Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ

Hò Bả trạo là loại hình nghệ thuật diễn

xướng dân gian phổ biến ở vùng ven

biển Nam Trung Bộ. Loại hình nghệ thuật này có một số tên gọi khác

nhau: hò/hát Bả trạo, hò Bá trạo, hò Chèo cạn, hò Đưa

linh tùy theo địa phương và mục đích sử dụng của

nó, song tên gọi phổ biến nhất là hò Bả trạo. Trong

tiếng Hán Việt, “bả” nghĩa là “nắm chắc”, "trạo" nghĩa

là “chèo”, hò Bả trạo nghĩa là “nắm chắc tay chèo”. Đây

là nghệ thuật diễn xướng gắn với tục thờ cúng cá

Ông (cá voi) - một loại hình tín ngưỡng dân gian của

ngư dân ven biển. Ngoài ra, hình thức diễn xướng hò

Bả trạo còn được dùng trong đám tang người chết

và một số trường hợp khác, song bài viết này chỉ giới

hạn phạm vi của hò Bả trạo trong tín ngưỡng thờ cá

Ông ở Nam Trung Bộ để nhấn mạnh đến mối liên hệ

của nó với ngư dân ven biển ở vùng đất này

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ

Tâm thức về biển trong Hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ
38 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
H ò Bả trạo là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian phổ biến ở vùng ven biển Nam Trung Bộ. Loại hình nghệ thuật này có một số tên gọi khác 
nhau: hò/hát Bả trạo, hò Bá trạo, hò Chèo cạn, hò Đưa 
linh tùy theo địa phương và mục đích sử dụng của 
nó, song tên gọi phổ biến nhất là hò Bả trạo. Trong 
tiếng Hán Việt, “bả” nghĩa là “nắm chắc”, "trạo" nghĩa 
là “chèo”, hò Bả trạo nghĩa là “nắm chắc tay chèo”. Đây 
là nghệ thuật diễn xướng gắn với tục thờ cúng cá 
Ông (cá voi) - một loại hình tín ngưỡng dân gian của 
ngư dân ven biển. Ngoài ra, hình thức diễn xướng hò 
Bả trạo còn được dùng trong đám tang người chết 
và một số trường hợp khác, song bài viết này chỉ giới 
hạn phạm vi của hò Bả trạo trong tín ngưỡng thờ cá 
Ông ở Nam Trung Bộ để nhấn mạnh đến mối liên hệ 
của nó với ngư dân ven biển ở vùng đất này.
Diễn xướng hò Bả trạo có đội hình sắp xếp theo 
dạng một con thuyền, trong đó các “con trạo” là những 
người chèo thuyền, mỗi người cầm trên tay một mái 
chèo thể hiện động tác chèo thuyền; đóng vai chính 
là các “ông tổng”, có “tổng lái” là người lái thuyền, 
“tổng mũi” là người dẫn đường, “tổng khoang” (hoặc 
“tổng thương”) là người lo việc bếp núc và tát nước1, 
 Với những động tác phối hợp nhịp nhàng, tất cả 
làm thành một đội hình nhất quán là con thuyền lướt 
sóng ra khơi.
Nói đến tâm thức là nói đến “tình cảm và nhận 
thức đã ăn sâu và bền vững” (theo Từ điển Bách khoa 
toàn thư mở). Những tình cảm và nhận thức về biển 
hiển nhiên đã ăn sâu trong ý thức của cư dân duyên 
hải Nam Trung Bộ, từ đó được phản ánh trong hò Bả 
trạo như sẽ được phân tích dưới đây. 
TÂM THỨC VỀ BIỂN
TRONG HÒ BẢ TRẠO Ở NAM TRUNG BỘ
? PHaN THUẬN THẢo*
* TS., Học viện Âm nhạc Huế.
1. Tâm thức về biển trong tư tưởng tín ngưỡng 
của hò Bả trạo - tục thờ thần Nam Hải (cá ông)
Cư dân duyên hải Nam Trung Bộ đã sáng tạo và 
thực hành hò Bả trạo bắt nguồn từ sự tiếp xúc lâu dài 
và thường xuyên với biển. Từ đó, trong họ đã hình 
thành những nhận thức, tình cảm lớn, sâu sắc đối với 
biển. Trước hết, đó là sự tôn kính thần biển và duy trì 
việc thờ cúng vị thần này qua hàng trăm năm nay.
Nam Trung Bộ trên bản đồ địa lý là vùng đất uốn 
mình ra Biển Đông ngày đêm sóng vỗ, càng nối dài 
cánh tay ra phía biển bởi các cồn, đảo, cù lao và các 
quần đảo xa xa. Trải qua nhiều thế hệ, dân cư ở đây 
dù muốn dù không vẫn phải có cái nhìn hướng biển 
bởi họ ngày đêm tiếp xúc, hành nghề kiếm miếng ăn 
trên biển. Cuộc sống mưu sinh của người dân vùng 
duyên hải phụ thuộc nhiều vào biển cả, từ những ngư 
dân đánh bắt hải sản ngoài khơi xa đến những người 
chuyên nghề “đi rỗi” (buôn cá từ các tàu đánh bắt xa 
Diễn xướng hò Bả trạo trong lễ Cầu ngư ở thôn Tuyết Diêm, xã 
Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 3.4.2015. 
Ảnh: Khánh Hào.
39Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
bờ về đất liền), cho đến những người chế biến, những 
người phân phối hải sản đi các chợ xa Tất cả tạo 
thành một sợi dây liên hoàn của nghề đánh bắt và 
phân phối hải sản từ bao đời nay. Nhưng quan trọng 
và chịu nhiều hiểm nguy hơn cả vẫn là những ngư 
dân lênh đênh trên biển để mang về nguồn lợi hải 
sản. Họ có thể là những người đi “bãi ngang”2 tối đi 
sáng về, hoặc những người đi xa hơn trong khoảng 
một tuần, với những tàu đánh bắt xa bờ thì ba bốn 
tháng lênh đênh trên biển là chuyện bình thường. 
Trước đây, khi phương tiện thuyền bè, máy móc liên 
lạc còn thô sơ, những chuyến mưu sinh trên biển thực 
đầy hiểm nguy. Những cơn lốc, những trận bão biển 
có thể thình lình ập đến bất cứ lúc nào, nuốt chửng 
con thuyền nhỏ bé giữa những con sóng cuồng nộ 
của biển khơi. Biết bao nhân mạng đã phải vùi mình 
dưới làn nước đen thăm thẳm, thế nhưng người ta 
vẫn phải ra khơi, nghề cá vẫn được tiếp nối tự ngàn 
đời nay. 
Trong những cuộc mưu sinh đầy hiểm nguy này, 
ngư dân không khỏi trông chờ vào sự cứu giúp của 
lực lượng siêu nhiên. Các dân tộc khác nhau có những 
vị thần hộ mệnh trên biển khác nhau. Với người Hoa, 
đó là Mặc Nương, Hải Tiên Hoa hay Thiên Hậu Thánh 
Mẫu - các vị nữ thần cứu giúp các con thuyền trong 
những cơn bão biển.3 Người Chăm có Po Riyak là 
thần sóng biển, thường hóa thân thành cá voi để cứu 
giúp thuyền bè.4 Và với ngư dân người Việt, họ tôn 
thờ cá voi - sinh vật to lớn nhất của đại dương lắm 
lúc giúp họ vượt qua sóng gió hiểm nguy. Một số nhà 
nghiên cứu cho rằng tục thờ cá voi của người Việt có 
nguồn gốc từ văn hóa Chăm, do tục lệ này chỉ có từ 
đèo Ngang trở vào phía Nam vốn là đất cư trú của 
người Chăm trước đây.5 Các nhà khoa học giải thích 
rằng trong những đợt sóng to gió lớn, bản thân cá 
voi cũng cảm thấy bất ổn, nó tìm một vật gì đó để tựa 
vào. Giữa biển cả mênh mông, nó tìm đến một vật 
khá lớn là con thuyền, áp thân hình đồ sộ của mình 
vào mạn thuyền và vì thế nâng đỡ khiến thuyền khỏi 
bị chìm giữa những cơn sóng dữ. Cứ thế, hai bên tựa 
vào nhau, cùng vượt qua cơn bão. Ngư dân từng kể 
rằng họ đã nghĩ sẽ không bao giờ sống sót trong 
cơn cuồng phong, bỗng dưng cá voi tiến đến áp vào 
mạn thuyền, nâng thuyền lên và cứu sống họ. Đến 
khi sóng yên biển lặng thì cá voi đã đưa họ vào gần 
bờ, xong nó lại quay đầu thủng thẳng bơi về khơi 
xa trong khi ngư dân rập đầu khấn vái để tạ ơn cứu 
mạng. Như thế, với ngư dân, cá voi như một vị thần 
xuất hiện giữa phong ba bão tố, cứu sống họ và đưa 
họ vào bờ. Từ đó, họ tôn thờ cá voi như một vị thần hộ 
mệnh trên biển và gọi một cách tôn kính là Ông hay 
cá Ông. Tương truyền khi Nguyễn Ánh (1762 - 1820) 
(tức vua Gia Long sau này) đi thuyền chạy loạn ra đảo 
Phú Quốc cũng đã được cá voi cứu sống trong một 
trận bão biển, nên sau khi làm vua, ông đã sắc phong 
cho cá voi là Ngọc Long Tôn thần hay thần Nam Hải. 
Nội dung ca ngợi cá Ông luôn được thể hiện rõ 
trong hò Bả trạo ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Bản tuồng 
hò Bả trạo của ông Nguyễn Mè ở thôn 3, xã Cẩm 
Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã kể rõ 
việc cá Ông giúp đỡ ngư dân như thế nào:
 Ông là bực thánh hiển linh
Ông quản trong đông hải thinh thinh muôn đời
Ông ơi Ông mới trở mình
Vì thân Ông đỡ chiếc thuyền ngoài khơi
Ông ngăn mây đón gió cũng tài
Ba đồ [đào?]6 phẳng lặng phép tài thần tiên
Ghe nào chìm đắm nhấp nhô
Ông liền đến cứu đem vô tới bờ
Ai mà bị rớt chơi vơi
Ông đưa đến cõi tấp dời lên khô...
Trong bản hát Bả trạo của Phú Yên cũng có những 
đoạn ca ngợi cá Ông cứu thuyền:
Nào khi thuyền thấp sóng cao
Nhờ Ông nâng đỡ công cao đức dày 
Không chỉ là thần hộ mệnh, đối với ngư dân, cá 
Ông còn là một vị phúc thần, mang lại luồng cá. Anh 
N.V.H., thành viên trong đội Bả trạo ở đình Trường 
Đông, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa kể cho 
chúng tôi nghe rằng: “Có lần tui đi câu mực, nhưng 
câu mãi không được. Đến khi tui cầu khấn thần Nam 
Hải thì câu được rất nhiều, các thuyền bên cạnh cũng 
thế”.7 Những câu chuyện như thế khiến niềm tin của 
ngư dân đối với thần Nam Hải càng được củng cố. 
Chính vì vậy, bản Long thần Bả trạo ca ở Quảng Nam 
có câu:
Đem mồi dẫn cá sớm trưa
Giúp người chài lưới dư thừa ấm no.
Như thế, cá Ông vừa là một vị thần cứu mạng ngư 
dân trên biển, vừa mang đến mùa màng bội thu, cuộc 
40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
sống ấm no cho cư dân vùng duyên hải. Đó chính là 
nhận thức, tình cảm và là niềm tin của người dân 
được thể hiện rõ trong hò Bả trạo ở Nam Trung Bộ.
2. Tâm thức về biển trong môi trường diễn xướng 
của hò Bả trạo - lễ cầu ngư
Môi trường diễn xướng thường được hiểu là nơi 
mà một loại hình nghệ thuật trình diễn nào đó diễn 
ra như những khung cảnh sinh hoạt đời thường của 
con người hay trong các dịp lễ hội, hội thi... Nói đến 
môi trường diễn xướng của hò Bả trạo là phải nói đến 
lễ Cầu ngư - cuộc lễ được ngư dân tổ chức định kỳ để 
cầu mong mùa cá bội thu.
Trong các đợt điền dã ở các làng chài ven biển Nam 
Trung Bộ, chúng tôi nhận thấy các lễ Cầu ngư thường 
được tổ chức theo một mô thức gần như nhau, trong 
đó, đội Bả trạo tham gia hầu như suốt tiến trình nghi 
lễ. Cuộc lễ bắt đầu vào lúc sáng sớm, khi ngư dân 
dong những chiếc thuyền lớn có chuẩn bị sẵn đồ lễ, 
có cả đội Bả trạo, ra biển để làm lễ rước thần Nam Hải. 
Đến vị trí quan trọng như cửa sông, cửa biển, đoàn 
thuyền dừng lại để tiến hành nghi lễ rước thần với sự 
tham gia của đội Bả trạo. Nghi lễ kéo dài chừng 20 - 30 
phút thì xong, cả đoàn thuyền nô nức rước thần Nam 
Hải về đình/lăng Ông của làng mình trong tiếng hò 
điệu múa Bả trạo hòa cùng tiếng sóng, âm vang cả 
một vùng trời biển bao la. Đội Bả trạo cùng đám rước 
thành kính đưa bài vị thần Nam Hải từ biển khơi về 
đến lăng Ông trong sự tôn kính của ngư dân trong 
làng. Đến nơi, người ta làm lễ tế thần và ngay sau đó, 
đội Bả trạo trình diễn trước hương án để cúng thần 
(cá Ông). Cuộc trình diễn kéo dài khoảng 1 - 3 giờ tùy 
theo từng địa phương và bao giờ cũng kết thúc bằng 
việc cầu mong Ông phù hộ cho những chuyến đi biển 
bình yên, mùa cá bội thu và phước lành cho dân làng. 
Sau phần hò Bả trạo thường có diễn tuồng để cúng 
Ông và để nhân dân trong làng cùng thưởng thức. 
Đối với ngư dân, Cầu ngư là lễ hội bắt buộc phải 
được tổ chức hàng năm, nếu không thì “thất lễ” với 
thần thánh, sẽ không được thần thánh phò trợ. Ở một 
số nơi, người dân “xin” thần cứ 2, 3 hoặc 5 năm một 
lần tổ chức cuộc lễ một cách quy củ, đầy đủ, trong đó 
có trình diễn hò Bả trạo. Còn vào những năm khác, 
các bô lão vẫn phải đến lăng/miếu/đình làm lễ một 
cách đơn giản. Vào những kỳ lễ lớn, bao giờ cũng phải 
mời đội Bả trạo. Chúng tôi hỏi lão ngư Lê Bé (xã Cẩm 
Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) - người 
trong ban tổ chức lễ Cầu ngư năm 2016 - rằng lễ Cầu 
ngư không có hò Bả trạo được không, ông xua tay: 
“Không được, phải có hò Bả trạo để cúng Ông chớ, 
truyền thống từ bao đời, nay phải giữ”.8 
Đội Bả trạo đi thuyền ra biển rước thần Nam Hải.
Ảnh: Khánh Hào.
41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Như thế, hò Bả trạo là một thành phần không thể 
thiếu trong lễ Cầu ngư, thể hiện ước vọng của ngư 
dân về một mùa biển dồi dào, bình an và lòng biết ơn 
đối với các thần linh đã giúp mình trong cuộc mưu 
sinh đầy hiểm nguy trên biển. 
3. Hò Bả trạo - chuyến hành trình trên biển
Xét về nội dung, diễn xướng hò Bả trạo kể về một 
chuyến đi biển với các tình tiết diễn ra mang tính hiện 
thực khá cao. Dù có nhiều dị bản khác nhau theo từng 
địa phương và theo mục đích, nội dung nghi lễ9, song 
hò Bả trạo nhìn chung có cấu trúc như sau: 
Phần mở đầu: đội Bả trạo tiến vào trước hương án, 
thực hiện bước lễ tế cáo thần linh, phần này còn có 
nội dung giới thiệu lý do diễn ra hò Bả trạo. 
Bản Long thần Bả trạo ca ở Quảng Nam có đoạn 
sau đây nằm trong phần mở đầu:
Nay ta vâng Thiên đình lịnh dạy,
Truyền Đà trưởng thiên hành,
Nay tới ngày từ tế siêu sanh
Ngươi cấp soạn Long thuyền chính túc.
Chốn Phật hải rước người thủy tộc
Nơi Thiên đường đưa tới liên hoa 
Như thế, ta biết rằng bản tuồng hò Bả trạo này 
được trình diễn trong lễ tế cá Ông định kỳ.
Bản tuồng hò Bả trạo thu thập được ở lăng Lương 
Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa 
lại có những câu cho biết hò Bả trạo diễn ra trong dịp 
lễ khánh thành tu sửa miễu/lăng mới:
Đêm nay các thợ kinh thành
Sửa sang lăng miễu giữ gìn đèn hương
Nay lập thành lăng mới
Thỉnh Trạo phu làm lễ ca ngâm 
Trong phần này thường có nội dung ca ngợi công 
đức thần Nam Hải khi đội Bả trạo vái lạy trước án thờ 
thần. 
Trên thánh thần chứng dám
Dưới làng Lạch [lạch] cuối [cúi] đầu
Tràng Bả Trạo đến hầu
Nghinh ông vào bái yết
(Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh 
Trường, thành phố Nha Trang)
Lớp 1: Hành trình trên biển. Đây có thể là sự mô tả 
hiện thực chuyến đi đánh cá trên biển của ngư dân 
hay là cảnh ngư dân rước Ông về đình/lăng của làng 
mình, hoặc có khi đó là con thuyền Bát nhã rước Ông 
về chốn Phật đài. 
Đồng lòng cất giọng hò khoan
Rước thần Nam Hải đưa sang Phật đài 
(Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh 
Quảng Nam)
Có những đoạn tả các sinh hoạt lao động của ngư 
dân ngoài biển khơi:
Trước mũi gát [gác] mõ [mỏ] neo
Sau phan công coi mà tát nước
Anh em lo giữ trước
Sau lái để mặc ta hảo a ...
(Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh 
Trường, thành phố Nha Trang)
Lớp 2: Đêm khuya, mọi người đã ngủ. Tổng thương 
thức canh, tát nước và hát những bài tự sự.
Như tôi quê ngụ chốn làng cựu An Lương,
Mỗ danh xưng Tổng Thương
Tánh đã thiệt không hề nói phách
Tôi lại có cái tài
Tài lại hay giữ việc cầm gàu
Việc nước non, ngày tháng dồi trau
Cơn dông tố ngày vui nhấm nhí
Vừa gặp lúc đêm khuya vắng vẻ
Nhìn trong thuyền ngó cũng quạnh hiu
Buồn cha chả là buồn 
(Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh 
Quảng Nam)
Tôi tát nước rồi tôi nghĩ tôi buồn
Tôi ngâm một đôi câu tôi chơi à 
Chòm mây phú quý khi tan hợp
Ngọn sóng văn minh lúc bọt bồng 
42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
(Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh 
Trường, thành phố Nha Trang)
Lớp 3: Dông gió nổi lên, con thuyền chao đảo, ngư 
dân hợp sức lèo lái con thuyền, cầu khấn cá Ông cứu 
thuyền khỏi hiểm nguy.
Mây kéo phủ khói lang
Mói sóng bổ ngang
Giông ra mù mịt
Âu là mau mau đến trước thăm neo
Chong chóng lui sau thưa chú tổng
Giông bớ chú tổng giông
...
Trực khứ qua miền bắc hải
Quý không sao đâu anh em ôi
Có lòng thành Ông độ biển đông
(Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh 
Trường, thành phố Nha Trang)
Lớp 4: Dông bão đã tan, ngư dân lui thuyền về bến 
trong niềm cảm tạ đối với cá Ông.
Nước săn rồi lại nước êm
Hết cơn bỉ cực tới điềm thái lai 
Điềm thái lai không mai thì mốt
Cá được mùa đáy chốt no nê
...
Đức Ông có tiếng nhân từ
Sắc vua phong tặng công tư phụng thờ
(Bản Long thần Bả trạo ca, thành phố Hội An, tỉnh 
Quảng Nam)
Từ nội dung cơ bản này, các đội Bả trạo ở các địa 
phương đã sáng tạo nên các dị bản, tạo nên sự đa 
dạng trong nội dung trình diễn hò Bả trạo ở vùng 
Nam Trung Bộ. Đây được xem như là một vở diễn kể 
về hành trình của một chuyến đi biển, từ lúc thuyền 
ra khơi, gặp dông tố, vượt qua gió bão và trở về bờ 
bình yên với niềm vui được mùa. Vở diễn kết thúc 
bằng việc cầu xin thần Nam Hải phù hộ cho dân làng.
Như vậy, có thể thấy nội dung hò Bả trạo thấm 
đẫm tâm thức biển của những người ngư dân. Toàn 
bộ phần trình diễn này đều gắn liền với biển, đó 
chính là cuộc sống của họ, nơi ấy cung cấp nguồn 
sống cho cả cộng đồng, cũng là nơi chứa đầy hiểm 
nguy. Thông qua hò Bả trạo, ngư dân kể cho chúng ta 
biết về những hoạt động của họ trên biển cũng như 
những tâm tư, tình cảm của họ với biển cả bao la:
Khiển lái giữa dòng biển thẳm
Gió thuận buồm mấy dặm xa xa
Mênh mông một dải ngân hà
Thuyền lan tách dậm quê nhà càng trông
(Bổn tuồng hò Bả trạo của đình Trường Tây, 
phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang) 
4. Tri thức dân gian về biển trong hò Bả trạo
Nhận thức về biển của ngư dân còn được thể hiện 
qua tri thức, kinh nghiệm có được sau quá trình lâu 
dài mưu sinh trên biển. Đó là kinh nghiệm đối phó với 
giông tố trên biển. Khi trời nổi dông, tổng lái hỏi tổng 
thương: “Bớ tổng thương! Vậy chớ dòng gió phía nào 
vậy ngươi ?” Khi nghe báo mây bay về phía đông 
nam, gió thổi từ hướng tây bắc, bằng kinh nghiệm, 
tổng lái kết luận: “Vậy giông ngoài đó ngươi không 
có chi mô mà ngươi lo sợ”, rồi chỉ huy mọi người 
cùng vượt qua cơn dông tố.
Tri thức dân gian ở đây cũng có thể là kinh nghiệm 
xem phương trời, đón hướng gió khi lênh đênh trên 
biển: 
Tổng lái: Nghe ta dặn giương bườm [buồm] phải coi 
gió
Cầm lái phải xem sao...
(Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh 
Trường, thành phố Nha Trang)
 Quan sát các hiện tượng thiên nhiên, ngư dân có 
thể có thêm kinh nghiệm về các quy luật thời tiết: 
Bóng trăng vừa đã qua đầu
Bóng trăng dọi trước nắng lâu mấy hồi
(Bổn tuồng lăng Lương Hải, thị trấn Vạn Giã, huyện 
Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa)
Những tri thức ấy chỉ có thể được đúc rút sau 
nhiều năm tiếp xúc với biển cả chứ không thể có 
được trong ngày một ngày hai. Nội dung hò Bả trạo 
chứng minh rằng ngư dân hiểu biết sâu sắc về biển, 
hiểu từng ngọn gió, con nước để có thể ứng phó với 
bất trắc và khai thác tốt nguồn lợi hải sản. 
43Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
5. Tâm thức về biển trong nghệ thuật diễn 
xướng hò Bả trạo
Nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo được thể hiện 
một cách phù hợp với các nội dung tư tưởng như vừa 
nêu, có thể được tìm thấy ở các khía cạnh dưới đây.
Ở phần mở đầu, các ông tổng và con trạo phải 
thực hiện nghi lễ thắp hương khấn vái trước bàn thờ 
cá Ông với ý nghĩa cuộc trình diễn sắp diễn ra là để 
dâng cúng Ông - vị phúc thần của biển cả. Đây là một 
thủ tục bắt buộc, cho thấy trình diễn hò Bả trạo gắn 
liền với văn hóa biển. 
Trong phần trình diễn chính, đội hình múa Bả trạo 
sắp theo dạng một con thuyền đang thực hiện một 
chuyến hành trình trên biển. Các con trạo tay cầm 
đạo cụ là mái chèo và hầu như chỉ thực hiện một 
động tác duy nhất là chèo thuyền. Các ông tổng cũng 
dùng các đạo cụ gắn với con thuyền: tổng lái cầm 
một mái chèo lớn, tổng thương cầm gàu tát nước và 
cần câu. Tất cả các nhân vật phối hợp nhịp nhàng với 
nhau, cùng lắc lư di chuyển tại chỗ như trên một con 
thuyền đang bập bềnh cưỡi sóng. 
Về mặt âm nhạc, hò Bả trạo sử dụng một số điệu 
hò biển của ngư dân Nam Trung Bộ như hò Kéo neo ở 
Quảng Nam, hò Giựt chì ở Quảng Ngãi, hò Mái ngơi, 
hò Mái dặm ở Khánh Hòa... 
Thuyền trình vào lộng ra khơi
Sông sâu sóng cả biển ngời nước săng.
 (Hò Kéo neo, tỉnh Quảng Nam)
Ra đi sóng biển mịt mù
Trời cho lưới nặng dô hò ta kéo lên. 
 (Hò Giựt chì, tỉnh Quảng Ngãi)
Ngoài ra, còn có các điệu lý tát nước, vè tên cá ở 
Khánh Hòa. Những điệu hát dân gian này gắn liền với 
văn hóa biển, thể hiện tình cảm sâu nặng của ngư 
dân đối với biển cả yêu thương.
Nhìn chung, nghệ thuật diễn xướng của hò Bả 
Đội Bả trạo làm lễ trước khi diễn xướng. Ảnh chụp trong lễ Cầu ngư ở xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ngày 
18.3.2016. Ảnh: Phan Thuận Thảo
44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
trạo thể hiện rõ truyền thống ra khơi đánh cá của ngư 
dân duyên hải Nam Trung Bộ. Đó là một truyền thống 
lâu đời, từ thực tại cuộc sống được đúc kết lại trong 
nghệ thuật diễn xướng hò Bả trạo. Cuộc diễn xướng 
kéo dài 1 - 3 giờ với hình thức, động tác, đội hình lặp 
đi lặp lại như thế khẳng định rõ tính chất biển của 
cuộc trình diễn, thể hiện tâm thức về biển của cộng 
đồng ngư dân nơi đây.
6. Thay lời kết
Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống, song không 
phải bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong cuộc 
sống cũng được đưa vào nghệ thuật. Một hiện tượng 
trong cuộc sống được khái quát hóa, được đúc kết 
thành nghệ thuật khi nó có ý nghĩa nhất định nào đó 
trong tâm thức của con người. Đối với cư dân duyên 
hải Nam Trung Bộ, từ bao đời nay, biển chính là cuộc 
sống của họ. Họ sinh ra đã nghe tiếng sóng biển, lớn 
lên từ biển, kiếm ăn và nuôi sống gia đình từ biển. 
Nghề cá từ lâu đã là nguồn sống của cư dân nơi đây. 
Thực tế đó đã tác động vào tình cảm và ý thức của 
bao thế hệ người dân và ăn sâu vào tiềm thức của họ 
để từ đó, họ đã sáng tạo ra nghệ thuật diễn xướng hò 
Bả trạo để dâng cúng thần biển thông qua việc thể 
hiện hiện thực cuộc mưu sinh trên biển của bản thân 
và cộng đồng. 
Đến nay, dù phương tiện thuyền bè, máy móc đã 
hiện đại hơn xưa, giúp ngư dân tránh bớt rủi ro trước 
phong ba bão táp, những tiến bộ của khoa học cũng 
đã giải thích được những hiện tượng tự nhiên, song 
niềm tin về sự giúp đỡ, phù hộ của cá Ông vẫn còn đó 
trong tâm thức của cư dân duyên hải. Do đó, họ vẫn 
duy trì các cuộc lễ Cầu ngư và diễn xướng hò Bả trạo. 
Theo định kỳ, ngư dân tự nguyện góp tiền của, công 
sức tổ chức lễ tế trang trọng, trong đó có trình diễn 
hò Bả trạo để dâng cúng cá Ông. Nghệ thuật diễn 
xướng hò Bả trạo sẽ không mất đi khi mà niềm tin 
của con người vẫn còn đó với thời gian.
Ngày nay, vấn đề biển đảo nổi lên bức bách trong 
đời sống chính trị quốc gia, khu vực và quốc tế, việc 
nghiên cứu về văn hóa biển cũng trở nên cấp thiết. Các 
nhà nghiên cứu đã bước đầu thống kê các loại hình 
di sản văn hóa biển gồm di sản vật thể và phi vật thể, 
trong đó văn hóa phi vật thể được kể đến gồm: “Đó 
là kinh nghiệm sống và làm ăn của cư dân biển, đảo 
được truyền lại từ nhiều thế hệ, bao gồm kỹ thuật chế 
tạo công cụ, phương tiện đi lại trên biển, hệ tri thức về 
thời tiết biển, về ngư trường, luồng lạch. Đó là nghệ 
thuật bảo quản, chế biến hải sản, các phương thuốc 
chữa trị dân gian của cư dân biển đảo bằng những 
nguyên vật liệu từ biển và ở các vùng ven biển, hải 
đảo Trong các di sản phi vật thể, lễ hội là một sáng 
tạo văn hóa đặc sắc”.10 Thiết nghĩ nghệ thuật diễn 
xướng hò Bả trạo, cũng như các loại hình nghệ thuật 
trình diễn khác liên quan đến biển, cũng cần được 
chú trọng như một thành tố văn hóa phi vật thể của 
văn hóa biển đảo, bởi nó thể hiện tâm thức về biển 
của người dân duyên hải Nam Trung Bộ, góp phần 
khẳng định văn hóa hướng biển của người dân Việt.
Câu chuyện được kể trong hò Bả trạo về một 
chuyến đi biển ngoài khơi xa là một bằng chứng nữa 
chứng minh rằng người Việt đã khai thác, đánh bắt 
hải sản trong ngư trường của mình hàng trăm năm 
nay. Họ chính là chủ sở hữu của vùng biển này. Dù 
trước đây người Việt chưa có phương tiện tàu thuyền 
lớn, trang bị máy móc hiện đại để đánh bắt xa bờ 
như ngày nay, song qua nội dung câu chuyện được 
kể trong hò Bả trạo, chúng ta biết được ngư dân Việt 
ngày xưa đã có những giao tiếp trên thực tế với cá voi 
mà họ suy tôn là thần Nam Hải, chứng tỏ họ đã vươn 
ra đến đại dương xa xôi, nơi có cá voi sinh sống. 
Hiện nay, những tranh chấp trên Biển Đông đang 
ảnh hưởng không nhỏ đến những chuyến đánh bắt 
xa bờ của ngư dân Việt Nam. Hiện tượng xảy ra khá 
thường xuyên là ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc 
tấn công, cướp phá, thậm chí bị bắn, bị đuổi khỏi ngư 
trường của mình. 
Nhà nước Việt Nam với sự hợp lực của các nhà 
nghiên cứu văn hóa - lịch sử đã và đang tìm kiếm 
những bằng chứng chứng minh chủ quyền biển đảo 
của quốc gia. Chúng tôi cho rằng hiện tượng văn hóa 
biển hằn sâu trong tâm thức của cư dân Việt và thể 
hiện trong hò Bả trạo bằng câu chuyện đánh cá ngoài 
khơi xa cũng là một bằng chứng nữa chứng minh cho 
chủ quyền trên biển của người Việt Nam. Nội dung 
hò Bả trạo chứng minh cho truyền thống đánh bắt xa 
bờ của ngư dân Việt. Truyền thống đó đã tồn tại từ lâu 
đời, đã ăn sâu vào tâm thức của người dân và được 
thể hiện qua việc thờ cúng cá voi và nghệ thuật diễn 
xướng hò Bả trạo. Không ai có thể lấy mất ngư trường 
của ngư dân Việt, nó thuộc về chủ quyền của họ và 
gắn liền với cuộc sống của họ từ bao đời nay. Vấn đề 
này cần được nhận diện và phát huy trong việc đấu 
tranh cho chủ quyền lãnh hải của Việt Nam hiện nay.
P.T.T. 
45Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
cHÚ THÍcH
1 Tùy theo địa phương mà có thể có 3 hoặc 4 ông tổng, 
tên gọi của các ông tổng cũng có thể khác nhau theo từng 
địa phương.
2 Tức thuyền đi và về từ bãi biển chứ không qua cửa 
biển. 
3 Vũ Hoài An, “Hải thần trong tín ngưỡng người Hoa ở 
Hội An”, Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Số 50/2014, 41 
- 46.
4 - Truyện cổ dân gian Chăm, (Hà Nội: Văn hóa Dân tộc, 
2000), 59 - 62.
 - Đình Hy, Văn hóa xã hội cư dân vùng biển tỉnh Bình 
Thuận, (Hà Nội: Thanh niên), 80 - 81.
5 - Nhiều tác giả, Tập tục lễ hội đất Quảng, (Hà Nội: Lao 
động, 2011), tập 3, 622. 
 - Trần Sỹ Huệ, Đất Phú Trời Yên, (Hà Nội: Lao động, 
2011), 381. 
 - Đình Hy, Văn hóa xã hội cư dân vùng biển Bình Thuận, 
(Hà Nội: Thanh niên, 2011), 84.
6 Những chữ nằm trong ngoặc vuông là do tác giả bài 
viết thêm vào với mục đích bổ khuyết cho chữ đứng trước 
có trong nguyên bản.
7 Trò chuyện với các thành viên đội Bả trạo tại đình 
Trường Đông, làng Cửa Bé, thành phố Nha Trang, tỉnh 
Khánh Hòa ngày 30.3.2015.
8 Phỏng vấn lão ngư Lê Bé tại lăng Ông, xã Cẩm Thanh, 
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, ngày 17.3.2016.
9 Cũng là thờ cá Ông, nhưng nội dung hò Bả trạo trong 
lễ cúng tế hàng năm khác với lễ đưa tang cá Ông, và cũng 
khác với lễ khánh thành lăng Ông Tuy vậy, quá trình 
nghiên cứu điền dã tại các tỉnh Nam Trung Bộ cho chúng 
tôi thấy rằng nội dung diễn xướng hò Bả trạo có những nét 
tương đồng.
10 Vũ Minh Giang, “Văn hóa biển đảo Việt Nam”, Xưa & 
Nay, Số 455, tháng 1/2015, 5.
TÀI lIỆU THaM KHẢo
I. Tài liệu viết
1. Vũ Hoài An. “Hải thần trong tín ngưỡng người Hoa 
ở Hội An”, Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số 50/2014, 
41 - 46.
2. Lê Đình Chi, Hình Phước Liên, Lê Huy Trâm, Nguyễn 
Hữu Thu. 2013. Khảo sát tục hát Ca công, hát Trống quân và 
hò Bá trạo. Hà Nội: Văn hóa Thông tin. 
3. Vũ Minh Giang. “Văn hóa biển đảo ở Việt Nam”. Xưa & 
Nay. Số 455 (1)/2015, 3 - 6. 
4. Thanh Hoàng, “Mối liên hệ văn hóa giữa người Chăm 
với người Việt”. www.hdvvn.vn. Truy cập ngày 8.5.2016.
5. Trần Hồng. 2010. Hát Bả trạo. Hà Nội: Sân khấu.
6. Trần Sỹ Huệ. 2011. Đất Phú Trời Yên. Hà Nội: Lao động.
7. Đình Hy. 2011. Văn hóa xã hội cư dân vùng biển Bình 
Thuận. Hà Nội: Thanh niên.
8. Nhiều tác giả. 2011. Tập tục lễ hội đất Quảng. Hà Nội: 
Lao động. Tập 3. 
9. Nhiều tác giả. 2012. Văn hóa biển đảo Khánh Hòa. Kỷ 
yếu hội thảo, Nha Trang: UBND tỉnh Khánh Hòa.
10. Nam Yên, “Tục thờ thần sóng biển Po Riyak của 
người Chăm”, www.thoidai.com.vn. Truy cập ngày 8.5.2016.
II. Các kịch bản
11. Long thần Bả trạo ca (Bài chèo Ông) do nghệ nhân 
Phạm Đúng ở xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng 
Nam cung cấp.
12. Bài Ông, bản của ông Nguyễn Mè, thành phố Hội An, 
tỉnh Quảng Nam.
13. Bổn chèo đình Trường Đông, phường Vĩnh Trường, 
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
14. Bổn tuồng hò Bả trạo của đình Trường Tây, phường 
Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
15. Bổn tuồng hò Bả trạo của lăng Lương Hải, thị trấn 
Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
16. Nghi lễ hát Bả trạo (chèo thuyền) của ngư dân biển 
miền Trung, PGS.TS. Đỗ Thị Hảo phiên âm và chú thích, Hà 
Nội, tháng 9.2007. Tài liệu do nhóm nghệ nhân Bả trạo ở 
Phú Yên cung cấp.
III. Tài liệu điền dã
17. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở đình Trường Đông, Cửa 
Bé, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, ngày 11 tháng 2 
năm Ất Mùi. 30.3.2015.
18. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở thôn Tuyết Diêm, xã Bình 
Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 15 tháng 2 
năm Ất Mùi. 03.4.2015.
19. Lễ Cầu ngư và Hò Bả trạo ở Cửa Đại, thành phố Hội 
An, tỉnh Quảng Nam, ngày 16 tháng 2 năm Ất Mùi. 4.4.2015.
20. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở thôn Vạn Lăng, xã Cẩm 
Thanh, Hội An, Quảng Nam, ngày 10 tháng 2 năm Bính 
Thân (18.3.2016).
21. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở lăng ông Nam Hải, xã 
Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, ngày 15 
tháng 3 năm Bính Thân. 21.4.2016.
22. Lễ Cầu ngư và hò Bả trạo ở lăng Ông xã Đại Lãnh, 
huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, ngày 16 tháng 3 năm 
Bính Thân. 22.4.2016. 

File đính kèm:

  • pdftam_thuc_ve_bien_trong_ho_ba_trao_o_nam_trung_bo.pdf