Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu

Tóm tắt: Biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm

trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nhân loại. BĐKH không

chỉ là vấn đề môi trường, mà còn là mối đe dọa toàn diện, ảnh hưởng đến sức

khỏe con người, đến tình hình cung cấp lương thực toàn cầu, vấn đề di dân và

đe dọa nền hòa bình, an ninh thế giới. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đã thành

lập các tổ chức để chỉ đạo và điều phối các hoạt động, xây dựng các chương

trình, chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với BĐKH. Một

trong những yếu tố quan trọng hiện nay là việc huy động có hiệu quả các

nguồn lực tài chính ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí

hậu (CF). Bài viết tập trung phân tích những vấn đề về biến đổi khí hậu toàn

cầu; CF và CF ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

pdf 10 trang phuongnguyen 9260
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu

Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu
Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
 31
TÀI CHÍNH CHO ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
KIM NGỌC* 
PHƯƠNG THANH THỦY** 
Tóm tắt: Biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm 
trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nhân loại. BĐKH không 
chỉ là vấn đề môi trường, mà còn là mối đe dọa toàn diện, ảnh hưởng đến sức 
khỏe con người, đến tình hình cung cấp lương thực toàn cầu, vấn đề di dân và 
đe dọa nền hòa bình, an ninh thế giới. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đã thành 
lập các tổ chức để chỉ đạo và điều phối các hoạt động, xây dựng các chương 
trình, chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với BĐKH. Một 
trong những yếu tố quan trọng hiện nay là việc huy động có hiệu quả các 
nguồn lực tài chính ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí 
hậu (CF). Bài viết tập trung phân tích những vấn đề về biến đổi khí hậu toàn 
cầu; CF và CF ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam. 
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, tài chính khí hậu. 
1. Biến đổi khí hậu toàn cầu 
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đến 
nay, sự tăng trưởng của nền kinh tế thế 
giới đã làm thay đổi diện mạo của hàng 
trăm quốc gia trên toàn cầu. Tuy nhiên, 
đi kèm với đó là những tác động của 
BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến 
sự phát triển của toàn cầu. Để giải quyết 
những vấn đề toàn cầu, không gì khác là 
phải tìm kiếm các mô hình tăng trưởng 
mới, trong đó có mô hình tăng trưởng 
xanh. Chương trình môi trường Liên Hợp 
Quốc (UNEP) đã đưa ra một hướng tiếp 
cận mới cho phát triển kinh tế được 
nhiều quốc gia đồng tình hưởng ứng, đó 
là phát triển nền kinh tế xanh. Phát triển 
kinh tế xanh là chìa khóa đảm bảo duy trì 
tăng trưởng kinh tế, giảm hiểm họa môi 
trường và sinh thái, đồng thời cải thiện 
cuộc sống con người và công bằng xã 
hội. Tại các Hội nghị hàng năm của Liên 
Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, tăng 
trưởng xanh đã trở thành một nội dung 
được quan tâm đặc biệt.(*)Một trong 
những cơ sở của tăng trưởng xanh chính 
là việc huy động một cách hiệu quả các 
nguồn lực tài chính ứng phó với BĐKH. 
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, 
BĐKH Trái Đất là sự thay đổi của hệ 
thống khí hậu gồm khí quyển, thủy 
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại 
và trong tương lai bởi các nguyên nhân 
tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn 
nhất định tính bằng thập kỷ hay hàng 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học 
xã hội Việt Nam. 
(**) Thạc sĩ, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 32
triệu năm. Sự biển đổi có thể là thay đổi 
thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân 
bố các sự kiện thời tiết quanh một mức 
trung bình. Sự biến đổi khí hậu có thể 
giới hạn trong một vùng nhất định hay 
có thế xuất hiện trên toàn Địa Cầu. 
Trong những năm gần đây, đặc biệt 
trong ngữ cảnh chính sách môi trường, 
biến đổi khí hậu thường đề cập tới sự 
thay đổi khí hậu hiện nay, được gọi 
chung bằng hiện tượng nóng lên toàn 
cầu. Nguyên nhân chính làm biến đổi 
khí hậu Trái Đất là do sự gia tăng các 
hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà 
kính (các khí carbon dioxide - CO2, 
methane - CH4, nitrous oxide - N2O, 
hydrofluocarbons -HFCS, perfluorocarbons- 
PFCS, sulphur hexafluoride-SF6 có mặt 
trong khí quyển cản trở quá trình tỏa 
nhiệt của bề mặt trái đất (được hấp thụ 
từ mặt trời) ra không trung làm trái đất 
ấm lên, các hoạt động khai thác quá mức 
các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính 
như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái 
biển, ven bờ và đất liền khác. 
Theo Công ước khung của Liên Hợp 
Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), 
BĐKH là sự thay đổi của khí hậu do tác 
động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt 
động con người dẫn đến thay đổi thành 
phần khí quyển toàn cầu, được quan sát 
trên một chu kỳ thời gian dài. 
Từ giữa thế kỷ XX, đặc biệt từ năm 
1980 trở lại đây, hoạt động của con 
người làm gia tăng nồng độ khí nhà kính 
trong khí quyển dẫn đến nhiệt độ trái đất 
tăng lên (sự nóng lên toàn cầu). Sự nóng 
lên toàn cầu là rất rõ ràng với những 
biểu hiện của sự tăng nhiệt độ không 
khí và đại dương, sự tan băng diện rộng 
và qua đó là tăng mực nước biển trung 
bình toàn cầu. Trong 100 năm (1906 - 
2005), nhiệt độ trung bình toàn cầu đã 
tăng khoảng 0,740C, tốc độ tăng của 
nhiệt độ trong 50 năm gần đây gấp đôi 
so với 50 năm trước đó. Ủy ban liên 
Chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên 
Hợp Quốc (UNIPCC) chỉ ra rằng nhiệt 
độ trái đất vào cuối thế kỷ XXI có thể 
sẽ tăng từ 1,10C đến 6,40C. Biến đổi khí 
hậu là một trong những thách thức lớn 
nhất đối với nhân loại, sẽ tác động 
nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và 
môi trường trên phạm vi toàn thế giới. 
Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng gây 
ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, 
ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro 
lớn đối với công nghiệp và các hệ 
thống kinh tế - xã hội trong tương lai. 
Vấn đề biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ 
làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá 
trình phát triển và an ninh toàn cầu như 
năng lượng, nước, lương thực, xã hội, 
việc làm, v.v.. 
Trước những diễn biến phức tạp và 
nguy cơ của biến đổi khí hậu, tại Hội 
nghị Thượng đỉnh Trái đất, tổ chức tại 
Rio de Janeiro, Braxin tháng 5 năm 
1992, nguyên thủ quốc gia của 155 nước 
trên thế giới đã ký Công ước khung của 
Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu làm 
cơ sở cho nỗ lực chung ứng phó với 
biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Năm 
1997, Hội nghị các bên tham gia 
Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
 33
UNFCCC lần thứ 3 họp tại Kyoto (Nhật 
Bản) đã ký kết Nghị định thư về cắt 
giảm khí nhà kính (gọi tắt là Nghị định 
thư Kyoto). Ngày 16 tháng 02 năm 
2005, Nghị định thư Kyoto chính thức 
có hiệu lực. Theo đó, 36 nước công 
nghiệp phát triển và các nước có nền 
kinh tế chuyển đổi, được yêu cầu phải 
cắt giảm phát thải khí nhà kính. Mỹ là 
nước có tổng lượng phát thải khí nhà 
kính đứng thứ 2 thế giới (sau Trung 
Quốc), không phê chuẩn Nghị định thư 
Kyoto. Trung Quốc, Braxin và Ấn Độ là 
những nước có tổng lượng phát thải khí 
nhà kính lớn nhưng không bị ràng buộc 
phải cắt giảm khí nhà kính. 
Mặc dù Công ước khung của Liên 
Hợp Quốc về biến đổi khí hậu ra đời đã 
được hơn 20 năm, Nghị định thư Kyoto 
có hiệu lực đã được 8 năm, nhưng kết 
quả đạt được vẫn còn hạn chế, mục tiêu 
giảm 5,2% so với mức phát thải năm 
1990 trong giai đoạn 2008 - 2012 không 
những không đạt được mà theo đánh giá 
sơ bộ của Cơ quan năng lượng quốc tế 
(IAEA) công bố tháng 5/2012, phát thải 
khí nhà kính đã đạt mức cao kỷ lục lên 
đến 31,6 tỉ tấn trong năm 2011, gấp gần 
1,5 lần so với năm 1990, tăng 3,2% so 
với năm 2010. Điều đó có nghĩa là biến 
đổi khí hậu sẽ diễn ra mạnh hơn so với 
các cảnh báo trước đây. 
 2. Tài chính khí hậu - chìa khóa 
cho ứng phó biến đổi khí hậu, thúc 
đẩy tăng trưởng xanh 
 Tăng trưởng xanh là xu thế không 
thể đảo ngược, nhưng cũng là mục tiêu 
đầy tham vọng đòi hỏi có sự đầu tư lớn 
về tiền bạc và công nghệ. Tài chính khí 
hậu chính là một kênh đặc biệt quan 
trọng, là chìa khóa trong việc thúc đẩy 
chiến lược tăng trưởng xanh trên thế 
giới hiện nay. Để ứng phó với biến đổi 
khí hậu, các Hội nghị Liên hợp quốc về 
biến đổi khí hậu (COP17 năm 2011, 
COP18 năm 2012) đều thống nhất: thúc 
đẩy cơ chế tài chính công phục vụ cho 
ứng phó biến đổi khí hậu. Theo 
UNIPCC, chi phí của việc giảm 50% 
lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu 
vào năm 2050 sẽ chiếm khoảng 1 đến 
3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn 
cầu. Vì vậy, việc huy động tài chính cho 
các hành động nhằm giảm phát thải và 
ứng phó với biến đổi khí hậu có vai trò 
rất quan trọng. Vấn đề tìm kiếm các 
nguồn lực tài chính mới, huy động các 
nguồn tài chính công và sử dụng các 
nguồn đó làm đòn bẩy nhằm đạt được 
mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 
(GHG) sẽ là bài toán đặt ra đối với các 
chính phủ. 
Trong giai đoạn 2010 - 2012, nguồn 
CF huy động được khoảng 30 tỷ USD. 
UNFCCC dự kiến, các nước đang phát 
triển cần nguồn tài chính vào khoảng 60 
tỷ USD cho giai đoạn 2013 - 2015 để 
triển khai các dự án năng lượng sạch và 
đến năm 2030, toàn cầu sẽ cần 200 đến 
210 tỷ USD đầu tư bổ sung hàng năm để 
đáp ứng các mục tiêu giảm GHG. Tài 
chính công cho ứng phó biến đổi khí 
hậu sẽ giúp trang trải các chi phí tăng 
thêm và đóng vai trò như chất xúc tác để 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 34
thúc đẩy đầu tư cho phát triển, nâng cao 
chất lượng các chính sách. Trước hết, 
phần lớn nguồn lực này sẽ được sử dụng 
để thiết lập hoặc mở rộng cơ chế tài 
chính công hiện có cho đàm phán biến 
đổi khí hậu. Những cơ chế tài chính 
công này khác nhau về cấu trúc và trọng 
tâm, nhưng tất cả đều tìm cách huy động 
tài trợ thương mại và xây dựng thị 
trường thương mại bền vững cho các 
hoạt động giảm GHG. Các cơ chế tài 
chính công cho giảm thiểu biến đổi khí 
hậu, gồm: 
- Dòng tín dụng cho các định chế tài 
chính thương mại (CFI) địa phương; 
- Bảo lãnh để chia sẻ với các CFI địa 
phương rủi ro tín dụng thương mại cho 
vay đối với các dự án và công ty; 
- Nợ tài chính của các dự án theo các 
chủ thể khác ngoài CFI; 
- Các quỹ cổ phần tư nhân (PE) đầu 
tư vốn rủi ro của các công ty và dự án; 
- Các quỹ đầu tư mạo hiểm (VC), vốn 
đầu tư rủi ro trong đổi mới công nghệ; 
- Quỹ tài chính carbon; 
- Viện trợ và các khoản dự phòng để 
chia sẻ chi phí phát triển dự án, các 
khoản vay, huy động các nguồn vốn 
trong nước; 
- Các giải thưởng khuyến khích 
nghiên cứu và triển khai (R&D) hoặc 
phát triển công nghệ; 
- Hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng năng 
lực các bên liên quan. 
Một phần quan trọng nguồn tài chính 
công nhằm thúc đẩy đầu tư hiệu quả 
năng lượng (EE), đặc biệt là công nghệ 
năng lượng tái tạo (RE) khuyến khích 
đổi mới và phát triển công nghệ. Nếu 
được quản lý tốt, những cơ chế tài chính 
công có thể làm giảm các rào cản thị 
trường, khỏa lấp khoảng cách và chia sẻ 
rủi ro với khu vực tư nhân. Thêm nữa, 
cơ chế tài chính công cũng phải được 
cấu trúc theo chuỗi các trung gian tài 
chính, có thể bao gồm các tổ chức tài 
chính phát triển (DFI), các CFI, các nhà 
đầu tư, các nhà sản xuất thiết bị và các 
doanh nghiệp cung cấp công nghệ. 
Để cơ chế tài chính công hoạt động 
hiệu quả, cần có sự đánh giá chính xác 
các rào cản thị trường công nghệ và thị 
trường tài chính; phân đoạn thị trường 
mục tiêu; sử dụng và tăng cường năng 
lực hiện có trong cả chuỗi trung gian tài 
chính; xác định rõ các tiêu chí cho vay 
hoặc đầu tư cho các bên tham gia tài 
chính thương mại; xác định trách nhiệm 
của dự án dựa trên các phân tích rủi ro, 
kế hoạch tiếp thị và tập hợp thị trường; 
xây dựng kế hoạch các chương trình hỗ 
trợ kỹ thuật do khu vực công hoặc các 
nhà tài trợ hỗ trợ. 
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu chỉ 
huy động tài chính sẽ là không đủ mà 
cần phải có các giải pháp thị trường và 
những công cụ chính sách khác nữa. 
Đồng thời, việc đảm bảo tính minh bạch, 
hiệu quả và bình đẳng trong việc sử dụng 
vốn cũng là yếu tố quan trọng trong việc 
thúc đẩy cơ chế tài chính công phục vụ 
cho ứng phó biến đổi khí hậu. 
Vấn đề quan trọng của CF là việc tạo 
lập cơ chế huy động và giải ngân các 
Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
 35
nguồn vốn cho ứng phó biến đổi khí 
hậu. Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về 
biến đổi khí hậu (COP16) ở Cancun 
(Mêhico) năm 2010, hơn 190 quốc gia 
tham gia đã nhất trí đề xuất thành lập 
Quỹ Khí hậu xanh (GCF). Theo đó, 
GCF sẽ là kênh chủ yếu để huy động và 
giải ngân các khoản kinh phí dành cho 
ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. 
Các nước đang phát triển đều có khả 
năng tiếp cận đến nguồn vốn huy động 
qua GCF. Các quốc gia phát triển đã 
cam kết hình thành GCF, giai đoạn 2013 
đến năm 2020, ít nhất 100 tỷ USD của 
GCF sẽ được giải ngân mỗi năm để giúp 
các quốc gia đang phát triển chống và 
ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây được 
coi là nền tảng dài hạn trong nỗ lực huy 
động cho CF hiện nay. 
Quỹ Khí hậu xanh trị giá 100 tỷ USD 
được chính thức thành lập tại Hội nghị 
Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu 
(COP17) ở Durban (Nam Phi) năm 2011. 
Các quốc gia đã thông qua cơ cấu quản 
trị của GCF và kêu gọi sớm đưa Quỹ này 
đi vào hoạt động. GCF đã được chỉ định 
là “tổ chức của Công ước”, hoạt động 
theo hướng dẫn của COP và được quản 
lý bởi một Ban gồm đại diện của 24 
quốc gia (trong đó có 12 quốc gia đang 
phát triển và 12 quốc gia phát triển). 
GCF được kỳ vọng sẽ trở thành quỹ đa 
phương chính về biến đổi khí hậu. Một số 
các nhà tài trợ, bao gồm Úc, Đan Mạch, 
Đức, và Hàn Quốc, đã cam kết đóng góp 
tài chính để khởi động Quỹ, mặc dù các 
chính sách, thủ tục để đóng góp thêm cho 
Quỹ chưa được xác định. GCF là tổ chức 
tài chính khá linh hoạt, đặc biệt là việc 
tiếp cận nguồn tài chính được đơn giản 
hóa và cải tiến bao gồm việc tiếp cận trực 
tiếp, cũng như tạo điều kiện cho lĩnh vực 
tư nhân tiếp cận tài chính. 
Cái khó trong việc thúc đẩy các 
nguồn tài chính khí hậu như Quỹ Khí 
hậu xanh chính là việc xác định cơ chế 
giám sát các nguồn kinh phí này. Theo 
Liên Hợp Quốc, cần có cơ chế giám sát 
từ cả 2 phía, các nước nhận tài trợ có 
nhu cầu giám sát việc thực hiện cam kết 
của các nhà tài trợ, còn các nhà tài trợ 
thì muốn kiểm tra xem các khoản tiền 
đó có được sử dụng vào các dự án phù 
hợp và hiệu quả hay không. 
Tài chính dành cho ứng phó biến đổi 
khí hậu là nguồn lực để thúc đẩy các dự 
án của tăng trưởng xanh, như: phát triển 
năng lượng sạch, sử dụng năng lượng 
tiết kiệm và hiệu quả, các dự án tái chế, 
mua bán hạn ngạch khí thải, đánh thuế 
khí thải... Theo các nhà tài trợ quốc tế 
thì cần phát huy vai trò lớn hơn của khu 
vực tư nhân trong việc tìm kiếm nguồn 
kinh phí cho CF mà Quỹ Khí hậu xanh 
là chương trình quan trọng hàng đầu 
hiện nay. Bà Rachel Kyte, Phó Chủ tịch 
Ngân hàng Thế giới về Phát triển bền 
vững đánh giá: Chúng ta đang trong quá 
trình thiết kế Quỹ Khí hậu xanh. Cần 
thiết kế quỹ này sao cho các nguồn lực 
tư nhân có thể trở thành đòn bẩy cho các 
khoản đầu tư vào lĩnh vực biến đổi khí 
hậu. Trong bối cảnh việc tìm kiếm các 
nguồn CF đang có ít tiến triển, ưu tiên 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 36
trước mắt là duy trì hoạt động này thông 
qua các kênh khác nhau để không xảy ra 
tình trạng tê liệt các nguồn hỗ trợ cho 
hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu 
và tăng trưởng xanh. Điều mà Ngân 
hàng Thế giới cũng như các nhà tài trợ 
khác quan tâm hiện nay là làm sao để 
duy trì dòng vốn tiếp tục chảy vào các 
dự án biến đổi khí hậu. Rất nhiều dự án 
đang cần nguồn tài chính quan trọng 
này, trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở 
hạ tầng, làm sao để chúng ta đạt được 
tăng trưởng xanh và sạch. 
Ngoài GCF, các quốc gia đã thỏa 
thuận về một nguồn tài chính quan trọng 
cho thích ứng với biến đổi khí hậu trong 
tương lai. Tại COP17, Ủy ban Thích 
ứng đã được thành lập đi vào hoạt động, 
bao gồm 16 thành viên, có trách nhiệm 
báo cáo COP về việc tăng cường điều 
phối các hoạt động thích ứng với biến 
đổi khí hậu ở quy mô toàn cầu. Các 
quốc gia cũng thống nhất củng cố và 
tăng cường năng lực thích ứng với biến 
đổi khí hậu cho các nước nghèo và dễ bị 
tổn thương nhất. Kế hoạch thích ứng 
quốc gia (NAP) sẽ cho phép các nước 
đang phát triển đánh giá và giảm thiểu 
khả năng bị tổn thương bởi biến đổi khí 
hậu. Thỏa thuận của COP về NAP cho 
rằng quá trình thực hiện NAP không 
nhất thiết phải tuân theo hoặc sao chép 
các luật lệ mà nên tạo điều kiện thuận 
lợi cho các hoạt động của quốc gia, do 
quốc gia thực hiện và phù hợp với các 
ưu tiên quốc gia. COP17 cũng đưa ra 
các hướng dẫn cho NAP, chẳng hạn các 
bước chuẩn bị ban đầu, cách thức thực 
hiện, báo cáo, giám sát và rà soát. Tuy 
nhiên, tài chính cho thích ứng với biến 
đổi khí hậu vẫn còn là mối băn khoăn 
của các quốc gia, đặc biệt là trong bối 
cảnh cơ chế tài chính toàn cầu cho biến 
đổi khí hậu hiện nay. 
3. Tài chính khí hậu tại Việt Nam 
Những năm vừa qua, các cơ quan 
hoạch định chính sách và các nhà lãnh 
đạo Việt Nam đã thay đổi nhận thức về 
vấn đề biến đổi khí hậu. Hiện nay, biến 
đổi khí hậu được coi là một trong những 
thách thức nghiêm trọng nhất mà Việt 
Nam đang phải đối mặt. Nghị quyết Đại 
hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt 
Nam khẳng định biến đổi khí hậu sẽ ảnh 
hưởng nghiêm trọng tới Việt Nam. Ứng 
phó với biến đổi khí hậu là vấn đề cần 
được ưu tiên trong giai đoạn 2011 - 
2015. Chính phủ đang dần hoàn thiện 
khung pháp lý về biến đổi khí hậu, giảm 
nhẹ rủi ro thiên tai, sản xuất sạch hơn và 
năng lượng. Chiến lược Quốc gia về 
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai tới 
năm 2020 đã được phê chuẩn năm 2007; 
Chương trình Mục tiêu Quốc gia về ứng 
phó với biến đổi khí hậu được ban hành 
năm 2008. Chiến lược Quốc gia về biến 
đổi khí hậu được Thủ tướng Chính phủ 
ban hành trước cuối năm 2011. Chính 
phủ đã xây dựng Chiến lược tăng trưởng 
xanh, bao gồm việc tăng trưởng ít 
carbon, cũng như việc xử lý các vấn đề 
môi trường khác. Mục đích của Chương 
trình Mục tiêu Quốc gia về ứng phó với 
biến đổi khí hậu là xác định những tác 
Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
 37
động đối với các ngành, vùng, làm cơ sở 
xây dựng các kế hoạch hành động khả 
thi nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi 
khí hậu trong ngắn và dài hạn. Chiến 
lược Quốc gia về biến đổi khí hậu nhằm 
tạo một khung pháp lý để triển khai hoạt 
động thích ứng biến đổi khí hậu và giảm 
nhẹ phát thải khí nhà kính, đã chỉ rõ “tới 
năm 2100, Việt Nam sẽ trở thành một 
quốc gia phát triển, văn minh, thịnh 
vượng, với một nền kinh tế carbon thấp, 
ứng phó thành công với biến đổi khí hậu 
và đóng vai trò quan trọng trong khu 
vực và trên thế giới.” Mục tiêu cơ bản 
của Chiến lược là tăng cường năng lực 
ứng phó của con người và ưu tiên hành 
động đối với vấn đề biến đổi khí hậu của 
Việt Nam. 
Tuy vậy, một trong những vấn đề 
quan trọng trong ứng phó BĐKH hiện 
nay ở Việt Nam là tìm kiếm, thu hút các 
nguồn tài chính. Nguồn tài chính cho 
ứng phó với BĐKH được khai thác chủ 
yếu từ nguồn ngân sách, các khoản vay 
hỗ trợ của Chính phủ, các dự án và 
chương trình ODA, các nghiên cứu, hỗ 
trợ kỹ thuật và các quỹ toàn cầu... Trong 
khi những tác động của biến đổi khí hậu 
(BĐKH) tiếp tục nghiêm trọng, gây thiệt 
hại khoảng 2 - 4% GDP mỗi năm, đến 
năm 2050 có thể lên đến trên 6,5% thì 
xu thế nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự 
án ứng phó với BĐKH lại giảm dần. Vì 
vậy, Việt Nam cần có chiến lược trung 
và dài hạn để đảm bảo nguồn tài chính 
bền vững đáp ứng được các hoạt động 
thích ứng với BĐKH. Để ứng phó hiệu 
quả với BĐKH, mỗi năm cần đầu tư ít 
nhất khoảng 0,5% GDP cho công tác 
này. Nhằm chủ động ứng phó với 
BĐKH, các chuyên gia quốc tế cho 
rằng, Việt Nam cần có chiến lược trung 
và dài hạn đảm bảo các hoạt động thích 
ứng với BĐKH có nguồn tài chính để 
triển khai; cần có các giải pháp tối ưu 
hóa, huy động nhiều sự hỗ trợ từ các tổ 
chức tài chính quốc tế cho BĐKH; nâng 
cao năng lực tiếp cận nguồn vốn quốc 
tế, có giải pháp sử dụng, quản lý hiệu 
quả các nguồn vốn, quỹ hỗ trợ; tăng quy 
mô huy động tài chính cho BĐKH thông 
qua việc lựa chọn công cụ giảm nhẹ, 
đảm bảo sự trung lập về tài khóa, sự đơn 
giản và giảm thiểu các chi phí hành 
chính, các tác động về phân phối và sự 
nhất quán về chính sách; tạo ra các 
nguồn tài chính mới cho thích ứng và 
giảm nhẹ BĐKH, như các loại thuế đánh 
vào chi phí carbon; thuế đánh vào phát 
thải từ hoạt động vận tải; bán đấu giá 
các đơn vị phát thải được phân bổ, 
nguồn thu đấu giá trong nước; các giải 
pháp thị trường là hết sức quan trọng 
bên cạnh việc huy động tài chính, song 
cần thêm các công cụ chính sách hỗ trợ; 
tăng quy mô và hiệu quả của các thị 
trường cacbon; tạo ra các khuyến khích 
tài chính cho giảm phát thải khí nhà kính 
từ nỗ lực giảm mất rừng và suy thoái 
rừng (REDD)... Đặc biệt, các chuyên gia 
quốc tế nhấn mạnh, quan trọng nhất là 
Việt Nam cần tăng cường tính tự chủ, 
tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, có 
phương thức đánh giá, tiếp cận và sử 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 38
dụng hiệu quả các nguồn để đảm bảo có 
một cơ chế tài chính vững chắc. 
Việt Nam hiện được đánh giá là quốc 
gia có nhiều nỗ lực trong việc giảm thải 
và thích ứng trước những tác động 
BĐKH. Chính nỗ lực đó nên đã có nhiều 
chương trình, dự án tài trợ đa phương và 
song phương nhằm giúp Việt Nam thực 
hiện mục tiêu thích ứng và giảm nhẹ 
thiên tai. 
Hiện tại, Bộ Tài nguyên và Môi 
trường trao đổi, thống nhất với Bộ Tài 
chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 
cơ quan đầu mối của Việt Nam tham gia 
vào các hoạt động của GCE quốc tế; 
phương án thành lập Quỹ Khí hậu xanh 
Việt Nam, đáp ứng được các tiêu chí 
của GCE phục vụ cho việc tiếp nhận và 
quản lý thống nhất nguồn vốn hỗ trợ này 
trong tương lai. 
Ngày 3 tháng 6 năm 2013, Tổng Bí 
thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành 
Nghị quyết số 24-NQ/TW: "Về chủ động 
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng 
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi 
trường" đã được Hội nghị Trung ương 7 
(khóa XI) thông qua. Nghị quyết đã nêu 
rõ: “Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, 
là thách thức nghiêm trọng đối với toàn 
nhân loại trong thế kỷ XXI. Ứng phó 
với biến đổi khí hậu phải được đặt trong 
mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là 
thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy 
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo 
hướng phát triển bền vững. Phải tiến 
hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, 
trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, 
chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng 
tâm... Chủ động ứng phó với biến đổi 
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên 
và bảo vệ môi trường là những vấn đề 
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm 
ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua 
lại, cùng quyết định sự phát triển bền 
vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho 
hoạch định đường lối, chính sách phát 
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc 
phòng, an ninh và an sinh xã hội. Ðây là 
một trong những nhiệm vụ quan trọng 
hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là 
trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, 
tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân 
cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ 
đạo, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và sự 
tham gia, giám sát của toàn xã hội”. 
Nghị quyết đưa ra một trong 5 giải 
pháp quan trọng cho ứng phó biến đổi 
khí hậu: Ðổi mới, hoàn thiện cơ chế, 
chính sách tài chính, tăng cường và đa 
dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với 
biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và 
bảo vệ môi trường. Kết hợp tăng chi từ 
ngân sách với đa dạng hóa các nguồn 
vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhất là 
các nguồn vốn ưu đãi cho ứng phó với 
biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và 
bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò, 
trách nhiệm của bộ quản lý chuyên 
ngành trong việc huy động, quản lý, sử 
dụng nguồn lực; hằng năm ưu tiên bố trí 
ngân sách phù hợp cho công tác điều tra 
cơ bản, xử lý ô nhiễm môi trường, bảo 
tồn đa dạng sinh học và ứng phó với 
biến đổi khí hậu. Ưu tiên bố trí kinh phí 
thực hiện có hiệu quả Chương trình mục 
tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải 
Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
 39
thiện môi trường sông Cầu, sông Nhuệ - 
sông Ðáy, sông Ðồng Nai. Bảo đảm sử 
dụng minh bạch, đúng mục đích và hiệu 
quả nguồn vốn ODA và các nguồn hỗ 
trợ quốc tế khác. Quán triệt và vận dụng 
có hiệu quả các nguyên tắc: người gây ô 
nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc 
phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi 
trường; người được hưởng lợi từ tài 
nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ 
đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý 
tài nguyên và bảo vệ môi trường. Thực 
hiện chính sách khuyến khích, ưu đãi, 
hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tham 
gia hoạt động ứng phó với biến đổi khí 
hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi 
trường; hỗ trợ người dân trồng và bảo vệ 
rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng ngập 
mặn ven biển, người dân bị ảnh hưởng 
do khai thác tài nguyên thái quá. Có lộ 
trình đến năm 2020 xóa bỏ các cơ chế, 
chính sách hỗ trợ giá đối với nhiên liệu 
hóa thạch; thực hiện bù giá 10 năm đầu 
đối với các dự án phát triển năng lượng 
mới, năng lượng tái tạo, năng lượng 
sạch, tái chế chất thải, sản xuất điện từ 
chất thải. 
Nhóm giải pháp về tài chính nhằm 
tạo quỹ phục vụ cho các biện pháp làm 
sạch môi trường, ứng phó với biến đổi 
khí hậu. Có cơ chế để tăng nguồn lực tài 
chính trong nước và mở rộng khả năng 
tiếp cận những nguồn tài chính khác, hỗ 
trợ cho việc triển khai các hoạt động bảo 
vệ môi trường như: Chương trình Tín 
dụng Xanh do các ngân hàng nước 
ngoài tại Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo 
vệ Môi trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng 
Xanh do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ 
DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, 
Chính phủ Hà Lan, Quỹ Môi trường toàn 
cầu Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra, còn 
các chương trình, dự án hợp tác quốc tế 
huy động từ nguồn phi chính phủ và tư 
nhân. Cần đa dạng hóa các hình thức cho 
vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất ưu 
đãi, tài trợ hoặc cho vay có hoàn trả; thế 
chấp tài sản để thực hiện các chương 
trình, đề án, dự án thử nghiệm, nghiên 
cứu ứng dụng trong lĩnh vực nâng cao 
hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, 
xóa đói giảm nghèo... 
Tài liệu tham khảo 
1. PGS.TS. Kim Ngọc (2005), Triển vọng 
Kinh tế thế giới 2020, Nxb Lý luận chính trị, 
Hà Nội. 
2. Viện Quản lý Chính sách Oxford (OPM) và 
Viện Quản lý và Phát triển Châu Á (AMDI), Biến 
đổi khí hậu tại Việt Nam: Nỗ lực và kỳ vọng. 
3. Trường Địa học Nông Lâm TP. Hồ Chí 
Minh (2009), Biến đổi khí hậu - Ảnh hưởng của 
biến đổi khí hậu. 
4. PGS.TS. Phạm Văn Cự (2009), Biến đổi 
khí hậu toàn cầu và nguy cơ xuất hiện “chủ 
nghĩa thực dân” kiểu mới, Bản tin Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
5. Bộ Kế hoạch & Đầu tư và UNDP, Dự 
án Tăng cường năng lực lồng ghép Phát triển 
bền vững và Biến đổi khí hậu trong công tác 
lập kế hoạch. 
6.  
7. 
cho-bien-doi-khi-hau-Can-co-chien-luoc-dai-han/ 
45/11381383.epi 
8.  
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 40

File đính kèm:

  • pdftai_chinh_cho_ung_pho_voi_bien_doi_khi_hau.pdf