hội An, Quảng Nam, ngày 10 tháng 2 năm Bính Thân (18.3.2016). 21. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở lăng ông Nam Hải, xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, ngày 15 tháng 3 năm Bính Thân. 21.4.2016. 22. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở lăng Ông xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, ngày 16 tháng 3 năm Bính Thân. 22.4.2016.
File đính kèm:
tam_thuc_ve_bien_trong_ho_ba_trao_o_nam_trung_bo.pdf