Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam

TÓM TẮT

Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã

trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa

(DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam

còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại

(NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt

động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện

về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.

pdf 13 trang phuongnguyen 9120
Bạn đang xem tài liệu "Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam

Tái cấu trúc các công ty cho thuê tài chính Việt Nam
1Tái cấu trúc . . .
Kinh tế
TÁI CẤU TRÚC CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 
VIỆT NAM
 Đoàn Thanh Hà*, Trần Thanh Vũ** 
TÓM TẮT
Cho thuê tài chính (CTTC) đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây từ rất lâu và đã 
trở thành kênh tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa 
(DNNVV) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty CTTC Việt Nam 
còn nhiều bất cập, hạn chế nhất là đối với các công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại 
(NHTM) và tập đoàn kinh tế. Bài viết này chúng tôi tập trung phân tích đánh giá thực trạng hoạt 
động của các công ty CTTC thuộc Hiệp hội công ty CTTC Việt Nam, qua đó có cái nhìn toàn diện 
về các công ty này và đề xuất một số giải pháp nhằm tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
Từ khóa: cho thuê tài chính, tái cấu trúc
 RESTRUCTURING OF FINANCIAL LEASING COMPANY VIETNAM
ABSTRACT
Leasing has developed in the world for long time and has become a channel which 
sponsors medium and long term capital for businesses, especially for small and medium enterprises 
(SMEs) in many countries in the world. However, the activity of leasing companies Vietnam has 
many shortcomings, especially for leasing companies under the banks and corporations. This 
article focuses on analyzing and assessing the operation situation of leasing companies under 
Association Leasing Vietnam, whereby has a comprehensive overview of the company, which has 
proposed solutions to restructure the leasing companies Vietnam.
Keywords: leasing, restructuring
* PGS. TS. Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh 
** TS. Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Giới thiệu
Khi nợ xấu trong các công ty CTTC tăng 
cao, nguy cơ mất vốn của ngân hàng ngày 
càng lớn. Là trung gian tín dụng, nên khi nợ 
xấu gia tăng các công ty CTTC có nguy cơ 
mất thanh khoản, rủi ro vỡ nợ ngày càng lớn, 
hệ thống các định chế tài chính suy yếu, đe 
dọa sự bất ổn cho cả nền kinh tế, xã hội của 
một quốc gia, thậm chí cả khu vực. Trong 
bối cảnh đó niềm tin của các chủ thể trong 
nền kinh tế xã hội và hệ thống các định chế 
tài chính giảm sút và ảnh hưởng ngược lại 
cho chính các công ty CTTC và vòng xoáy 
đó ngày càng lan rộng, hướng giải quyết duy 
nhất là tái cấu trúc các công ty CTTC.
2. Cơ sở lý thuyết của tái cấu trúc
Tái cấu trúc công ty CTTC là biện pháp 
hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt 
động của công ty, bao gồm phục hồi khả năng 
sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động để làm 
tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính 
và khôi phục lòng tin của công chúng. Theo 
quan điểm này thì tái cấu trúc công ty CTTC 
bao gồm tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc 
hoạt động và giám sát an toàn. Trong đó, tái 
cấu trúc tài chính hướng đến việc phục hồi 
khả năng thanh khoản bằng cách cải thiện 
bảng cân đối của các công ty CTTC thông qua 
các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ, hoặc 
nâng giá trị tài sản. Tái cấu trúc hoạt động 
hướng đến mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng 
cách chú trọng hơn đến chiến lược hoạt động, 
cải thiện hiệu quả, năng lực quản lý và hệ 
thống kế toán, nâng cao năng lực thẩm định 
tín dụng. Việc giám sát và các quy tắc an toàn 
được đặt ra nhằm mục tiêu cải thiện năng lực 
hoạt động của toàn bộ hệ thống dưới vai trò 
là trung gian tài chính. Nói cách khác, tái cấu 
trúc các công ty CTTC là các biện pháp 
nhằm khắc phục các khiếm khuyết của các 
công ty CTTC nhằm mục đích duy trì sự 
phát triển ổn định và hiệu quả chức năng 
trung gian tài chính của các công ty CTTC 
trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng trung 
gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả 
hoạt động của các công ty CTTC. Nội dung 
của tái cấu trúc công ty CTTC bao gồm: Tái 
cấu trúc tài chính; Tái cấu trúc hoạt động kinh 
doanh; Tái cấu trúc hoạt động quản trị và Tái 
cấu trúc sở hữu.
2.1. Tái cấu trúc tài chính
Nội dung trọng tâm của tái cấu trúc tài 
chính của công ty CTTC là tăng quy mô, chất 
lượng vốn tự có và xử lý nợ xấu cho các công 
ty CTTC.
- Tăng quy mô, chất lượng vốn tự có của 
các công ty CTTC. Vốn tự có có ý nghĩa rất 
lớn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty 
CTTC vì nó không chỉ là yếu tố tạo nền tảng 
cho hoạt động của các định chế tài chính, bảo 
bảo đảm sự an toàn cho công ty trước những 
rủi ro không lường trước mà còn duy trì niềm 
tin với khách hàng và điều chỉnh hoạt động 
của công ty. Để tăng quy mô vốn tự có của 
các công ty CTTC có thể áp dụng các biện 
pháp như: tăng vốn điều lệ, mua lại sáp nhập, 
chuyển nợ thành vốn góp. Các biện pháp tăng 
quy mô vốn tự có phụ thuộc nhiều vào những 
yếu tố từ bên ngoài, bản thân từng công ty khó 
có thể chủ động quyết định. Chẳng hạn việc 
tăng vốn điều lệ đối với công ty cổ phần CTTC 
phụ thuộc nhiều vào xu hướng của thị trường 
chứng khoán. Các công ty CTTC cũng có thể 
tăng vốn tự có về lượng và chất khi tăng tỷ lệ 
lợi nhuận giữ lại. Phần vốn tự có tăng thêm 
do trích từ lợi nhuận, công ty không phải trả 
phí, vì vậy đây là nguồn vốn có chi phí thấp và 
được coi là có chất lượng. Các công ty CTTC 
có thể chủ động hoàn toàn khi tăng vốn tự có 
bằng cách tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại.
3Tái cấu trúc . . .
- Xử lý nợ xấu. Một trong những nội dung 
cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc tài chính 
công ty CTTC là phải xác định, nắm chính 
xác con số nợ tồn đọng của các công ty được 
tái cấu trúc là bao nhiêu, trên cơ sở đó để có 
các bước xử lý có hiệu quả. Để xử lý nợ xấu 
có thể áp dụng các biện pháp như: cấu trúc 
lại nợ, xử lý tài sản đảm bảo, bán cho công ty 
mua bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, ...
2.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
Cùng với việc làm sạch và tái cấu trúc 
bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh, 
các công ty CTTC cần phải triển khai các giải 
pháp củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động nhằm 
nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty và 
đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. 
Tái cấu trúc hoạt động của các công ty CTTC 
bao gồm các nội dung chính:
Thứ nhất, tái cấu trúc về sản phẩm, dịch 
vụ. Sản phẩm dịch vụ của công ty bao hàm 
toàn bộ các hoạt động mà công ty CTTC 
cung ứng cho khách hàng liên quan đến hoạt 
động tài chính, cho thuê, tư vấn, thông qua 
các kênh phân phối khác nhau nhằm thỏa 
mãn mọi nhu cầu dịch vụ tài chính của khách 
hàng mà pháp luật cho phép. Danh mục sản 
phẩm dịch vụ của công ty càng đa dạng, càng 
thỏa mãn nhiều nhu cầu của khách hàng, dễ 
dàng thu hút khách hàng, tăng doanh thu, 
giúp công ty phát triển ổn định, bền vững. 
Chính vì vậy, các công ty CTTC cần phải: 
Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động 
kinh doanh chính, loại bỏ các lĩnh vực kinh 
doanh rủi ro, kém hiệu quả và từng bước 
chuyển dịch mô hình kinh doanh của các 
công ty CTTC theo hướng giảm bớt sự phụ 
thuộc vào hoạt động cho thuê tài chính và 
tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ tư 
vấn; Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động 
ở khu vực có tiềm năng phát triển và giảm 
các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém 
hiệu quả.
Thứ hai, tái cấu trúc về nhân sự. Nguồn 
nhân lực ở bất cứ công ty CTTC nào là lợi thế 
so sánh quan trọng vì chính con người là yếu 
tố “động nhất” trong mọi quá trình sản xuất. 
Nguồn nhân lực của công ty CTTC được đánh 
giá thông qua hai chỉ tiêu cơ bản là số lượng 
lao động và chất lượng nguồn nhân lực. Số 
lượng lao động: là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh 
nguồn nhân lực của một công ty CTTC. Nếu 
số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi nhánh, mỗi 
điểm giao dịch thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi 
để mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các 
chi nhánh và toàn bộ hệ thống công ty CTTC; 
Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn 
nhân lực của một công ty CTTC được đánh 
giá qua các chỉ tiêu: trình độ học vấn; trình 
độ ngoại ngữ; trình độ tin học; các kỹ năng 
mềm như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải 
quyết các vấn đề phát sinh, tinh thần trách 
nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp, 
kinh nghiệm chuyên môn. Chất lượng nguồn 
nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần trong 
quá trình chực hiện việc nâng cao năng lực 
tài chính của công ty CTTC. Nguồn nhân lực 
đồng đều và chất lượng sẽ giúp triển khai các 
hoạt động kinh doanh nhanh chóng và hiệu 
quả, ngăn ngừa, hạn chế được các rủi ro trong 
hoạt động về quy trình, nghiệp vụ và pháp lý. 
Vì vậy, không những trong lĩnh vực tài chính 
mà hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế đều 
xem chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định. 
Đặc biệt, bộ máy quản trị ngân hàng cấp cao 
lại càng phải có chất lượng vì đây là bộ phận 
“đầu não” trong việc xây dựng, hoạch định và 
giám sát thực thi các chiến lược ở cả hệ thống 
công ty CTTC.
Thứ ba, tái cấu trúc về công nghệ. Công 
nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong giai 
4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong thời kỳ hội 
nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các định chế 
tài chính. Theo quy luật, định chế tài chính 
yếu sẽ bị thất bại, định chế tài chính mạnh 
sẽ giành thế chủ động trên thị trường. Hiện 
đại hoá công nghệ ngân hàng bao gồm: Hiện 
đại về trang thiết bị, máy móc - Đây là những 
yếu tố cốt lõi để tạo ra các sản phẩm, dịch 
vụ tài chính tiện ích và an toàn; Hiện đại hoá 
công nghệ còn thể hiện ở các quy trình làm 
việc. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc 
tách rời nhưng cùng hệ thống,  Tạo ra sự 
phối hợp nhịp nhàng, giảm chi phí nhân lực 
cho ngân hàng; Hệ thống kiểm tra, giám sát, 
theo dõi thông tin về khách hàng, hệ thống kế 
toán,  của công ty CTTC đòi hỏi phải có 
sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho các công 
ty CTTC chủ động trong việc dự báo, phòng 
ngừa và hạn chế rủi ro. Công ty CTTC thuộc 
lĩnh vực cung ứng dịch vụ tài chính, hầu hết 
các mảng hoạt động của khu vực tài chính đều 
gắn liền với việc tiếp nhận và xử lý thông tin. 
Việc ứng dụng công nghệ thông tin có ý nghĩa 
quan trọng đối với sự phát triển bền vững và 
có hiệu quả của từng công ty nói riêng và hệ 
thống công ty CTTC nói chung. Do đó, hiện 
đại hoá công nghệ là một nội dung tất yếu 
trong lộ trình tái cấu trúc các công ty CTTC.
Thứ tư, hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt 
động. Thông thường cơ cấu tổ chức hoạt động 
của các công ty CTTC trước khi tái cấu trúc 
thường mang tính chồng chéo và thiếu khoa 
học dẫn đến việc điều hành không có hiệu 
quả. Bởi vậy, khi tái cấu trúc công ty CTTC, 
nội dung về hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt 
động công ty CTTC được xem như một tất 
yếu. Các nội dung cơ bản khi tiến hành tái 
cấu trúc tổ chức và quản lý công ty CTTC: 
Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao 
cho vừa tinh gọn vừa đảm bảo thực hiện hoạt 
động của công ty được tiến hành thông suốt, 
hiệu quả, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu; Phân 
tách giữa chức năng điều hành và chức năng 
giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và 
cân bằng về nguồn lực.
2.3. Tái cấu trúc hệ thống quản trị
Vấn đề quản trị công ty đối với hoạt 
động của các định chế tài chính đã được Ủy 
ban Basel ban hành năm 1999, sửa đổi năm 
2006, bao gồm 14 nguyên tắc cơ bản và chia 
thành sáu nhóm: Bốn nguyên tắc đầu tiên 
quy định rõ trách nhiệm chung, trình độ năng 
lực, thông lệ và cơ cấu riêng của Hội đồng 
quản trị cũng như cấu trúc công ty; Nguyên 
tắc thứ 5 quy định ban điều hành phải đảm 
bảo tất cả các hoạt động của công ty phải 
phù hợp với chiến lược kinh doanh, mức độ 
chấp nhận và chính sách rủi ro đã được Hội 
đồng quản trị phê duyệt; Các nguyên tắc từ 
6 đến 9 yêu cầu doanh nghiệp phải thiết lập 
các hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi 
ro hiệu quả. Các rủi ro cần phải được phát 
hiện, theo dõi trên phạm vi toàn hệ thống, và 
cụ thể cho từng bộ phận kinh doanh. Doanh 
nghiệp cần có mạnh lưới truyền thông nội bộ 
đối với các rủi ro, Hội đồng quản trị và ban 
điều hành phải sử dụng kết quả làm việc của 
bộ phận kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên 
ngoài một cách có hiệu quả; Nguyên tắc 10 
và 11 quy định về chế độ đãi ngộ. Hội đồng 
quản trị phải chủ động giám sát việc thiết 
lập và thực thi chế độ đãi ngộ, chính sách 
đãi ngộ phải gắn liền với quan điểm chấp 
nhận rủi ro một cách thận trọng; Nguyên tắc 
12 và 13 quy định Hội đồng quản trị và Ban 
điều hành tại các công ty có cơ cấu phức tạp 
phải nắm vững cơ cấu hoạt động và rủi ro 
mà công ty phải đối mặt, phải hiểu rõ và tìm 
biện pháp phân tán rủi ro phát sinh; Nguyên 
tắc 14 quy định quản trị phải đảm bảo tính 
5Tái cấu trúc . . .
công khai và minh bạch đối với cổ đông và 
các bên liên quan.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới luôn 
biến động khó lường thì quản trị công ty CTTC 
càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, 
một trong những trọng tâm của quá trình tái cấu 
trúc công ty CTTC Việt Nam là nâng cao năng 
lực quản trị công ty của các công ty CTTC, cải 
thiện và hướng tới chuẩn mực quốc tế về quản 
trị công ty, đảm bảo an toàn, tăng cường tính 
minh bạch, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh 
và phát triển bền vững.
2.4. Tái cấu trúc sở hữu
Trong lĩnh vực tài chính, sở hữu quyết 
định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động 
và việc tuân thủ quy định pháp luật của từng 
loại hình công ty. Việc thay đổi cấu trúc sở 
hữu sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu 
tư, hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện trao 
đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, 
công nghệ giữa các đối tác, giúp các công 
ty CTTC tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu của 
Chính phủ từ đó góp phần nâng cao khả năng 
cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả, 
bền vững cho hệ thống này. 
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng cách tiếp cận tư duy diễn 
dịch và tư duy quy nạp để phân tích thực trạng 
các công ty CTTC Việt Nam bằng phương 
pháp nghiên cứu định tính với thống kê mô 
tả, qua đó chứng minh tính tất yếu cần tái cấu 
trúc và đề xuất những gợi ý chính sách để thực 
hiện tái cấu trúc các công ty CTTC Việt Nam.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thực trạng về tài chính
Theo số liệu từ Hiệp hội CTTC tổng dư nợ 
CTTC đến 31/12/2014 của 8 công ty CTTC 
của Việt Nam là 13.688 tỷ đồng và tổng vốn 
điều lệ của 8 công ty là 3.097 tỷ đồng. So với 
các nước Châu Á, thì hoạt động CTTC của 
Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, 
hoạt động CTTC đã trở thành một trong 
những kênh tài trợ vốn trung và dài hạn quan 
trọng cho các doanh nghiệp để trang bị, đổi 
mới máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất, 
khắc phục được những khó khăn, vướng mắc 
gặp phải khi các doanh nghiệp vay vốn bằng 
tiền ở các tổ chức tín dụng. 
Bảng 1. Tình hình tài chính của các công ty CTTC Đơn vị: Triệu đồng
Stt Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
1 Vốn điều lệ 3.097.813 3.097.813 3.097.813
2 Vốn tự có (8.201.470) (9.339.842) (9.939.984)
3 Nguồn vốn huy động 13.405.507 13.152.597 13.194.039
4 Dư nợ 15.540.464 14.687.559 13.688.002
5 Tỷ lệ nợ xấu (%) 52 49 43
6 Lợi nhuận trước thuế (1.620.038) (916.123) (389.444)
 Nguồn: Hiệp hội cho thuê tài chính
Cũng theo số liệu từ Hiệp hội CTTC thì 
vốn điều lệ trung bình của một công ty CTTC 
ở Việt nam là 387 tỷ đồng. Điều đánh nói là 
qua số liệu cho thấy vốn tự có của các công 
ty CTTC  ...  đến hoạt động CTTC và các 
dịch vụ khác có liên quan. Mặc dù, năng lực 
phát triển sản phẩm của các công ty CTTC 
được đánh giá ở mức độ cao nhất, song việc 
cung ứng các sản phẩm của các công ty CTTC 
còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế này thể hiện ở 
việc các công ty CTTC chưa đa dạng hoá hình 
thức và nghiệp vụ.
+ Về chất lượng sản phẩm dịch vụ. Chất 
lượng dịch vụ của các công ty CTTC cũng 
được đánh giá cao. Với tiêu chí thực hiện 
nghiệp vụ CTTC một cách đơn giản và nhanh 
gọn cho khách hàng, hầu hết từ quy trình, 
cách thức thực hiện cho đến các mẫu biểu liên 
quan đều được các công ty CTTC thiết lập 
theo hướng mang lại thuận tiện và dễ hiểu cho 
khách hàng. Các công ty CTTC hiện nay đều 
không giới hạn địa bàn hoạt động mà trải rộng 
đến tất cả khách hàng có nhu cầu trong cả 
nước. Các dịch vụ tư vấn về công nghệ, máy 
móc thiết bị đều được các công ty CTTC cung 
cấp miễn phí khi khách hàng có nhu cầu. Do 
đó, dịch vụ CTTC ngày càng được thị trường 
biết đến nhiều hơn với những tiện ích thiết 
thực của nó. Tuy nhiên, theo khảo sát năng 
lực chất lượng dịch vụ của các công ty CTTC 
còn nhiều hạn chế như về địa điểm giao dịch, 
thái độ phục vụ và khả năng đáp ứng,vv..
+ Về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là 
yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao năng 
lực của các công ty CTTC, song, chất lượng 
nguồn nhân lực chưa cao. Hoạt động của các 
công ty CTTC đòi hỏi phải có kiến thức về 
kinh tế tài chính và các lĩnh vực liên quan đến 
tài sản cho thuê đòi hỏi nguồn nhân lực không 
những giỏi về kinh tế mà còn am tường về 
kỹ thuật. Song thực tế nguồn nhân lực ở các 
công ty CTTC hiện nay thiếu một trong hai 
yếu tố này, bởi đa phần họ được điều chuyển 
từ các NHTM sang các công ty CTTC. Chính 
vì lý do đó mà nguồn nhân lực của các công 
ty CTTC chưa đáp ứng được những đòi hỏi cả 
về mặt kinh tế và kỹ thuật. Điều này thể hiện 
qua một kết quả khảo sát cho thấy tiêu chí lao 
10
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
động được đào tạo chuyên môn phù hợp đạt 
mức điểm là 2.8711 trên thang điểm 5. Hạn 
chế về nguồn nhân lực của các công ty CTTC 
là tính tuân thủ về đạo đức nghệ nghiệp còn 
ở dưới mức trung bình. Quy trình tuyển dụng 
chưa hợp lý, hiện tượng cục bộ địa phương, 
gửi gắm còn khá phổ biến. Việc đào tạo và 
phát triển nguồn nhân lực chưa có kế hoạch 
thường xuyên và lâu dài nên có nguy cơ cao 
về sự thiếu hụt cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. 
Riêng trình độ của đội ngũ nhân viên thì kém 
xa các đối thủ cạnh tranh. Tính đến 31 tháng 
12 năm 2014 số lượng lao động làm việc ở 
các công ty CTTC ở Việt Nam người lao động 
có trình độ trên đại học chiếm 5,96%, trình độ 
đại học chiếm 41,7%, trình độ cao đẳng chiếm 
28,72% và trình độ khác chiếm 23,62%.
Hình 1. Trình độ lao động của các công ty CTTC đến 31/12/2014
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của các công ty cho thuê tài chính[2]
Vấn đề nguồn nhân lực được các định chế 
tài chính đặc biệt là các định chế tài chính 
nước ngoài thực hiện một cách triệt để. Toàn 
bộ các quy trình làm việc đều được chuẩn hóa 
với các quy định cụ thể về thao tác thực hiện, 
thẩm quyền của từng cấp nhân viên trong giao 
dịch, phương thức xử lý của một số trường 
hợp cụ thể thường gặp. Các quy trình này 
được phổ biến đến mọi nhân viên trong tổ 
chức, trở thành văn hóa kinh doanh của tổ 
chức. Do vậy, đội ngũ nhân viên của các định 
chế tài chính nước ngoài được đánh giá là 
có tính chuyên nghiệp cao và phục vụ khách 
hàng tốt. Trong khi đó, tại các công ty CTTC 
Việt Nam, vấn đề đào tạo cho nhân viên một 
cách chuyên nghiệp chưa được xem trọng, 
hầu hết là nhân viên tự học hỏi lẫn nhau. 
+ Về năng lực phát triển công nghệ. Trình 
độ công nghệ của các công ty CTTC còn thấp. 
Chính trình độ và mức độ ứng dụng công nghệ 
hiện đại trong hoạt động kinh doanh của các 
công ty CTTC còn thấp làm ảnh hưởng rất lớn 
đến chất lượng dịch vụ mà các công ty CTTC 
cung cấp cho khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh 
vực CTTC, việc tính toán khấu hao, kỳ hạn 
nợ, xác định hao mòn vô hình là rất khó khăn.
 + Về mô hình tổ chức. Qua kết quả khảo 
sát cho thấy, năng lực phát triển mạng lưới là 
yếu tố yếu thứ hai sau năng lực tài chính. Các 
TCTD phi ngân hàng chưa nghiên cứu nhu 
cầu, địa bàn và năng lực tài chính cũng như 
rào cản về chính sách pháp luật.
4.3. Thực trạng về hoạt động quản trị
Theo khảo sát thì năng lực quản trị của 
các công ty CTTC ở mức độ 2.79 trên thang 
đo 5 điểm, điều này cho thấy yếu tố này đang 
ở mức trung bình yếu, muốn đứng vững trong 
cạnh tranh thì cần phải cải thiện nhiều.
11
Tái cấu trúc . . .
4.4. Thực trạng về sở hữu
Với 12 công ty CTTC đang hoạt động thì 
có tới 8 công ty CTTC trực thuộc các NHTM, 
1 công ty liên doanh, 1 công ty trực thuộc Tập 
đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam và 3 
công ty có vốn đầu tư 100% nước ngoài. Như 
vậy, tính đa dạng về sở hữu của các công ty 
CTTC chưa cao, chưa có công ty cổ phần, điều 
này sẽ hạn chế trong việc thực hiện các chiến 
lược kinh doanh bởi là đơn vị thực thuộc nên 
bị chi phối bởi các hoạt động của ngân hàng 
mẹ cũng như tập đoàn.
5. Những hạn chế của các công ty cho 
thuê tài chính và yêu cầu bức thiết phải tái 
cấu trúc 
Thứ nhất, hệ thống ra quyết định phức 
tạp và thiếu minh bạch, chưa tách bạch giữa 
quyền sở hữu và quyền kiểm soát, điều hành 
hoạt động, đặc biệt ở các công ty CTTC trực 
thuộc các tổng công ty nhà nước, các NHTM.
Thứ hai, mô hình tổ chức còn nặng tính 
hành chính và thiếu sự tập trung theo chức 
năng. Như vậy, khả năng thống nhất quản lý 
và thực hiện đồng bộ hóa các chính sách về 
khách hàng và sản phẩm bị hạn chế. Bất cập 
này thì không chỉ tồn tại ở các công ty CTTC 
mà còn trong hệ thống NHTM.
Thứ ba, hệ thống kế toán và quản lý tài 
chính, hệ thống thông tin quản lý chưa bảo 
đảm cho quá trình điều hành, kiểm tra, kiểm 
soát có hiệu quả. Các chuẩn mưc về quản trị 
rủi ro chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ tư, năng lực tài chính, hiệu quả kinh 
doanh, cạnh tranh của các công ty này còn 
thấp, tính minh bạch trong hoạt động ngân 
hàng chưa cao. Cạnh tranh chưa lành mạnh, 
thiếu sự hợp tác dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, 
chính sách, pháp luật trong hoạt động ngân 
hàng không được tôn trọng nghiêm minh. 
Mục tiêu chạy theo lợi nhuận đã lấn át yêu 
cầu bảo đảm an toàn kinh doanh và vi phạm 
quy định pháp luật về hoạt động tiền tệ, tín 
dụng ngân hàng là không ít. 
Thứ năm, cùng với năng lực quản trị yếu 
kém, và trình độ nhân sự cả về chuyên môn lẫn 
đạo đức kinh doanh ngân hàng chưa cao làm 
gia tăng mức độ rủi ro hoạt động và vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực tài chinh ngân hàng. 
6. Một số đề xuất để tái cấu trúc các 
công ty cho thuê tài chính Việt Nam
Thứ nhất, tái cấu trúc về tài chính. Xác 
định công tác phát triển nguồn vốn là nhiệm 
vụ trọng tâm quyết định đến việc gia tăng tổng 
tài sản và quy mô hoạt động, vì các công ty 
CTTC đề ra mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn 
hàng năm trung bình từ 20% đến 22%, chủ 
trương đẩy mạnh huy động vốn bằng nhiều 
nguồn thông qua nhiều kênh, tranh thủ nguồn 
vốn giá rẻ của các tổ chức chính trị xã hội, cơ 
quan hành chính sự nghiệp, và doanh nghiệp; 
tích cực tiếp thị, thường xuyên bám sát thị 
trường để đưa ra những giải pháp, chính sách 
huy động vốn linh hoạt, đa dạng, phù hợp với 
mọi phân khúc khách hàng. Thực hiện mua 
bán, sáp nhập công ty và mạnh dạn thực hiện 
phá sản những công ty yếu kém.
Thứ hai, tái cấu trúc về hoạt động. Để thực 
hiện tái cấu trúc hoạt động thì các công ty cần 
tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, tái cấu trúc hoạt động cho thuê. 
Định hướng hoạt động cho thuê tài chính vẫn 
là hoạt động kinh doanh chủ lực vì vậy các 
công ty CTTC đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng 
theo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững; 
điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với 
thế mạnh của các công ty CTTC; tìm kiếm các 
khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, các dự 
án khả thi có hiệu quả kinh tế cao có khả năng 
hoàn trả vốn đúng hạn, có nguồn thu nhập ổn 
định nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 
hàng năm từ 25% đến 30%; tăng cường quản 
trị rủi ro tín dụng, đảm bảo nợ xấu chiếm 
12
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tỷ lệ dưới 1,5%. Trong lĩnh vực đầu tư: đa 
dạng hóa các hoạt động đầu tư, chủ động dự 
báo diễn biến của thị trường tài chính, tiền 
tệ để nắm bắt cơ hội đầu tư trên thị trường, 
đa dạng hóa danh mục đầu tư trên thị trường 
trái phiếu và thị trường tiền tệ, đẩy mạnh đầu 
tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu công 
ty có tiềm năng và triển vọng nhằm nâng cao 
hiệu quả sử dụng vốn và quản lý thanh khoản 
của các công ty CTTC; mở rộng đầu tư thông 
qua viêc bảo lãnh phát hành trái phiếu cho 
doanh nghiệp.
Hai là, thực hiện chiến lược dịch vụ và 
sản phẩm: phát triển đa dạng các dịch vụ và 
sản phẩm của TCTD phi ngân hàng phân 
nhóm dịch vụ và sản phẩm mũi nhọn để tập 
trung phát triển, dựa trên nền tảng công nghệ 
hiện đại để phát triển dịch vụ và sản phẩm 
có tính năng và tiện ích vượt trội so với sản 
phẩm của công ty khác, lấy mức độ thỏa mãn 
nhu cầu của khách hàng là định hướng phát 
triển các dòng sản phẩm dịch vụ, bên cạnh 
đó thực hiện tái cấu trúc lại thu nhập từ các 
hoạt động nghiệp vụ theo hướng giảm dần thu 
nhập từ hoạt động tín dụng và đẩy mạnh thu 
nhập từ các hoạt động dịch vụ và sản phẩm 
nhằm giảm thiểu rủi ro.
Ba là, thực hiện chiến lược nguồn nhân 
lực. Chuẩn hóa nguồn nhân lực theo hướng 
giảm về số lượng, nâng cao chất lượng; tăng 
cường đào tạo, tuyển dụng mới nguồn nhân 
lực chất lượng cao; đổi mới và hoàn thiện cơ 
chế sử dụng lao động và cơ chế chi trả tiền 
lương theo nguyên tắc lợi ích gắn liền với 
trách nhiệm và kết quả công việc của người 
lao động, nâng cao chất lượng công tác quy 
họach, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán 
bộ; thường xuyên tổ chức các đợt thi tuyển 
các chức danh cán bộ quản lý, cán bộ lãnh 
đạo nhằm tạo dựng nguồn cán bộ đáp ứng nhu 
cầu phát triển của hoạt động kinh doanh của 
các công ty CTTC trong những năm tiếp theo. 
Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo và đào 
tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào các lĩnh 
vực chính yếu của tái cấu trúc như: nghiệp vụ 
quản lý chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, 
kiểm toán, quản lý tín dụng và dịch vụ mới.
Bốn là, thực hiện chiến lược công nghệ. 
Coi ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố 
then chốt, là nền tảng để nâng cao năng lực, 
chất lượng, hiệu quả hoạt động, mở rộng thị 
phần, hỗ trợ mọi hoạt động phát triển kinh 
doanh. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải xây 
dựng hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ, 
hiện đại, an toàn, có tính thống nhất, tích hợp, 
ổn định cao; khai thác hiệu quả thành tựu của 
công nghệ mới trong hoạt động quản trị và 
kinh doanh, cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ 
của TCTD phi ngân hàng điện tử hiện đại cho 
khách hàng.
Thứ ba, tái cấu trúc về quản trị điều hành. 
Thực hiện tái cấu trúc về quản trị thì các công 
ty CTTC cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, thực hiện chiến lược về quản trị 
rủi ro. Hình thành những chốt chặn nhằm 
cảnh báo, phòng ngừa và hạn chế mọi rủi ro, 
đảm bảo sự tuân thủ chặt chẽ các quy định 
của pháp luật trong mọi khâu, mọi bộ phận 
nghiệp vụ. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế 
trong các lĩnh vực quản trị rủi ro tín dụng, rủi 
ro hoạt động, rủi ro thị trường, xây dựng chi 
tiết cụ thể những quy định nhằm phòng ngừa 
rủi ro đạo đức; nâng cao chất lượng công cụ 
đo lường rủi ro, đồng thời tăng cường củng cố 
hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm 
toán nội bộ.
Hài là, thực hiện chiến lược tổ chức và 
điều hành. Điều hành bộ máy tổ chức với cơ 
chế phân cấp rõ ràng, hợp lý nhằm đảm bảo có 
sự ràng buộc, kiểm soát và bọc lót cho nhau 
trong công việc; đề cao tính tuân thủ, tính 
quyết đoán và tự chịu trách nhiệm trong quản 
13
Tái cấu trúc . . .
trị điều hành; chuẩn hóa mô hình tổ chức, cơ 
chế quản trị, điều hành; thực hiện chuyển đổi 
mô hình tổ chức của ngân hàng theo các khối 
ngành dọc như khối kinh doanh, khối vận 
hành, khối hỗ trợ phù hợp với xu hướng phát 
triển và chuẩn mực quốc tế để chuyên môn 
hóa sâu giữa các bộ phận, tăng cường kiểm 
soát rủi ro tín dụng.
Thứ tư, thực hiện tái cấu trúc sở hữu. 
Trong giải pháp này thì các công ty CTTC cần 
chú ý đến một số vấn đề sau:
Một là, các NHTM khẩn trương đẩy mạnh 
việc cơ cấu lại các công ty con là công ty CTTC 
theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai 
đoạn 2011 – 2015 ban hành kèm theo Quyết 
định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ 
tướng Chính phủ, hỗ trợ các công ty CTTC 
nâng cao năng lực quản trị, điều hành, năng 
lực tài chính để mở rộng và nâng cao hiệu 
quả hoạt động CTTC nhằm hỗ trợ các doanh 
nghiệp tăng năng lực sản xuất trong điều kiện 
khó khăn về vốn, hạn chế khả năng đọng vốn 
vào tài sản cố định, giúp doanh nghiệp nhanh 
chóng đổi mới công nghệ.
Hai là, đối với vấn đề hợp nhất, sáp nhập 
các công ty CTTC, cần tiếp tục thực hiện mạnh 
mẽ hơn trong các năm tiếp theo như một phần 
của hoạt động tái cấu trúc lại hệ thống các tổ 
chức tín dụng phi ngân hàng.
7. Kết luận
Tái cấu trúc công ty CTTC Việt Nam 
nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định, 
hiệu quả chức năng trung gian tài chính của 
các công ty CTTC. Khi nền kinh tế phát triển 
sẽ đòi hỏi các công ty CTTC phải thay đổi để 
thích ứng, đảm bảo các mặt hoạt động có hiệu 
quả. Sự thay đổi trong điều kiện này phải theo 
nguyên lý vòng xoáy ốc dẫn đến, do vậy cần 
thiết phải tái cấu trúc các công ty CTTC cho 
mục tiêu phát triển. Việc tái cấu trúc không 
chỉ thực hiện khi các công ty CTTC trong tình 
trạng khủng hoảng với mục tiêu hồi sinh, mà 
việc tái cấu trúc còn là công việc thường xuyên 
ngay cả khi các công ty CTTC đang hoạt động 
bình thường hay hoạt động tốt hướng tới mục 
tiêu phát triển. Tái cấu trúc các công ty CTTC 
nếu được xem là công việc thường xuyên sẽ 
tránh gây những hậu quả xấu cho các định chế 
tài chính và nền kinh tế, giảm thiểu được chi 
phí cho việc tái cấu trúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Australian Accounting Standards Board, AASB 137, Provisions, Contingent Liabilities and 
Contingent Assets, viewed 12 Dec 2014, <
AASB137_07-04_COMPoct10_01-11.pdf>
[2]. Báo cáo của các công ty cho thuê tài chính 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
[3]. Berger, A N, R S Demsetz and P E Strahan, 1999, The consolidation of the financial services industry: 
causes, consequences, and implications for the future:, Journal of Banking and Finance, 23,135-94.
[4]. Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 ban hành kèm theo Quyết định 254/QĐ-
TTg ngày 1/3/2012 của Thủ Tướng chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai 
đoạn 2011-2015.
[5]. Guan, T., 2012, Implicaiton of Japan Banking Restructuring to China, Master’s report
[6]. Valerio, 2013, Financial Restructuring, viewed 12 Dec 2014, <
it/docenti/BIANCHI/Seminario13%20maggio%20Le%20ristrutturazioni%20finanziarie%20
operate%20da%20SACE.%20Valerio%20Ranciaro.pdf>
[7].
Page5af2af9b_1455fb67e24_7ff4?_adf.ctrl-state= 
195kp8q82n_129&_afrLoop=5974300882461700

File đính kèm:

  • pdftai_cau_truc_cac_cong_ty_cho_thue_tai_chinh_viet_nam.pdf