Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam
TÓM TẮT
Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã
trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam
còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại
(NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt
động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện
về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam
1Tái cấu trúc . . . Kinh tế TÁI CẤU TRÚC CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH VIỆT NAM Đoàn Thanh Hà*, Trần Thanh Vũ** TÓM TẮT Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại (NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam. Từ khóa: cho thuê tài chính, tái cấu trúc RESTRUCTURING OF FINANCIAL LEASING COMPANY VIETNAM ABSTRACT Leasing has developed in the world for long time and has become a channel which sponsors medium and long term capital for businesses, especially for small and medium enterprises (SMEs) in many countries in the world. However, the activity of leasing companies Vietnam has many shortcomings, especially for leasing companies under the banks and corporations. This article focuses on analyzing and assessing the operation situation of leasing companies under Association Leasing Vietnam, whereby has a comprehensive overview of the company, which has proposed solutions to restructure the leasing companies Vietnam. Keywords: leasing, restructuring * PGS. TS. Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh ** TS. Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. Giới thiệu Khi nợ xấu trong các công ty CTTC tăng cao, nguy cơ mất vốn của ngân hàng ngày càng lớn. Là trung gian tín dụng, nên khi nợ xấu gia tăng các công ty CTTC có nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro vỡ nợ ngày càng lớn, hệ thống các định chế tài chính suy yếu, đe dọa sự bất ổn cho cả nền kinh tế, xã hội của một quốc gia, thậm chí cả khu vực. Trong bối cảnh đó niềm tin của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội và hệ thống các định chế tài chính giảm sút và ảnh hưởng ngược lại cho chính các công ty CTTC và vòng xoáy đó ngày càng lan rộng, hướng giải quyết duy nhất là tái cấu trúc các công ty CTTC. 2. Cơ sở lý thuyết của tái cấu trúc Tái cấu trúc công ty CTTC là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của công ty, bao gồm phục hồi khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng. Theo quan điểm này thì tái cấu trúc công ty CTTC bao gồm tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc hoạt động và giám sát an toàn. Trong đó, tái cấu trúc tài chính hướng đến việc phục hồi khả năng thanh khoản bằng cách cải thiện bảng cân đối của các công ty CTTC thông qua các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ, hoặc nâng giá trị tài sản. Tái cấu trúc hoạt động hướng đến mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng cách chú trọng hơn đến chiến lược hoạt động, cải thiện hiệu quả, năng lực quản lý và hệ thống kế toán, nâng cao năng lực thẩm định tín dụng. Việc giám sát và các quy tắc an toàn được đặt ra nhằm mục tiêu cải thiện năng lực hoạt động của toàn bộ hệ thống dưới vai trò là trung gian tài chính. Nói cách khác, tái cấu trúc các công ty CTTC là các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của các công ty CTTC nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định và hiệu quả chức năng trung gian tài chính của các công ty CTTC trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty CTTC. Nội dung của tái cấu trúc công ty CTTC bao gồm: Tái cấu trúc tài chính; Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh; Tái cấu trúc hoạt động quản trị và Tái cấu trúc sở hữu. 2.1. Tái cấu trúc tài chính Nội dung trọng tâm của tái cấu trúc tài chính của công ty CTTC là tăng quy mô, chất lượng vốn tự có và xử lý nợ xấu cho các công ty CTTC. - Tăng quy mô, chất lượng vốn tự có của các công ty CTTC. Vốn tự có có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty CTTC vì nó không chỉ là yếu tố tạo nền tảng cho hoạt động của các định chế tài chính, bảo bảo đảm sự an toàn cho công ty trước những rủi ro không lường trước mà còn duy trì niềm tin với khách hàng và điều chỉnh hoạt động của công ty. Để tăng quy mô vốn tự có của các công ty CTTC có thể áp dụng các biện pháp như: tăng vốn điều lệ, mua lại sáp nhập, chuyển nợ thành vốn góp. Các biện pháp tăng quy mô vốn tự có phụ thuộc nhiều vào những yếu tố từ bên ngoài, bản thân từng công ty khó có thể chủ động quyết định. Chẳng hạn việc tăng vốn điều lệ đối với công ty cổ phần CTTC phụ thuộc nhiều vào xu hướng của thị trường chứng khoán. Các công ty CTTC cũng có thể tăng vốn tự có về lượng và chất khi tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại. Phần vốn tự có tăng thêm do trích từ lợi nhuận, công ty không phải trả phí, vì vậy đây là nguồn vốn có chi phí thấp và được coi là có chất lượng. Các công ty CTTC có thể chủ động hoàn toàn khi tăng vốn tự có bằng cách tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại. 3Tái cấu trúc . . . - Xử lý nợ xấu. Một trong những nội dung cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc tài chính công ty CTTC là phải xác định, nắm chính xác con số nợ tồn đọng của các công ty được tái cấu trúc là bao nhiêu, trên cơ sở đó để có các bước xử lý có hiệu quả. Để xử lý nợ xấu có thể áp dụng các biện pháp như: cấu trúc lại nợ, xử lý tài sản đảm bảo, bán cho công ty mua bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, ... 2.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh Cùng với việc làm sạch và tái cấu trúc bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh, các công ty CTTC cần phải triển khai các giải pháp củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty và đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Tái cấu trúc hoạt động của các công ty CTTC bao gồm các nội dung chính: Thứ nhất, tái cấu trúc về sản phẩm, dịch vụ. Sản phẩm dịch vụ của công ty bao hàm toàn bộ các hoạt động mà công ty CTTC cung ứng cho khách hàng liên quan đến hoạt động tài chính, cho thuê, tư vấn, thông qua các kênh phân phối khác nhau nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu dịch vụ tài chính của khách hàng mà pháp luật cho phép. Danh mục sản phẩm dịch vụ của công ty càng đa dạng, càng thỏa mãn nhiều nhu cầu của khách hàng, dễ dàng thu hút khách hàng, tăng doanh thu, giúp công ty phát triển ổn định, bền vững. Chính vì vậy, các công ty CTTC cần phải: Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính, loại bỏ các lĩnh vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả và từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các công ty CTTC theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động cho thuê tài chính và tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ tư vấn; Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ở khu vực có tiềm năng phát triển và giảm các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém hiệu quả. Thứ hai, tái cấu trúc về nhân sự. Nguồn nhân lực ở bất cứ công ty CTTC nào là lợi thế so sánh quan trọng vì chính con người là yếu tố “động nhất” trong mọi quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực của công ty CTTC được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu cơ bản là số lượng lao động và chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động: là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh nguồn nhân lực của một công ty CTTC. Nếu số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi nhánh, mỗi điểm giao dịch thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các chi nhánh và toàn bộ hệ thống công ty CTTC; Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực của một công ty CTTC được đánh giá qua các chỉ tiêu: trình độ học vấn; trình độ ngoại ngữ; trình độ tin học; các kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải quyết các vấn đề phát sinh, tinh thần trách nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp, kinh nghiệm chuyên môn. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần trong quá trình chực hiện việc nâng cao năng lực tài chính của công ty CTTC. Nguồn nhân lực đồng đều và chất lượng sẽ giúp triển khai các hoạt động kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả, ngăn ngừa, hạn chế được các rủi ro trong hoạt động về quy trình, nghiệp vụ và pháp lý. Vì vậy, không những trong lĩnh vực tài chính mà hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế đều xem chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định. Đặc biệt, bộ máy quản trị ngân hàng cấp cao lại càng phải có chất lượng vì đây là bộ phận “đầu não” trong việc xây dựng, hoạch định và giám sát thực thi các chiến lược ở cả hệ thống công ty CTTC. Thứ ba, tái cấu trúc về công nghệ. Công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong giai 4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các định chế tài chính. Theo quy luật, định chế tài chính yếu sẽ bị thất bại, định chế tài chính mạnh sẽ giành thế chủ động trên thị trường. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng bao gồm: Hiện đại về trang thiết bị, máy móc - Đây là những yếu tố cốt lõi để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ tài chính tiện ích và an toàn; Hiện đại hoá công nghệ còn thể hiện ở các quy trình làm việc. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc tách rời nhưng cùng hệ thống, Tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, giảm chi phí nhân lực cho ngân hàng; Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi thông tin về khách hàng, hệ thống kế toán, của công ty CTTC đòi hỏi phải có sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho các công ty CTTC chủ động trong việc dự báo, phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Công ty CTTC thuộc lĩnh vực cung ứng dịch vụ tài chính, hầu hết các mảng hoạt động của khu vực tài chính đều gắn liền với việc tiếp nhận và xử lý thông tin. Việc ứng dụng công nghệ thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và có hiệu quả của từng công ty nói riêng và hệ thống công ty CTTC nói chung. Do đó, hiện đại hoá công nghệ là một nội dung tất yếu trong lộ trình tái cấu trúc các công ty CTTC. Thứ tư, hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động. Thông thường cơ cấu tổ chức hoạt động của các công ty CTTC trước khi tái cấu trúc thường mang tính chồng chéo và thiếu khoa học dẫn đến việc điều hành không có hiệu quả. Bởi vậy, khi tái cấu trúc công ty CTTC, nội dung về hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động công ty CTTC được xem như một tất yếu. Các nội dung cơ bản khi tiến hành tái cấu trúc tổ chức và quản lý công ty CTTC: Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao cho vừa tinh gọn vừa đảm bảo thực hiện hoạt động của công ty được tiến hành thông suốt, hiệu quả, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu; Phân tách giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và cân bằng về nguồn lực. 2.3. Tái cấu trúc hệ thống quản trị Vấn đề quản trị công ty đối với hoạt động của các định chế tài chính đã được Ủy ban Basel ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2006, bao gồm 14 nguyên tắc cơ bản và chia thành sáu nhóm: Bốn nguyên tắc đầu tiên quy định rõ trách nhiệm chung, trình độ năng lực, thông lệ và cơ cấu riêng của Hội đồng quản trị cũng như cấu trúc công ty; Nguyên tắc thứ 5 quy định ban điều hành phải đảm bảo tất cả các hoạt động của công ty phải phù hợp với chiến lược kinh doanh, mức độ chấp nhận và chính sách rủi ro đã được Hội đồng quản trị phê duyệt; Các nguyên tắc từ 6 đến 9 yêu cầu doanh nghiệp phải thiết lập các hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro hiệu quả. Các rủi ro cần phải được phát hiện, theo dõi trên phạm vi toàn hệ thống, và cụ thể cho từng bộ phận kinh doanh. Doanh nghiệp cần có mạnh lưới truyền thông nội bộ đối với các rủi ro, Hội đồng quản trị và ban điều hành phải sử dụng kết quả làm việc của bộ phận kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài một cách có hiệu quả; Nguyên tắc 10 và 11 quy định về chế độ đãi ngộ. Hội đồng quản trị phải chủ động giám sát việc thiết lập và thực thi chế độ đãi ngộ, chính sách đãi ngộ phải gắn liền với quan điểm chấp nhận rủi ro một cách thận trọng; Nguyên tắc 12 và 13 quy định Hội đồng quản trị và Ban điều hành tại các công ty có cơ cấu phức tạp phải nắm vững cơ cấu hoạt động và rủi ro mà công ty phải đối mặt, phải hiểu rõ và tìm biện pháp phân tán rủi ro phát sinh; Nguyên tắc 14 quy định quản trị phải đảm bảo tính 5Tái cấu trúc . . . công khai và minh bạch đối với cổ đông và các bên liên quan. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới luôn biến động khó lường thì quản trị công ty CTTC càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, một trong những trọng tâm của quá trình tái cấu trúc công ty CTTC Việt Nam là nâng cao năng lực quản trị công ty của các công ty CTTC, cải thiện và hướng tới chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, đảm bảo an toàn, tăng cường tính minh bạch, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. 2.4. Tái cấu trúc sở hữu Trong lĩnh vực tài chính, sở hữu quyết định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và việc tuân thủ quy định pháp luật của từng loại hình công ty. Việc thay đổi cấu trúc sở hữu sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu tư, hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ giữa các đối tác, giúp các công ty CTTC tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu của Chính phủ từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả, bền vững cho hệ thống này. 3. Phương pháp nghiên cứu Bài viết sử dụng cách tiếp cận tư duy diễn dịch và tư duy quy nạp để phân tích thực trạng các công ty CTTC Việt Nam bằng phương pháp nghiên cứu định tính với thống kê mô tả, qua đó chứng minh tính tất yếu cần tái cấu trúc và đề xuất những gợi ý chính sách để thực hiện tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam. 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Thực trạng về tài chính Theo số liệu từ Hiệp hội CTTC tổng dư nợ CTTC đến 31/12/2014 của 8 công ty CTTC của Việt Nam là 13.688 tỷ đồng và tổng vốn điều lệ của 8 công ty là 3.097 tỷ đồng. So với các nước Châu Á, thì hoạt động CTTC của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, hoạt động CTTC đã trở thành một trong những kênh tài trợ vốn trung và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp để trang bị, đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi các doanh nghiệp vay vốn bằng tiền ở các tổ chức tín dụng. Bảng 1. Tình hình tài chính của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 1 Vốn điều lệ 3.097.813 3.097.813 3.097.813 2 Vốn tự có (8.201.470) (9.339.842) (9.939.984) 3 Nguồn vốn huy động 13.405.507 13.152.597 13.194.039 4 Dư nợ 15.540.464 14.687.559 13.688.002 5 Tỷ lệ nợ xấu (%) 52 49 43 6 Lợi nhuận trước thuế (1.620.038) (916.123) (389.444) Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính Cũng theo số liệu từ Hiệp hội CTTC thì vốn điều lệ trung bình của một công ty CTTC ở Việt nam là 387 tỷ đồng. Điều đánh nói là qua số liệu cho thấy vốn tự có của các công ty CTTC ... đến hoạt động CTTC và các dịch vụ khác có liên quan. Mặc dù, năng lực phát triển sản phẩm của các công ty CTTC được đánh giá ở mức độ cao nhất, song việc cung ứng các sản phẩm của các công ty CTTC còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế này thể hiện ở việc các công ty CTTC chưa đa dạng hoá hình thức và nghiệp vụ. + Về chất lượng sản phẩm dịch vụ. Chất lượng dịch vụ của các công ty CTTC cũng được đánh giá cao. Với tiêu chí thực hiện nghiệp vụ CTTC một cách đơn giản và nhanh gọn cho khách hàng, hầu hết từ quy trình, cách thức thực hiện cho đến các mẫu biểu liên quan đều được các công ty CTTC thiết lập theo hướng mang lại thuận tiện và dễ hiểu cho khách hàng. Các công ty CTTC hiện nay đều không giới hạn địa bàn hoạt động mà trải rộng đến tất cả khách hàng có nhu cầu trong cả nước. Các dịch vụ tư vấn về công nghệ, máy móc thiết bị đều được các công ty CTTC cung cấp miễn phí khi khách hàng có nhu cầu. Do đó, dịch vụ CTTC ngày càng được thị trường biết đến nhiều hơn với những tiện ích thiết thực của nó. Tuy nhiên, theo khảo sát năng lực chất lượng dịch vụ của các công ty CTTC còn nhiều hạn chế như về địa điểm giao dịch, thái độ phục vụ và khả năng đáp ứng,vv.. + Về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao năng lực của các công ty CTTC, song, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Hoạt động của các công ty CTTC đòi hỏi phải có kiến thức về kinh tế tài chính và các lĩnh vực liên quan đến tài sản cho thuê đòi hỏi nguồn nhân lực không những giỏi về kinh tế mà còn am tường về kỹ thuật. Song thực tế nguồn nhân lực ở các công ty CTTC hiện nay thiếu một trong hai yếu tố này, bởi đa phần họ được điều chuyển từ các NHTM sang các công ty CTTC. Chính vì lý do đó mà nguồn nhân lực của các công ty CTTC chưa đáp ứng được những đòi hỏi cả về mặt kinh tế và kỹ thuật. Điều này thể hiện qua một kết quả khảo sát cho thấy tiêu chí lao 10 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật động được đào tạo chuyên môn phù hợp đạt mức điểm là 2.8711 trên thang điểm 5. Hạn chế về nguồn nhân lực của các công ty CTTC là tính tuân thủ về đạo đức nghệ nghiệp còn ở dưới mức trung bình. Quy trình tuyển dụng chưa hợp lý, hiện tượng cục bộ địa phương, gửi gắm còn khá phổ biến. Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chưa có kế hoạch thường xuyên và lâu dài nên có nguy cơ cao về sự thiếu hụt cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Riêng trình độ của đội ngũ nhân viên thì kém xa các đối thủ cạnh tranh. Tính đến 31 tháng 12 năm 2014 số lượng lao động làm việc ở các công ty CTTC ở Việt Nam người lao động có trình độ trên đại học chiếm 5,96%, trình độ đại học chiếm 41,7%, trình độ cao đẳng chiếm 28,72% và trình độ khác chiếm 23,62%. Hình 1. Trình độ lao động của các công ty CTTC đến 31/12/2014 Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của các công ty cho thuê tài chính[2] Vấn đề nguồn nhân lực được các định chế tài chính đặc biệt là các định chế tài chính nước ngoài thực hiện một cách triệt để. Toàn bộ các quy trình làm việc đều được chuẩn hóa với các quy định cụ thể về thao tác thực hiện, thẩm quyền của từng cấp nhân viên trong giao dịch, phương thức xử lý của một số trường hợp cụ thể thường gặp. Các quy trình này được phổ biến đến mọi nhân viên trong tổ chức, trở thành văn hóa kinh doanh của tổ chức. Do vậy, đội ngũ nhân viên của các định chế tài chính nước ngoài được đánh giá là có tính chuyên nghiệp cao và phục vụ khách hàng tốt. Trong khi đó, tại các công ty CTTC Việt Nam, vấn đề đào tạo cho nhân viên một cách chuyên nghiệp chưa được xem trọng, hầu hết là nhân viên tự học hỏi lẫn nhau. + Về năng lực phát triển công nghệ. Trình độ công nghệ của các công ty CTTC còn thấp. Chính trình độ và mức độ ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC còn thấp làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ mà các công ty CTTC cung cấp cho khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực CTTC, việc tính toán khấu hao, kỳ hạn nợ, xác định hao mòn vô hình là rất khó khăn. + Về mô hình tổ chức. Qua kết quả khảo sát cho thấy, năng lực phát triển mạng lưới là yếu tố yếu thứ hai sau năng lực tài chính. Các TCTD phi ngân hàng chưa nghiên cứu nhu cầu, địa bàn và năng lực tài chính cũng như rào cản về chính sách pháp luật. 4.3. Thực trạng về hoạt động quản trị Theo khảo sát thì năng lực quản trị của các công ty CTTC ở mức độ 2.79 trên thang đo 5 điểm, điều này cho thấy yếu tố này đang ở mức trung bình yếu, muốn đứng vững trong cạnh tranh thì cần phải cải thiện nhiều. 11 Tái cấu trúc . . . 4.4. Thực trạng về sở hữu Với 12 công ty CTTC đang hoạt động thì có tới 8 công ty CTTC trực thuộc các NHTM, 1 công ty liên doanh, 1 công ty trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam và 3 công ty có vốn đầu tư 100% nước ngoài. Như vậy, tính đa dạng về sở hữu của các công ty CTTC chưa cao, chưa có công ty cổ phần, điều này sẽ hạn chế trong việc thực hiện các chiến lược kinh doanh bởi là đơn vị thực thuộc nên bị chi phối bởi các hoạt động của ngân hàng mẹ cũng như tập đoàn. 5. Những hạn chế của các công ty cho thuê tài chính và yêu cầu bức thiết phải tái cấu trúc Thứ nhất, hệ thống ra quyết định phức tạp và thiếu minh bạch, chưa tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, điều hành hoạt động, đặc biệt ở các công ty CTTC trực thuộc các tổng công ty nhà nước, các NHTM. Thứ hai, mô hình tổ chức còn nặng tính hành chính và thiếu sự tập trung theo chức năng. Như vậy, khả năng thống nhất quản lý và thực hiện đồng bộ hóa các chính sách về khách hàng và sản phẩm bị hạn chế. Bất cập này thì không chỉ tồn tại ở các công ty CTTC mà còn trong hệ thống NHTM. Thứ ba, hệ thống kế toán và quản lý tài chính, hệ thống thông tin quản lý chưa bảo đảm cho quá trình điều hành, kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả. Các chuẩn mưc về quản trị rủi ro chưa được quan tâm đúng mức. Thứ tư, năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh, cạnh tranh của các công ty này còn thấp, tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng chưa cao. Cạnh tranh chưa lành mạnh, thiếu sự hợp tác dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính sách, pháp luật trong hoạt động ngân hàng không được tôn trọng nghiêm minh. Mục tiêu chạy theo lợi nhuận đã lấn át yêu cầu bảo đảm an toàn kinh doanh và vi phạm quy định pháp luật về hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng là không ít. Thứ năm, cùng với năng lực quản trị yếu kém, và trình độ nhân sự cả về chuyên môn lẫn đạo đức kinh doanh ngân hàng chưa cao làm gia tăng mức độ rủi ro hoạt động và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chinh ngân hàng. 6. Một số đề xuất để tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam Thứ nhất, tái cấu trúc về tài chính. Xác định công tác phát triển nguồn vốn là nhiệm vụ trọng tâm quyết định đến việc gia tăng tổng tài sản và quy mô hoạt động, vì các công ty CTTC đề ra mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn hàng năm trung bình từ 20% đến 22%, chủ trương đẩy mạnh huy động vốn bằng nhiều nguồn thông qua nhiều kênh, tranh thủ nguồn vốn giá rẻ của các tổ chức chính trị xã hội, cơ quan hành chính sự nghiệp, và doanh nghiệp; tích cực tiếp thị, thường xuyên bám sát thị trường để đưa ra những giải pháp, chính sách huy động vốn linh hoạt, đa dạng, phù hợp với mọi phân khúc khách hàng. Thực hiện mua bán, sáp nhập công ty và mạnh dạn thực hiện phá sản những công ty yếu kém. Thứ hai, tái cấu trúc về hoạt động. Để thực hiện tái cấu trúc hoạt động thì các công ty cần tập trung vào một số vấn đề sau: Một là, tái cấu trúc hoạt động cho thuê. Định hướng hoạt động cho thuê tài chính vẫn là hoạt động kinh doanh chủ lực vì vậy các công ty CTTC đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng theo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững; điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với thế mạnh của các công ty CTTC; tìm kiếm các khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, các dự án khả thi có hiệu quả kinh tế cao có khả năng hoàn trả vốn đúng hạn, có nguồn thu nhập ổn định nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm từ 25% đến 30%; tăng cường quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo nợ xấu chiếm 12 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tỷ lệ dưới 1,5%. Trong lĩnh vực đầu tư: đa dạng hóa các hoạt động đầu tư, chủ động dự báo diễn biến của thị trường tài chính, tiền tệ để nắm bắt cơ hội đầu tư trên thị trường, đa dạng hóa danh mục đầu tư trên thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ, đẩy mạnh đầu tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty có tiềm năng và triển vọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và quản lý thanh khoản của các công ty CTTC; mở rộng đầu tư thông qua viêc bảo lãnh phát hành trái phiếu cho doanh nghiệp. Hai là, thực hiện chiến lược dịch vụ và sản phẩm: phát triển đa dạng các dịch vụ và sản phẩm của TCTD phi ngân hàng phân nhóm dịch vụ và sản phẩm mũi nhọn để tập trung phát triển, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại để phát triển dịch vụ và sản phẩm có tính năng và tiện ích vượt trội so với sản phẩm của công ty khác, lấy mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng là định hướng phát triển các dòng sản phẩm dịch vụ, bên cạnh đó thực hiện tái cấu trúc lại thu nhập từ các hoạt động nghiệp vụ theo hướng giảm dần thu nhập từ hoạt động tín dụng và đẩy mạnh thu nhập từ các hoạt động dịch vụ và sản phẩm nhằm giảm thiểu rủi ro. Ba là, thực hiện chiến lược nguồn nhân lực. Chuẩn hóa nguồn nhân lực theo hướng giảm về số lượng, nâng cao chất lượng; tăng cường đào tạo, tuyển dụng mới nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới và hoàn thiện cơ chế sử dụng lao động và cơ chế chi trả tiền lương theo nguyên tắc lợi ích gắn liền với trách nhiệm và kết quả công việc của người lao động, nâng cao chất lượng công tác quy họach, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ; thường xuyên tổ chức các đợt thi tuyển các chức danh cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo nhằm tạo dựng nguồn cán bộ đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC trong những năm tiếp theo. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào các lĩnh vực chính yếu của tái cấu trúc như: nghiệp vụ quản lý chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, kiểm toán, quản lý tín dụng và dịch vụ mới. Bốn là, thực hiện chiến lược công nghệ. Coi ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố then chốt, là nền tảng để nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động, mở rộng thị phần, hỗ trợ mọi hoạt động phát triển kinh doanh. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, an toàn, có tính thống nhất, tích hợp, ổn định cao; khai thác hiệu quả thành tựu của công nghệ mới trong hoạt động quản trị và kinh doanh, cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ của TCTD phi ngân hàng điện tử hiện đại cho khách hàng. Thứ ba, tái cấu trúc về quản trị điều hành. Thực hiện tái cấu trúc về quản trị thì các công ty CTTC cần tập trung vào một số vấn đề sau: Một là, thực hiện chiến lược về quản trị rủi ro. Hình thành những chốt chặn nhằm cảnh báo, phòng ngừa và hạn chế mọi rủi ro, đảm bảo sự tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật trong mọi khâu, mọi bộ phận nghiệp vụ. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, xây dựng chi tiết cụ thể những quy định nhằm phòng ngừa rủi ro đạo đức; nâng cao chất lượng công cụ đo lường rủi ro, đồng thời tăng cường củng cố hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Hài là, thực hiện chiến lược tổ chức và điều hành. Điều hành bộ máy tổ chức với cơ chế phân cấp rõ ràng, hợp lý nhằm đảm bảo có sự ràng buộc, kiểm soát và bọc lót cho nhau trong công việc; đề cao tính tuân thủ, tính quyết đoán và tự chịu trách nhiệm trong quản 13 Tái cấu trúc . . . trị điều hành; chuẩn hóa mô hình tổ chức, cơ chế quản trị, điều hành; thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức của ngân hàng theo các khối ngành dọc như khối kinh doanh, khối vận hành, khối hỗ trợ phù hợp với xu hướng phát triển và chuẩn mực quốc tế để chuyên môn hóa sâu giữa các bộ phận, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng. Thứ tư, thực hiện tái cấu trúc sở hữu. Trong giải pháp này thì các công ty CTTC cần chú ý đến một số vấn đề sau: Một là, các NHTM khẩn trương đẩy mạnh việc cơ cấu lại các công ty con là công ty CTTC theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ, hỗ trợ các công ty CTTC nâng cao năng lực quản trị, điều hành, năng lực tài chính để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động CTTC nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất trong điều kiện khó khăn về vốn, hạn chế khả năng đọng vốn vào tài sản cố định, giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ. Hai là, đối với vấn đề hợp nhất, sáp nhập các công ty CTTC, cần tiếp tục thực hiện mạnh mẽ hơn trong các năm tiếp theo như một phần của hoạt động tái cấu trúc lại hệ thống các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. 7. Kết luận Tái cấu trúc công ty CTTC Việt Nam nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định, hiệu quả chức năng trung gian tài chính của các công ty CTTC. Khi nền kinh tế phát triển sẽ đòi hỏi các công ty CTTC phải thay đổi để thích ứng, đảm bảo các mặt hoạt động có hiệu quả. Sự thay đổi trong điều kiện này phải theo nguyên lý vòng xoáy ốc dẫn đến, do vậy cần thiết phải tái cấu trúc các công ty CTTC cho mục tiêu phát triển. Việc tái cấu trúc không chỉ thực hiện khi các công ty CTTC trong tình trạng khủng hoảng với mục tiêu hồi sinh, mà việc tái cấu trúc còn là công việc thường xuyên ngay cả khi các công ty CTTC đang hoạt động bình thường hay hoạt động tốt hướng tới mục tiêu phát triển. Tái cấu trúc các công ty CTTC nếu được xem là công việc thường xuyên sẽ tránh gây những hậu quả xấu cho các định chế tài chính và nền kinh tế, giảm thiểu được chi phí cho việc tái cấu trúc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Australian Accounting Standards Board, AASB 137, Provisions, Contingent Liabilities and Contingent Assets, viewed 12 Dec 2014, < AASB137_07-04_COMPoct10_01-11.pdf> [2]. Báo cáo của các công ty cho thuê tài chính 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 [3]. Berger, A N, R S Demsetz and P E Strahan, 1999, The consolidation of the financial services industry: causes, consequences, and implications for the future:, Journal of Banking and Finance, 23,135-94. [4]. Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 ban hành kèm theo Quyết định 254/QĐ- TTg ngày 1/3/2012 của Thủ Tướng chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015. [5]. Guan, T., 2012, Implicaiton of Japan Banking Restructuring to China, Master’s report [6]. Valerio, 2013, Financial Restructuring, viewed 12 Dec 2014, < it/docenti/BIANCHI/Seminario13%20maggio%20Le%20ristrutturazioni%20finanziarie%20 operate%20da%20SACE.%20Valerio%20Ranciaro.pdf> [7]. Page5af2af9b_1455fb67e24_7ff4?_adf.ctrl-state= 195kp8q82n_129&_afrLoop=5974300882461700
File đính kèm:
- tai_cau_truc_cac_cong_ty_cho_thue_tai_chinh_viet_nam.pdf