Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật

Đặt vấn đề: Tắc động mạch chủ chậu mạn tính (TĐMCCMT) là một bệnh lý khá thường gặp,

nguyên nhân chính là do xơ vữa động mạch. Đa số bệnh được phát hiện vào giai đoạn muộn đã có hoại

tử chi nên thường gây hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá đặc điểm

tắc động mạch chủ chậu, các phương pháp chẩn đoán và điều trị phẫu thuật cũng như kết quả điều trị.

Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu mô tả hang loạt ca, đánh giá các đặc điểm về tuổi, giới tính, vị

trí và mức độ của hẹp tắc động mạch chủ chậu. CT scan và X quang động mạch được áp dụng cho tất

cảc các trường hợp để chẩn đoán tắc động mạch chủ chậu. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ ngực

- động mạch đùi cho những trường hợp tắc ngang động mạch thận. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch

chủ bụng động mạch chậu/ đùi cho những trường hợp tắc dưới động mạch thận. Phẫu thuật cầu nối

động mạch nách - đùi hoặc đùi - đùi cho những trường hợp thể trạng yếu, nguy cơ phẫu thuật cao. Kết

quả: Trong thời gian 10 năm từ 1/2004 - 1/2014 có 46 trường hợp tắc động mạch chủ chậu được điều

trị tại Bệnh viện Thống nhất. Tuổi trung bình là 65.7 nhỏ nhất là 32 và lớn nhất là 81 tuổi. Có 39 nam

và 7 nữ. 7 trường hợp tắc động mạch chủ bung dưới động mạch thận và 2 trường hợp tắc ngang động

mạch thận. 37 trưởng hợp tắc động mạch chậu. 42 trường hợp tắc do xơ vữa động mạch, 4 trường hợp

có nguyên nhân do viêm xơ hóa động mạch chủ. 18 trường hợp vào viện với tổn thương loét hoặc hoại

tủ ở chân. Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ ngực - động mạch đùi 2 bên được áp dụng cho2 trường

hợp, cầu nối động mạch chủ bụng động mạch chậu 2 bên cho 2 trường hợp, động mạch chủ bụng động

mạch đùi 2 bên cho 5 trường hợp. Cầu nối động mạch nách - đùi trong 8 trường hợp, Cầu nối động

mạch đùi - đùi (chéo bên) cho 4 trường hợp. 15 trường hợp được thực hiện phẫu thuật cầu nối động

mạch chậu - đùi. 10 trường hợp được can thiệp nội mạch nong và/hoặc đặt stent động mạch.

 

pdf 6 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật

Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014138
MỞ ĐẦU
Tắc động mạch chủ chậu bụng mạn tính là một 
tổn thương tương đối thường gặp, nguyên nhân 
thường gặp là xơ vữa động mạch, viêm xơ hóa và 
bệnh Takayashu. Đa số bệnh nhân tới khám vì các 
dấu hiệu thiếu máu nuôi mạn tính 2 chân. [2,6]
Chẩn đoán tắc động mạch chủ mạn tính 
dựa trên lâm sàng với biểu hiện đau cách hồi ở 
giai đoạn sớm hoặc loét hoại tử chi ở giai đoạn 
Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: 
chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật
 Đỗ Kim Quế, Nguyễn Anh Trung
Bệnh viện Thống Nhất
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tắc động mạch chủ chậu mạn tính (TĐMCCMT) là một bệnh lý khá thường gặp, 
nguyên nhân chính là do xơ vữa động mạch. Đa số bệnh được phát hiện vào giai đoạn muộn đã có hoại 
tử chi nên thường gây hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá đặc điểm 
tắc động mạch chủ chậu, các phương pháp chẩn đoán và điều trị phẫu thuật cũng như kết quả điều trị. 
 Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu mô tả hang loạt ca, đánh giá các đặc điểm về tuổi, giới tính, vị 
trí và mức độ của hẹp tắc động mạch chủ chậu. CT scan và X quang động mạch được áp dụng cho tất 
cảc các trường hợp để chẩn đoán tắc động mạch chủ chậu. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ ngực 
- động mạch đùi cho những trường hợp tắc ngang động mạch thận. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch 
chủ bụng động mạch chậu/ đùi cho những trường hợp tắc dưới động mạch thận. Phẫu thuật cầu nối 
động mạch nách - đùi hoặc đùi - đùi cho những trường hợp thể trạng yếu, nguy cơ phẫu thuật cao. Kết 
quả: Trong thời gian 10 năm từ 1/2004 - 1/2014 có 46 trường hợp tắc động mạch chủ chậu được điều 
trị tại Bệnh viện Thống nhất. Tuổi trung bình là 65.7 nhỏ nhất là 32 và lớn nhất là 81 tuổi. Có 39 nam 
và 7 nữ. 7 trường hợp tắc động mạch chủ bung dưới động mạch thận và 2 trường hợp tắc ngang động 
mạch thận. 37 trưởng hợp tắc động mạch chậu. 42 trường hợp tắc do xơ vữa động mạch, 4 trường hợp 
có nguyên nhân do viêm xơ hóa động mạch chủ. 18 trường hợp vào viện với tổn thương loét hoặc hoại 
tủ ở chân. Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ ngực - động mạch đùi 2 bên được áp dụng cho2 trường 
hợp, cầu nối động mạch chủ bụng động mạch chậu 2 bên cho 2 trường hợp, động mạch chủ bụng động 
mạch đùi 2 bên cho 5 trường hợp. Cầu nối động mạch nách - đùi trong 8 trường hợp, Cầu nối động 
mạch đùi - đùi (chéo bên) cho 4 trường hợp. 15 trường hợp được thực hiện phẫu thuật cầu nối động 
mạch chậu - đùi. 10 trường hợp được can thiệp nội mạch nong và/hoặc đặt stent động mạch. Kết quả 
điều trị sớm: 1 trường hợp tử vong do nhồi máu cơ tim sau mổ, 3 trưòng hợp phải đoạn chi, các trường 
hợp còn lại đạt kết quả tốt. Kết luận: Tắc động mạch chủ chậu có tần suất ngày càng thường gặp, MSCT 
và X quang động mạch là phương pháp chẩn đoán hiệu quả. Phẫu thuật bắc cầu nối là phương pháp điều 
trị an toàn và cho kết quả tốt.
Từ khóa: Tắc động mạch, động mạch chủ chậu, cầu nối động mạch. Cầu nối động mạch ngoài 
giải phẫu.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 139
muộn. Siêu âm Doppler là phương tiện chẩn đoán 
không chảy máu. Gần đây với chụp CT đa lớp cắt 
(Multislice) cho phép đánh giá chính xác các tổn 
thương của động mạch chủ và các nhánh của nó. 
X quang động mạch vẫn là tiêu chuẩn chẩn đoán 
vàng các thương tổn mạch máu nói chung và tắc 
động mạch chủ bụng nói riêng, ngoài ra trong 
những trường hợp chọn lọc có thể điều trị với các 
thủ thuật nội mạch như nong và đặt stent. [4,5,9,]
Phẫu thuật cầu nối động mạch vẫn là phương 
pháp điều trị chính cho những trường hợp hẹp / 
tắc động mạch chủ với kết quả dài hạn rất tốt. Gần 
đây phẫu thuật cầu nối chủ bụng - đùi 2 bên cũng 
được thực hiện với nội soi ổ bụng.
Tại nước ta các nghiên cứu về tắc động mạch 
chủ còn khá ít, đa phần bệnh nhân vào viện trong 
giai đoạn muộn với các dấu hiệu thiểu dưỡng, hoặc 
hoại tử. Nhằm rút ra các đặc điểm của tắc động 
mạch chủ bụng mạn tính, phương pháp chẩn đoán 
và điều trị phẫu thuật chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ bênh nhân bị tắc động mạch chủ 
chậu mạn tính được điều trị tại Bệnh viện Thống 
Nhất từ tháng01/2004 tới tháng 01năm 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu mô 
tả hang loạt ca. Toàn bệnh nhân bị TĐMCCMT 
được đánh giá các yếu tố:
Tuổi, giới, trình độ hiểu biết, sự quan tâm tới 
bệnh tật.
Về chẩn đoán chúng tôi lưu ý tới triệu chứng 
khởi phát, thời gian bệnh, tần suất các triệu chứng 
thiếu máu nuôi mạn tính, đánh gía giai đoạn thiếu 
máu nuôi chi.
Chúng tôi xác định vị trí động mạch tắc dựa 
trên siêu âm Doppler mạch máu màu và/ hoặc CT 
scan bụng, X quang động mạch.
Về điều trị: phẫu thuật cầu nối chủ bụng chậu 
hoặc đùi 2 bên được chỉ định cho các trường hợp 
hẹp động mạch chủ bụng dưới động mạch thận > 1 
cm, các trường hợp hẹp sát động mạch thận chúng 
tôi chỉ định phẫu thuật cầu nối chủ ngực đùi 2 bên. 
Cầu nối chủ hoặc chậu - đùi cho bệnh nhân hẹp 1 
bên động mạch đùi.Cầu nối động mạch nách đùi 2 
bên hoặc cầu nối chéo đùi- đùi được chỉ định cho 
những trường hợp có thể trạng kém.Nong và đặt 
stent động mạch cho bệnh nhân hẹp động mạch 
chủ chậu TASC A.
Đánh giá kết quả sớm sau mổ: tỉ lệ tử vong, 
nguyên nhân tử vong.
Các biến chứng trong và sau mổ.
Đánh giá kết quả lâu dài: sự cải thiện tình trạng 
thiếu máu nuôi chi, Tỉ lệ hẹp/ tắc tái phát.
Số liệu
Tuổi và giới tính
Trong thời gian 10 năm từ 2004 - 2014 chúng tôi 
đã điều trị cho 46 bệnh nhân bị TĐMCCMT trong 
đó có 39 BN nam và 7 BN nữ, tuổi từ 32 đến 81.
Biểu hiện lâm sàng
Có tới 18 trường hợp vào viện với triệu chứng 
hoại tử đầu chi, 22 trường hợp vào viện ở giai đoạn 
đau cách hồi, có 6 bệnh nhân phát hiện tình cờ. 2 
bệnh nhân có biểu hiện bất lực, 3 bệnh nhân teo 
cơ mông nặng.
Tất cả các trường hợp đều bị mất mạch bẹn 2 
bên.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014140
 Cận lâm sàng
Siêu âm Doppler động mạch cho thấy có 
thương tổn xơ vữa tại động mạch chủ trong 18 
trường hợp.
Multislice CT cho thấy kết quả chính xác vị trí 
và mức độ tắc trong tất cả các trường hợp.
X quang động mạch được thực hiện trong 15 
trường hợp. Kết quả của siêu âm duplex, CT đa 
lớp cắt và X quang động mạch cho thấy phù hợp 
trong tất cả các trường hợp.
 Chẩn đoán
Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán dựa 
trên lâm sàng và các phương pháp chẩn đoán hính 
ảnh học. Có tới 2 BN bị chẩn đoán nhầm với các 
bệnh lý khác khi vào viện, trong đó 1 trường hợp 
chẩn đóan là thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. 
Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán sau 
khí khởi phát triệu chứng đầu tiên trên 6 tháng.
 Vị trí tắc động mạch
Bảng 1. Vị trí tắc động mạch.
Vị trí Số lượng (%)
Đm chủ ngang đm thận 2 (4.3%)
Đm chủ dưới đm thận 7 (15.2%)
Đm chậu 37 (80.5%)
Chúng tôi xác định vị trí tắc động mạch dựa 
trên kết quả của X quang động mạch và chụp CT 
đa lớp cắt.
2 BN bị tắc động mạch chủ bụng ngang chỗ 
xuất phát động mạch thận, 
5 BN tắc dưới chỗ xuất phát động mạch thận.
37 bệnh nhân hẹp động mạch chủ và tắc động 
mạch chậu
Nguyên nhân tắc động mạch
Chúng tôi xác định nguyên nhân tắc động 
mạch dựa trên kết quả giải phẫu bệnh lý thành 
động mạch lấy ra khi phẫu thuật.
42 trường hợp có nguyên nhân do xơ vữa, 
4 trường hợp còn lại tắc động mạch do viêm xơ 
động mạch.
 Điều trị
Cả 46 BN được điều trị phẫu thuật đều được 
mổ phục hồi lưu thông động mạch bằng phẫu 
thuật cầu nối động mạch.
Hình 1: Phẫu thuật cầu nối chủ ngực - đùi 2 bên
Bảng 2
Phương pháp phẫu thuật Số 
lượng 
(%)
Cầu nối chủ ngực - đùi 2 bên 2 (4.3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng - chậu 2 bên 2(4.3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng - chậu 2 bên 5 
(10.9%)
Cầu nối động mạch chậu - đùi 15 
(34.8%)
Cầu nối động mạch nách - đùi 8 (17.4)
Cầu nối động mạch chéo bên đùi - đùi 4 (8.6)
Nong và/hoặc stent động mạch chậu. 10 (21.7)
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 141
 Điều trị
Cả 46 BN được điều trị phẫu thuật đều được 
mổ phục hồi lưu thông động mạch bằng phẫu 
thuật cầu nối động mạch.
Hình 1: Phẫu thuật cầu nối chủ ngực - đùi 2 bên
Bảng 2
Phương pháp phẫu thuật Số 
lượng 
(%)
Cầu nối chủ ngực - đùi 2 bên 2 (4.3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng - chậu 2 bên 2(4.3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng - chậu 2 bên 5 
(10.9%)
Cầu nối động mạch chậu - đùi 15 
(34.8%)
Cầu nối động mạch nách - đùi 8 (17.4)
Cầu nối động mạch chéo bên đùi - đùi 4 (8.6)
Nong và/hoặc stent động mạch chậu. 10 (21.7)
Cầu nối chủ ngực 2 đùi được áp dụng cho 2 
trường hợp, cầu nối chủ bụng 2 động mạch chậu 
cho 2 trường hợp, cấu nối động mạch chủ bụng 2 
động mạch đùi cho 5 trường hợp. 
Cầu nối ngoài giải phẫu nách - đùi 2 bên cho 
8 trường hợp,cầu nối chéo bên đùi - đùi cho 4 
bệnh nhân.
Nong và/hoặcđặt stent động mạch cho 10 
bện nhân.
Kết quả
1 trong 46 BN tử vong chiếm tỉ lệ 2.2%.
Trong 45 BN được cứu sống với có 3 BN phải 
đọan chi xa do hoại tử chi, tuy nhiên vùng hoại tử 
có giới hạn sau khi làm phẫu thuật cầu nối mạch 
máu.
2 trường hợp có bất lực trước mổ phục hồi khả 
năng sinh lý tốt. 
Theo dõi sau mổ từ 5 tháng 11 năm có 1 
trường hợp tử vong, 1 BN bị tắc miệng nối động 
mạch đùi sau 9 tháng phải phẫu thuật tái tạo miệng 
nối động mạch.
BÀN LUẬN
Mặc dù TĐMCBMT tương đối hiếm gặp 
nhưng gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc 
sống của bệnh nhân. Đa phần tắc động mạch chủ 
xảy ra ở bệnh nhân nam trung niên. 
Tắc động mạch chủ bụng thường có tổn 
thương động mạch chậu đùi với nhiều mức độ 
khác nhau, đa số các tác giả chia hẹp động mạch 
chủ thành 3 type: [2,3]
Type I tổn thương khu trú tại động mạch chủ 
bụng và động mạch chậu chung,
Type II tổn thương lan rộng tới động mạch 
chậu ngoài, nhưng không có tổn thương động 
mạch đùi.
Type III tổn thương toàn bộ hệ động mạch chi 
dưới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 7 
trường hợp thuộc type III, kết quả này cũng tương 
tự như các nghiên cứu khác như Brewter, Darling, 
Nguyễn Hoàng Bình, Trần Quyết Tiến. [1,2,3,8]
Xơ xữa động mạch vẫn là nguyên nhân chính 
của tắc động mạch chủ, trong nghiên cứu của 
chúng tôi chỉ có 2 trường hợp tắc động mạch chủ 
xơ viêm xơ hóa động mạch chủ, 16 trường hợp 
còn lại có nguyên nhân xơ vữa.
Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều nhập viên 
khi đã có triệu chứng lâm sàng, trong đó tới 10 
trường hợp đã có dấu hiệu hoại tử đầu chi. Theo 
Brewter và Darling[3] 90% các trường hợp bệnh lý 
tắc động mạch chủ chậu có triệu chứng lâm sàng 
khi vào viện.
Chẩn đoán tắc động mạch chủ bụng thường 
không khó, đa số các trường hợp đều có thể được 
xác định chẩn đoán dựa trên lâm sàng, tuy nhiên 
để đánh giá chính xác thương tổn và chọn lựa 
phương pháp phẫu thuật thích hợp cần chụp X 
quang động mạch. Trong 1 - 2 thập niên gần đây 
các phương pháp chẩn đoán ít xâm lấn đã được 
sử dụng rộng rãi và cho thấy độ nhậy cảm và độ 
chuyên biệt cao trong chẩn đoán thương tổn động 
mạch chủ bụng.
Chúng tôi nhận thấy, siêu âm Duplex và CT đa 
lớp cắt có kết quả phù hợp với X quang động mạch 
trong tất cả các trường hợp trong nghiên cứu này.
Trong nghiên lần này chúng tôi thấy tỉ lệ tắc 
động mạch chủ bụng cao khá thường gặp với 2/9 
trường hợp tắc sát động mạch thận. Những trường 
hợp tắc cao này có tiên lượng xấu hơn nhiều so với 
các trường hợp chỉ tổn thương ở vùng chia đôi 
động mạch chủ chậu. 
Về điều trị, cho tới nay phẫu thuật vẫn giữ 
một vị trí quan trọng, mặc dù các thủ thuật can 
thiệp nội mạch đã được áp dụng một cách rộng 
rãi. Theo Rholl và Breda[11 khả năng can thiệp nội 
mạch thành công cho hẹp động mạch chủ lên tới 
95%, và 20 % bị hẹp tái phát sau 5 năm. Tuy nhiên 
phương pháp nong và đặt stent động mạch chủ chỉ 
có thể áp dụng cho những trường hợp hẹp động 
mạch, những trường hợp tắc đoạn dài như trong 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014142
nghiên cứu của chúng tôi không còn chỉ định cho 
can thiệp nội mạch. 
Tùy thuộc vị trí động mạch chủ tắc và thể 
trạng của bệnh nhân mà chúng ta chọn lựa phương 
pháp phẫu thuật thích hợp. Phẫu thuật cầu nối 
động mạch nách đùi là phương pháp được chọn 
cho những trường hợp thể trạng bệnh nhân kém 
có nguy cơ cao.(7,9,10)
Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ ngực - 2 
động mạch đùi là phương pháp an toàn và hiệu 
quả cho những trường hợp tắc động mạch chủ cao 
ngang động mạch thận. (12,13)
Những trường hợp tắc động mạch chủ dưới 
động mạch thận nên được làm cầu nối động mạch 
chủ chậu hoặc chủ đùi 2 bên. Ngày nay một số 
trung tâm đã tiến hành phẫu thuật cầu nối chủ 
bụng - đùi 2 bên qua nội soi ổ bụng.(14)
Kết quả điều trị của chúng tôi rất khả quan, tỉ 
lệ tử vong chung là 2.2%, và bệnh nhân tử vong do 
bệnh lý kết hợp. Các báo cáo cho thấy phẫu thuật 
cho tỉ lệ thành công cao 98% - 100% và tỉ lệ hẹp tái 
phát thấp 5 - 10 % sau 5 năm. Chúng tôi ghi nhận 1 
trường hợp hẹp miệng nối xa tái phát do tăng sinh 
nội mạc động mạch phải phẫu thuật tạo lại miệng 
nối mới. 
KẾT LUẬN
TĐMCCMT vẫn còn là một bệnh lý khó xử 
trí, tỉ lệ bệnh nhân vào viện muộn với chi hoại tử 
còn cao. Chẩn đoán thường không khó, tuy nhiên 
cần đánh giá kỹ vị trí và tình trạng mạch máu ngoại 
biên trước khi chọn lựa phương pháp điều trị cho 
bệnh nhân.
Duplex và CT đa lớp cắt có độ nhậy và độ 
chuyên cao trong chẩn đoán tắc động mạch chủ 
bụng mạn tính.
Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ - chậu 
hoặc chủ - đùi cho kết quả điều trị mỹ mãn cho 
bệnh nhân.
Những trường hợp hẹp động mạch đoạn ngắn 
can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị hiệu 
quả, tuy nhiên chi phí còn cao.
SuMMARy 
aorto iliac artery stenosis: diagnosis and 
management
Background: Aorto iliac stenosis is a quite 
common disease, the main cause is atherosclerosis. 
Almost patient admit in late stage with ulceration 
or necrosis.
Aim: Eveluate the characteristics of aortoiliac 
artery stenosis, diagnostic methods and surgical 
therapy and its result. 
Methods: Prospective research is performed 
to eveluate on age, gender, site and severity 
of aortoiliac artery stenosis. Multi sliced CT 
scanner and angiography are the main methods 
to diagnose. Thoracic aorto bifemoral bypass 
operation indicate for juxtarenal aortic occlusion, 
Abdominal aorto - bi femoral / biiliac bypass 
for infrarenal occlusion. Extra anatomic bypass 
were indicated for high risk patient. PTA and/or 
stenting for TASK A.
Results: There are 46 patients who have 
aortoiliac artery stenosis were treated in Thong 
nhat hospitalduring 10 years from 1/2004 
to 1/2014. Mean age is 65.7 ( range 32 - 81). 
Thirtynine of them are male. 2 cases have juxtarenal 
aortic occlusion and 8 patients have infrarenal 
aortic occlusion. Arterosclerosis affect in 42 cases. 
Eighteen of them admitted with necrosis of their 
foot. Thoracic aorto bifemoral bypass operation 
is carried out in 2 cases, Abdominal aorto - bi 
femoral bypass in 5 and abdominal - biiliac bypass 
in 2 patients 10 cases underwent PTA and/or 
stenting. 15 cases underwent ilio femoral bypass. 
Extraanatomic bypass was performed in 12 cases. 
One patient die due to acute myocardial 
infarctionand amputation need in 3 patients.
Conclusion: Aortoiliac artery stenosis is 
more frequently day by day. Aorto bifemoral/
biiliac bypass is the safe and effective operation to 
treat.
Key words: Arterial occlusion. Aortoiliac 
artery, Arterial bypass, extraanatomic arterial 
bypass.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 68.2014 143
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Bình, Trần Quyết Tiến. Điều trị ngoại khoa tắc động mạch chủ bụng - động mạch chậu 
mạn tính. Y học TP. Hồ Chí Minh. 9 (phụ bản 1): 74 - 82, 2005.
2. Brewter DC. Direct reconstruction for aortoiliac occlusive disease. In Vascular surgery 6th Ed. Elservier 
Saunder Inc. 2005 p. 1106 - 1136.
3. Brewter DC. Clinical and anatomic considerations for surgery in aortoiliac disease and results of the 
surgical treatment. Circulation 83(suppl I): I 42, 1991.
4. Elkouri S Hudon G, Demers P et al. Early and long term results of percutaneous transluminal angioplasty 
of the lower abdominal aorta. J Vasc Surg 30: 679, 1999.
5. Hood DB, Hodgson KJ. Percutaneous transluminal angioplasty and stenting for iliac artery occlusive 
disease. Surg Clin North Am 79: 575, 1999
6. Horowitz JD, Durham JR. Surgical managenment of aortoiliac occlusive disease. In Vascular disease 
Interventional and surgical treatment. Churchill Livingstone Inc. 1994 p. 466 - 478.
7. Jovanović M,Jovanović J, Rančić Z, Stanojević G, Milić D, Stojanović M. Revascularization of high-rik 
aortoilicac occlussion. Medicine and Biology. 2005, 12(1): 33 - 36.
8. Massoun H., Gunther HJ., Hohner E., Storz LW. : Das akute Leriche syndrom. Angio 1990, 12(2) : 37-42.
9. Pai M, Handa A, Hands L, Collin J. Femoro-femoral arterial bypass is an effective and durable treatment 
for symptomatic unilateral iliac artery occlusion. Ann R Coll Surg Engl 2003; 85: 88-90.
10. Passman MA, Taylor LM Jr., Moneta GL, Edwards JM,Yeager RA, McConnellDB, Porter JM. Axillofemoral 
and aortofemoral bypass for aortoiliac, J Vasc Surg 1998, 23(2): 263-71.
11. Rholl KS, Breda A. Percutaneous intervention for Aortoiliac disease. In Vascular disease Interventional 
and surgical treatment. Churchill Livingstone Inc. 1994 p. 433 - 466
12. Sarıkaya S, Aksoy E, Taşar M, Elibol A, Şişmanoğlu M, Fedakar A, Kırali K. Thoracic aortofemoral artery 
bypass: an alternative procedure for initialtreatment of critical aortoiliac occlusive disease. Türk Göğüs 
Kalp Damar Cerrahisi Dergisi 2013;21(1):49-53.
13. Tadahiro Sasajima T,Inaba M, Azuma N, Akasaka N, Asada H, Uchida H, Sasajima Y,Goh K.Novel 
anastomotic method enables aortofemoral bypass for patients with porcelain aorta.J Vasc Surg 
2002;35:1016-9.
14. Thaveau F,Dion YM, de Wailly GW, Dumont M, Laroche M.Early transient hydronephrosis after 
laparoscopicaortobifemoral bypass grafting.J Vasc Surg 2003;38:603-8.

File đính kèm:

  • pdftac_dong_mach_chu_chau_man_tinh_chan_doan_va_ket_qua_dieu_tr.pdf