Tác dụng bảo vệ gan của viên nang đinh lăng (polyscias fruticosa (l.) harms) trên mô hình gây tổn thương gan mạn tính bằng ethanol

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển kéo theo các bệnh lý tăng men gan, viêm gan do

nhiều nguyên nhân khác nhau như từ thực phẩm, rượu, thuốc lá, tác dụng phụ của thuốc

tân dược cũng ngày càng gia tăng, đặc biệt là tác nhân do rượu. Một nghiên cứu đã chỉ ra

rằng, những người nghiện rượu có chỉ số aspartate transaminase (ALT) và alanine

transaminase (AST), hàm lượng malonyl dialdehyd (MDA) tăng cao và hàm lượng

glutathion (GSH) suy giảm. Nghiên cứu tiến hành đánh giá tác dụng bảo vệ gan của viên

nang Đinh lăng trên mô hình chuột nhắt trắng bị gây tổn thương gan mạn tính bằng rượu

với các liều tăng dần trong 4 tuần. Kết quả cho thấy Viên nang Đinh lăng ở liều uống 1

viên/kg và 2 viên/kg đều thể hiện tác dụng ức chế sự gia tăng hoạt độ AST, ALT trong huyết

tương chuột từ tuần đầu tiên của mô hình. Đồng thời Viên nang Đinh lăng làm giảm hàm

lượng MDA và phục hồi hàm lượng GSH nội sinh trong dịch đồng thể gan chuột về mức

bình thường, tác dụng tương tự như silymarin liều 0,1 g/kg. Điều này cho thấy Viên nang

Đinh lăng có tác dụng bảo vệ gan chuột trước tổn thương oxy hóa gây bởi tác nhân rượu.

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Tác dụng bảo vệ gan của viên nang đinh lăng (polyscias fruticosa (l.) harms) trên mô hình gây tổn thương gan mạn tính bằng ethanol", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác dụng bảo vệ gan của viên nang đinh lăng (polyscias fruticosa (l.) harms) trên mô hình gây tổn thương gan mạn tính bằng ethanol

Tác dụng bảo vệ gan của viên nang đinh lăng (polyscias fruticosa (l.) harms) trên mô hình gây tổn thương gan mạn tính bằng ethanol
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
132 
TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA VIÊN NANG ĐINH LĂNG 
(POLYSCIAS FRUTICOSA (L.) HARMS) TRÊN MÔ HÌNH GÂY TỔN 
THƯƠNG GAN MẠN TÍNH BẰNG ETHANOL 
Trần Công Luận1*, Nguyễn Hoàng Minh2, Đào Trần Mộng2, 
 Nguyễn Lĩnh Nhân2, Trần Mỹ Tiên2 và Nguyễn Thị Thu Hương2 
1Trường Đại học Tây Đô - Tp.Cần Thơ 
2 Trung Tâm Sâm và Dược liệu Tp. Hồ Chí Minh - Viện Dược liệu 
(Email: [email protected]) 
Ngày nhận: 15/11/2017 
Ngày phản biện: 10/12/2017 
Ngày duyệt đăng: 20/12/2017 
TÓM TẮT 
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển kéo theo các bệnh lý tăng men gan, viêm gan do 
nhiều nguyên nhân khác nhau như từ thực phẩm, rượu, thuốc lá, tác dụng phụ của thuốc 
tân dược cũng ngày càng gia tăng, đặc biệt là tác nhân do rượu. Một nghiên cứu đã chỉ ra 
rằng, những người nghiện rượu có chỉ số aspartate transaminase (ALT) và alanine 
transaminase (AST), hàm lượng malonyl dialdehyd (MDA) tăng cao và hàm lượng 
glutathion (GSH) suy giảm. Nghiên cứu tiến hành đánh giá tác dụng bảo vệ gan của viên 
nang Đinh lăng trên mô hình chuột nhắt trắng bị gây tổn thương gan mạn tính bằng rượu 
với các liều tăng dần trong 4 tuần. Kết quả cho thấy Viên nang Đinh lăng ở liều uống 1 
viên/kg và 2 viên/kg đều thể hiện tác dụng ức chế sự gia tăng hoạt độ AST, ALT trong huyết 
tương chuột từ tuần đầu tiên của mô hình. Đồng thời Viên nang Đinh lăng làm giảm hàm 
lượng MDA và phục hồi hàm lượng GSH nội sinh trong dịch đồng thể gan chuột về mức 
bình thường, tác dụng tương tự như silymarin liều 0,1 g/kg. Điều này cho thấy Viên nang 
Đinh lăng có tác dụng bảo vệ gan chuột trước tổn thương oxy hóa gây bởi tác nhân rượu. 
Từ khóa: Đinh lăng, bảo vệ gan, ALT, AST, MDA, GSH. 
Trích dẫn: Trần Công Luận, Nguyễn Hoàng Minh, Đào Trần Mộng, Nguyễn Lĩnh Nhân, Trần Mỹ 
Tiên và Nguyễn Thị Thu Hương, 2017. Tác dụng bảo vệ gan của nang Đinh lăng 
(Polyscias fruticosa (L.) Harms) trên mô hình gây tổn thương gan mạn ehtanol. Tạp chí 
Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 02: 132-140. 
*PGS.TS. Trần Công Luận, Hiệu trưởng, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
133 
1.ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rượu bia gây ảnh hưởng tới rất nhiều 
cơ quan như gan, thận, não Trong đó 
gan là cơ quan bị tổn thương nhiều nhất. 
Với trên 95% lượng rượu hấp thụ trong 
cơ thể sẽ được chuyển hóa ở gan, phần 
còn lại sẽ được bài tiết ra ngoài thông 
qua mồ hôi và nước tiểu. Trong quá 
trình chuyển hóa rượu tạo ra các gốc tự 
do gây peroxy hóa làm tổn thương các 
tế bào gan dẫn đến một số bệnh gan do 
rượu như gan nhiễm mỡ, xơ hóa gan, 
viêm gan, ung thư gan (Onyemelukwe, 
2013). 
Nếu như khả năng chống oxy hóa của 
cơ thể cao thì xác suất mắc bệnh và mức 
độ bệnh tật sẽ giảm. Do đó, việc nghiên 
cứu tìm ra những tác nhân chống oxy 
hóa (antioxidant) để dự phòng những 
bệnh lý gây bởi tác hại của gốc tự do là 
một trong những nhiệm vụ trọng tâm 
của ngành Dược trong việc nâng cao 
sức khoẻ và tuổi thọ con người. 
Theo kinh nghiệm dân gian, Đinh 
lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms) 
được dùng chữa ho, ho ra máu, thông 
tiểu, có tác dụng giải độc; được sử dụng 
nhiều trong bài các bài thuốc điều trị 
bệnh gan, suy giảm miễn dịch, Từ 
2000-2007, Nguyễn Thị Thu Hương và 
cộng sự đã nghiên cứu Đinh lăng có tác 
dụng tăng lực, kích thích các hoạt động 
của não bộ, giải tỏa lo âu, chống oxy 
hóa, bảo vệ gan, kích thích miễn dịch 
(Nguyễn Thượng Dong, 2007). Do đó, 
đề tài tiến hành nghiên cứu đánh giá tác 
dụng bảo vệ gan của chế phẩm viên 
nang Đinh lăng trên mô hình gây tổn 
thương gan bằng ethanol ở chuột nhắt 
trắng. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Chế phẩm viên nang Đinh lăng được 
bào chế tại phòng Hóa chế phẩm Trung 
tâm Sâm và Dược liệu Tp.Hồ Chí Minh. 
Viên nang Đinh lăng được bào chế từ 
cao chiết cồn lá và rễ Đinh lăng. Chế 
phẩm bào chế từ lá và rễ Đinh lăng 
được khảo sát ở các liều tương đương 
với liều dự kiến sử dụng trên người tính 
theo hệ số quy đổi là 1 viên và 2 viên/kg 
trọng lượng chuột (thành phần trong 
viên nang pha với dung môi nước cất 
khi thử nghiệm). 
2.2. Động vật nghiên cứu 
Chuột nhắt trắng đực, chủng Swiss 
albino, trưởng thành 5-6 tuần tuổi, trọng 
lượng 25 ± 2 g được cung cấp bởi Viện 
Vắc xin và Sinh phẩm Y tế – TP. Nha 
Trang. Chuột được nuôi bằng thực 
phẩm viên, nước uống đầy đủ và được 
để ổn định ít nhất một tuần trước khi 
thử nghiệm. Thể tích cho uống là 10 
ml/kg thể trọng chuột. 
2.3. Hóa chất - thuốc thử nghiệm 
Ethanol (Công ty Dược Phẩm OPC), 
Acid thiobarbituric (TBA) (Merck – 
Đức), Thuốc thử Ellman [5,5’-dithiobis 
- (2-nitrobenzoic acid)] (Sigma, Mỹ), 
Silymarin (Sigma-Aldrich, Mỹ), kit 
định lượng AST, ALT (Human - Đức) 
2.4. Phương pháp nghiên cứu 
Mô hình gây tổn thương gan bằng 
ethanol 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
134 
Chuột thí nghiệm chia ngẫu nhiên với 
mỗi lô n= 8 – 10 con chuột, thực 
nghiệm kéo dài 5 tuần: 
- Lô sinh lý: Uống nước cất. 
- Lô bệnh lý: Uống nước cất và uống 
ethanol. 
- Lô thử 1: Uống viên nang Đinh lăng 
liều 1 viên/kg và uống ethanol. 
- Lô thử 2: Uống viên nang Đinh lăng 
liều 2 viên/kg và uống ethanol. 
- Lô đối chiếu: Uống silymarin liều 0,1 
g/kg và uống ethanol. 
Sau 1 giờ cho chuột uống mẫu thử 
tiến hành cho chuột uống ethanol liên 
tục theo nồng độ tăng dần từng tuần 
(10%, 20%, 30%, 40%) với thể tích cho 
uống là 10 ml/kg thể trọng chuột, trong 
vòng 4 tuần. 
Tuần 5, các lô thử nghiệm tiếp tục 
cho uống mẫu thử, không cho uống 
ethanol. 
Thực hiện lấy máu tĩnh mạch đuôi 
chuột kiểm tra hoạt độ AST, ALT sau 2 
tuần và sau 4 tuần ở các lô thử nghiệm 
(theo bộ kit định lượng AST, ALT của 
Human – Đức). 
Thực hiện tách gan định lượng hàm 
lượng malonyl dialdehyd (MDA) và 
glutathion (GSH) sau 5 tuần ở các lô thử 
nghiệm (sau 1 giờ uống mẫu thử) 
(Fang-Ping Liu, 2016). 
Phương pháp định lượng malonyl 
dialdehyd (MDA) và glutathion (GSH) 
trong gan 
Tách gan chuột và nghiền đồng thể 
trong dung dịch đệm KCl 1,15%, ly tâm 
ở tốc độ 13.000 vòng trong 1 phút. Sau 
đó, lấy 2 ml dịch đồng thể (cho định 
lượng MDA) hoặc 1 ml dịch đồng thể 
(cho định lượng GSH), bổ sung dung 
dịch đệm Tris (pH = 7,4) vừa đủ 3 ml. 
Ủ hỗn hợp phản ứng ở 37 oC trong 60 
phút và dừng phản ứng bằng 1 ml acid 
trichloroacetic (TCA) 10%. Sau đó, đem 
ly tâm hỗn hợp ở 10.000 vòng/phút 
trong 10 phút ở 5 oC. 
Đối với định lượng MDA: Sau khi ly 
tâm lấy 2 ml dịch trong cho phản ứng 
với 1 ml thiobarbituric acid 0,8% ở 100 
oC trong 15 phút và đo mật độ quang ở λ 
= 532 nm. Hàm lượng MDA (nM/g 
protein) được tính theo phương trình hồi 
quy tuyến tính của chất chuẩn MDA 
(Nguyễn Thị Thu Hương, 2014), 
(Stroev E. A., Makarova V. G, 1989). 
Đối với định lượng GSH: Sau khi ly 
tâm lấy 1 ml dịch trong cho phản ứng 
với 0,2 ml thuốc thử Ellman là 5,5’–
dithiobis–(2–nitrobenzoic acid) và thêm 
đệm phosphate – EDTA (pH 7,4) vừa 
đủ 3 ml. Để 3 phút ở nhiệt độ phòng và 
sau đó tiến hành đo mật độ quang ở 
bước sóng  = 412 nm. Hàm lượng 
GSH (nM/g protein) được tính theo 
phương trình hồi quy tuyến tính của 
chất chuẩn GSH (Nguyễn Thị Thu 
Hương, 2014). 
Đánh giá kết quả 
Các số liệu được biểu hiện bằng giá 
trị trung bình: M ± SEM (Standard error 
of the mean – sai số chuẩn của giá trị 
trung bình) và được xử lý thống kê dựa 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
135 
vào phép kiểm One – Way ANOVA và 
Dunnett test (phần mềm SigmaStat 3.5, 
USA). Kết quả thử nghiệm đạt ý nghĩa 
thống kê với độ tin cậy 95% khi p < 
0,05 so với lô đối chứng. 
3. KẾT QUẢ 
3.1. Kết quả hoạt độ AST trong 
huyết tương chuột bị gây tổn thương 
gan bằng ethanol ở các lô thử nghiệm 
Kết quả Bảng 1 cho thấy hoạt độ 
AST của lô đối chứng khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (32,82- 49,42%) so với 
lô sinh lý ở các tuần khảo sát. 
Bảng 1. Hoạt độ AST trong huyết tương chuột bị gây tổn thương gan bằng ethanol 
Lô (n = 8 – 10) 
Hoạt độ AST (U/L) 
Sau 1 tuần Sau 2 tuần Sau 3 tuần Sau 4 tuần 
Sinh lý 43,50 ± 2,43 45,38 ± 4,63 45,38 ± 1,29 41,13 ± 2,00 
Bệnh lý 65,00 ± 3,58# 59,25 ± 1,73# 61,38 ± 3,94# 60,13 ± 1,73# 
Viên nang Đinh lăng 
(1 viên/kg) 
61,00 ± 3,68 52,75 ± 3,51 47,50 ± 4,95* 42,50 ± 4,14* 
Viên nang Đinh lăng 
(2 viên/kg) 
46,88 ± 8,14* 54,13 ± 2,55 51,25 ± 2,78 47,63 ± 4,07* 
Silymarin (0,1 g/kg) 42,25 ± 5,23* 47,50 ± 2,53* 42,25 ± 5,37* 36,00 ± 2,73* 
(#) p< 0,05 so với lô sinh lý. 
(*) p< 0,05 so với lô đối chứng. 
Lô bệnh lý cho uống viên nang Đinh 
lăng liều 1 viên/kg đều thể hiện tác 
dụng làm giảm hoạt độ AST 22,61- 
29,31% đạt ý nghĩa thống kê so với lô 
đối chứng ở khảo sát sau tuần 3 và tuần 
4. Lô bệnh lý cho uống viên nang Đinh 
lăng liều 2 viên/kg đều thể hiện tác 
dụng làm giảm hoạt độ AST 20,79 - 
27,88% đạt ý nghĩa thống kê so với lô 
đối chứng ở khảo sát sau tuần 1, tuần 4. 
Giá trị hoạt độ AST ở các lô cho 
uống viên nang Đinh lăng không có sự 
khác biệt ở các liều thử nghiệm, đều thể 
hiện tác dụng giảm hoạt độ AST trên 
mô hình gây tổn thương gan bằng 
ethanol, trở về mức bình thường và có 
tác dụng tương đương với chứng dương 
silymarin liều 0,1 g/kg. 
3.2. Kết quả hoạt độ ALT trong 
huyết tương chuột bị gây tổn thương 
gan bằng ethanol ở các lô thử nghiệm 
Kết quả Bảng 2 cho thấy hoạt độ 
ALT của lô đối chứng khác biệt có ý 
nghĩa thống kê 30,49- 75,05% so với lô 
sinh lý ở các tuần khảo sát. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
136 
Bảng 2. Hoạt độ ALT trong huyết tương chuột bị gây tổn thương gan bằng ethanol 
Lô (n = 8 – 10) 
Hoạt độ ALT (U/L) 
Sau 1 tuần Sau 2 tuần Sau 3 tuần Sau 4 tuần 
Sinh lý 43,38 ± 2,93 42,75 ± 2,43 40,13 ± 2,99 42,13 ± 3,45 
Bệnh lý 67,33 ± 5,74# 61,50 ± 3,33# 70,25 ± 5,23# 61,88 ± 3,63# 
Viên nang Đinh lăng 
(1 viên/kg) 
56,25 ± 2,27 56,00 ± 3,91 57,63 ± 6,51 53,38 ± 6,39 
Viên nang Đinh lăng 
(2 viên/kg) 
41,50 ± 3,87* 59,13 ± 1,37 53,88 ± 3,09* 54,50 ± 3,96 
Silymarin (0,1 g/kg) 46,50 ± 4,49* 51,75 ± 2,80* 52,13 ± 3,54* 46,38 ± 3,45* 
(#) p< 0,05 so với lô sinh lý. 
(*) p< 0,05 so với lô đối chứng. 
Lô bệnh lý cho uống viên nang Đinh 
lăng liều 2 viên/kg thể hiện tác dụng 
làm giảm hoạt độ ALT 23,30-38,36% 
đạt ý nghĩa thống kê so với lô đối chứng 
ở khảo sát sau tuần 1 và tuần 3, trở về 
mức bình thường và có tác dụng tương 
đương với chứng dương silymarin liều 
0,1 g/kg. 
3.3. Kết quả hàm lượng malonyl 
dialdehyd (MDA) trong gan chuột bị 
gây tổn thương gan bằng ethanol ở 
các lô thử nghiệm 
Kết quả Bảng 3 cho thấy lô đối 
chứng có hàm lượng MDA tăng 46,28% 
đạt ý nghĩa thống kê so với lô sinh lý. 
Khi sử dụng ethanol dài ngày làm tăng 
enzym P450 (CYP) 2E1, enzym này 
tham gia chuyển hóa ethanol tạo các gốc 
tự do lipid. Đây chính là nguyên nhân 
hình thành hàng loạt các phản ứng 
peroxy hóa lipid tế bào gây ra sự phá 
hủy cấu trúc của màng tế bào dẫn đến 
MDA tăng cao. 
Bảng 3. Hàm lượng MDA trong gan chuột bị gây tổn thương gan bằng ethanol 
Lô (n = 8 – 10) 
Hàm lượng MDA 
(nM/g protein) 
Sinh lý 33,83 ± 2,03 
Bệnh lý 62,98 ± 7,94# 
Viên nang Đinh lăng (1 viên/kg) 31,65 ± 5,05* 
Viên nang Đinh lăng (2 viên/kg) 34,34 ± 7,80* 
Silymarin (0,1 g/kg) 35,76 ± 3,33* 
(#) p< 0,05 so với lô sinh lý. 
 (*) p< 0,05 so với lô đối chứng. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
137 
Các lô bệnh lý được điều trị bằng 
viên nang Đinh lăng liều 1 hoặc 2 
viên/kg có hàm lượng MDA giảm 
45,47- 49,74% đạt ý nghĩa thống kê so 
với lô đối chứng. 
Trên mô hình gây tổn thương gan 
bằng ethanol, ở các lô cho uống viên 
nang Đinh lăng đều thể hiện tác dụng 
giảm hàm lượng MDA trở về mức bình 
thường và có tác dụng tương đương với 
chứng dương silymarin liều 0,1 g/kg và 
có hàm lượng MDA không khác biệt ở 
các liều thử nghiệm. 
3.4. Kết quả hàm lượng glutathione 
(GSH) trong gan chuột bị gây tổn 
thương gan bằng ethanol ở các lô thử 
nghiệm 
Kết quả Bảng 4 cho thấy lô đối 
chứng có hàm lượng GSH tăng 54,26% 
đạt ý nghĩa thống kê so với lô sinh lý. 
Các lô bệnh lý uống viên nang Đinh 
lăng liều 1-2 viên/kg phục hồi hàm 
lượng GSH 80,80- 87,70% đạt ý nghĩa 
thống kê so với lô đối chứng. 
Bảng 4. Hàm lượng GSH trong gan chuột bị gây tổn thương gan bằng ethanol 
Lô (n = 8 – 10) 
Hàm lượng GSH 
(nM/g protein) 
Sinh lý 6665,99 ± 378,70 
Bệnh lý 3048,64 ± 397,64# 
Viên nang Đinh lăng (1 viên/kg) 5512,06 ± 357,11* 
Viên nang Đinh lăng (2 viên/kg) 5722,37 ± 447,19* 
Silymarin (0,1 g/kg) 5768,40 ± 350,68* 
(#) p< 0,05 so với lô sinh lý. 
(*) p< 0,05 so với lô đối chứng. 
Ở các lô bệnh lý khi bị gây tổn 
thương gan bằng ethanol được điều trị 
bằng viên nang Đinh lăng ở liều 1 hoặc 
2 viên/ kg thể trọng chuột đều có hàm 
lượng GSH phục hồi về mức bình 
thường, có tác dụng tương đương với 
chứng dương silymarin liều 0,1 g/kg và 
có hàm lượng GSH không khác biệt ở 
các liều thử nghiệm viên nang Đinh 
lăng. 
4. THẢO LUẬN 
Với một lượng ethanol vừa phải sẽ 
được chuyển hóa nhờ vào các alcohol 
dehydrogenase (ADH), cytochrom P450 
2E1 (CYP2E1), catalase hình thành 
acetaldehyd. Sau đó acetaldehyd sẽ đi 
vào ty thể và được oxy hóa thành acetat 
bởi aldehyd dehydrogenase (ALDH), 
cuối quá trình chuyển hóa hình thành 
CO2 và nước. Khi sử dụng với một 
lượng rượu cao thì quá trình chuyển hóa 
bị quá tải sẽ tích tụ các chất độc hại gây 
tổn thương đến tế bào gan. Khi các tế 
bào gan bị tổn thương sẽ dẫn đến rối 
loạn cấu trúc và chức năng gan. Khi gan 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
138 
bị tổn thương các tế bào gan bị hoại tử 
sẽ giải phóng các aminotransferase vào 
máu, hoạt độ của AST và ALT sẽ tăng 
cao hơn so với mức bình thường (Lu, 
2012), (Fang-Ping Liu, 2016). Trong 
mô hình gây tổn thương gan do rượu giá 
trị AST, ALT tăng rõ rệt ở lô đối chứng 
so với lô sinh lý, chứng tỏ gan bị tổn 
thương do rượu. Ngoài ra ở lô đối 
chứng có giá trị hàm lượng MDA tăng 
và hàm lượng GSH nội sinh giảm đạt ý 
nghĩa thống kê so với lô sinh lý, do 
trong quá trình chuyển hóa rượu bởi 
enzym cytochrom P450 2E1 (CYP 2E1) 
đã hình thành các gốc tự do (ROS), nó 
tấn công vào các phospholipid màng tế 
bào gây ra quá trình peroxy hóa lipid 
hình thành MDA và ROS làm giảm 
GSH nội sinh. 
Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh 
rễ và lá Đinh lăng chứa nhiều hợp chất 
có hoạt tính sinh học thể hiện khả năng 
chống oxy hóa. Ngô Ứng Long và cộng 
sự (1986) đã chứng minh trong rễ và lá 
Đinh lăng chứa nhiều saponin, alkaloid, 
glycosid, phytosterol (Ngô Ứng Long, 
1998). Võ Duy Huấn và cộng sự (1998) 
đã phân lập được các acid oleanolic với 
4 saponin mới (polysciosid) và 3 
saponin đã biết trước (ladyginosid A, 
zingibrosid – R1 và hợp chất số 6) từ lá 
và rễ Đinh lăng (Vo Duy Huan, 1998). 
Kyoung Ah Kim và cộng sự (2003) đã 
chứng minh rằng acid oleanolic có tác 
dụng ức chế CYP1A2. Trần Công Luận 
và cộng sự (1996) còn phân lập được 5 
hợp chất polyacetylen trong lá Đinh 
lăng (Trần Công Luận, 2001). Nguyễn 
Thị Thu Hương và cộng sự (2003) đã 
chứng minh saponin trong cao rễ hoặc 
cao lá Đinh lăng ở nồng độ 50 mg/ml 
thể hiện hoạt tính bắt gốc superoxyd gần 
45%; saponin trong cao rễ hoặc cao lá 
Đinh lăng ở nồng độ 500 mg/ml thể 
hiện hoạt tính tạo phức với sắt II hơn 
80% (Nguyễn Thị Thu Hương, 2003). 
Nguyễn Thị Thu Hương và cộng sự 
(2005) đã chứng minh cao lá và cao rễ 
Đinh lăng cùng liều 100 mg/kg/ngày thể 
hiện tác dụng làm giảm hàm lượng 
MDA trong não chuột bị stress lần lượt 
là 29%, 21% so với lô đối chứng uống 
nước cất (Nguyễn Thị Thu Hương, 
2005). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu 
Hương và cộng sự (2005) cũng chứng 
minh saponin trong cao lá thể hiện tác 
dụng ức chế peroxy hóa lipid tương 
đương như cao toàn phần, cho thấy 
saponin là hợp chất chính trong cao lá 
Đinh lăng quyết định khả năng chống 
oxy hóa in vivo (Nguyễn Thị Thu 
Hương, 2005). Ngoài ra, Nguyễn Thị 
Thu Hương và cộng sự (2004) còn 
chứng minh cao rễ, cao phối hợp rễ - lá 
và cao lá Đinh lăng oxy ở cùng liều 100 
mg/kg đã duy trì hàm lượng MDA trong 
não chuột bị gây tổn thương gan cấp 
bằng CCl4 về mức bình thường; hoạt 
tính chống oxy hóa ở mô não của cao lá 
21%, cao phối hợp 20%, cao rễ 16%; 
tương tự với tác dụng chống oxy hóa 
của vitamin E và Omitan® (chế phẩm 
chứa 25 mg biphenyl dimethyl 
dicarboxylat, hoạt chất tương tự 
schisandrin C, có tác dụng bảo vệ gan) 
(Nguyễn Thị Thu Hương, 2004). Kết 
quả nghiên cứu đánh giá tác dụng bảo 
vệ gan của chế phẩm viên nang Đinh 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
139 
lăng liều 1-2 viên/kg trên mô hình gây 
tổn thương gan do ethanol, giúp làm 
giảm hoạt độ AST và ALT, giảm hàm 
lượng MDA (malonyl dialdehyd) và 
phục hồi lại hàm lượng GSH 
(glutathion) nội sinh đạt ý nghĩa thống 
kê so với lô bệnh lý uống nước cất, có 
tác dụng tương đương với chứng dương 
silymarin; phù hợp với các cơ sở khoa 
học như trên, saponin là hợp chất chính 
trong lá và rễ Đinh lăng có tác dụng 
chống oxy hóa bảo vệ gan theo hướng 
ức chế quá trình peroxy hóa lipid tế bào. 
Điều này cho thấy viên nang Đinh lăng 
được lựa chọn là một chế phẩm mới 
trong việc sử dụng hỗ trợ điều trị bệnh 
gan do rượu tạo ra. 
5. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu đã chứng minh chế phẩm 
viên nang Đinh lăng có tác dụng làm 
giảm hoạt độ AST và ALT, giảm hàm 
lượng MDA và phục hồi glutathion nội 
sinh trên mô hình gây tổn thương gan 
dài ngày bằng rượu. 
Lời cám ơn 
Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm 
ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh An 
Giang đã cấp kinh phí để thực hiện đề 
tài. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Fang-Ping Liu, Xin Ma, Min-Min 
Li, Zhi Li, Qing Han, Rui Li, Chang-
Wen Li, Yi-Cong Chang, Chang-Wei 
Zhao, Yue-Xia Lin, 2016. 
Hepatoprotective effects of Solanum 
nigrum against ethanol-induced injury in 
primary hepatocytes and mice with 
analysis of glutathione S-transferase A1. 
Journal of the Chinese Medical 
Association, 79, pp. 65 – 71. 
2. Lu, Y., Zhang, X.H. and 
Cederbaum, A.I., 2012. Ethanol 
Induction of CYP2A5: Role of 
CYP2E1-ROS-Nrf2 Pathway. 
Toxicological Sciences, 128(2), pp. 427 
– 438. 
3. Ngô Ứng Long, (1986). Cây Đinh 
lăng. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 
Nguyễn Thị Thu Hương, Hoàng Thị 
Mận, 2003. Tác dụng chống oxy hóa in 
vitro của Đinh lăng Polyscias fruticosa 
(L.) Harms, Araliaceae. Tạp chí Dược 
liệu, 8(5), 142 – 146. 
4. Nguyễn Thị Thu Hương, Lương 
Kim Bích, Đoàn Thị Ngọc Hạnh, 2005. 
Nghiên cứu tác dụng của sâm Việt Nam 
và Đinh lăng trên trí nhớ. Tạp chí Dược 
liệu, 10(6), pp. 196 – 200. 
5. Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn 
Thị Ánh Như, 2004. Nghiên cứu tác 
dụng bảo vệ gan của Đinh lăng dựa trên 
cơ chế tác dụng chống oxy hóa. Tạp chí 
Dược liệu, 8(4), pp. 114 – 118. 
6. Nguyễn Thị Thu Hương, Tất Hiến 
Khoa, Nguyễn Minh Hùng (2014). Tác 
dụng bảo vệ gan của viên Xích Linh 
Chi. Y học Tp. Hồ Chí Minh, 18(1), pp. 
91-99. 
7. Nguyễn Thượng Dong, Trần Công 
Luận, Nguyễn Thị Thu Hương, 2007. 
Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ 
Nhân Sâm. Nhà xuất bản Khoa học và 
Kỹ thuật Hà Nội, pp. 292 – 325. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
140 
8. Onyemelukwe, Anulika, 2013. 
Histopathological effects of alcohol 
[ethanol] on the liver, kidney and uterus 
of pregnant female albino wistarats. 
University of Nigeria, pp. 10 – 21. 
9. Stroev E. A., Makarova V. G, 
1989. Determination of lipid 
peroxidation rate in tissue homogenate 
laboratory. In: Manual in Biochemistry, 
Moscow, pp. 243 – 256. 
10. Trần Công Luận, Hồ Thị Tuyết 
Linh, Phạm Thị Xuân Thắm, Nguyễn 
Thành Nguyên, Nguyễn Thượng Dong, 
2001. Hợp chất polyacetylen trong lá 
Đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) 
Harms, Araliaceae) trong Công trình 
nghiên cứu khoa học (1987 – 2000)- 
Viện Dược liệu, Nhà Xuất bản Khoa học 
và Kỹ thuật, pp. 238 – 240. 
11. Vo Duy Huan, Yamamura S., 
Ohtani K., Kasai R., Yamasaki K., 
Nguyen Thoi Nham, Hoang Minh Chau, 
1998. Oleane saponins from Polyscias 
fruticosa. Phytochemistry, 47(3), pp. 
451 – 457. 
12. Wei-Wei Xing and Min-Ji Zou, 
2011. Interleukin-22 Protects against 
Acute Alcohol-Induced Hepatotoxicity 
in Mice. Biotechnol Biochem, 75(7), pp. 
1290 – 1294. 
THE HEPATOPROTECTIVE EFFECTS 
OF POLYSCIAS FRUTICOSA (L.) HARMS CAPSULES ON 
ETHANOL - INDUCED CHRONIC LIVER DAMAGE 
Tran Cong Luan1, Nguyen Hoang Minh2, Dao Tran Mong2, 
 Nguyen Linh Nhan2, Tran My Tien2 and Nguyen Thi Thu Huong2* 
1 Tay Do University 
2 Research Center of Ginseng and Medical Materials 
(Email: [email protected]) 
ABSTRACT 
Nowadays, the damage of liver is growing in the society. It is due to various causes such 
as unsafety, alcohol overdrinking, adversed effects of drugs... is also increasing especially 
due to alcohol. One study was showed that alcoholics had increased AST, ALT, MDA 
levels and decreased GSH levels in liver. Experimental research on hepatoprotective 
effect of Polyscias fruticose capsules (PF) by applying the gradually increasing doses of 
ethanol for 4 weeks to induce chronic hepatotoxicity in mice. The oral administration of 
PF capsules (1 and 2 capsules/kg) in ethanol-intoxicated mice inhibited the increases in 
plasma AST, ALT in plasma, from the 1st week. PF capsules alleviated in the hepatic MDA 
and GSH levels return to normal value, as well as silymarin (0.1 g/kg. The results showed 
that PF capsules possess hepatoprotective activity on oxidative stress-induced liver 
damage. 
Key words: Polyscias fruticose, hepatoprotective effects, AST, ALT, MDA, GSH. 

File đính kèm:

  • pdftac_dung_bao_ve_gan_cua_vien_nang_dinh_lang_polyscias_frutic.pdf