Tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

TÓM TẮT

Tín dụng là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng

trong việc tạo thu nhập và phát triển ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng góp phần hỗ trợ doanh

nghiệp và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn và khó tránh khỏi

trong hoạt động tín dụng. Bài viết nghiên cứu tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín

dụng của ngân hàng thông qua dữ liệu từ báo cáo tài chính của 27 Ngân hàng thương mại Việt

Nam giai đoạn 2013-2019. Kết quả nghiên cứu với mô hình FEM cho thấy tăng trưởng tín dụng

năm hiện hành làm giảm rủi ro tín dụng trong cả hai trường hợp: tăng trưởng tín dụng do nội bộ,

sáp nhập và do riêng nội bộ tạo ra. Ngoài ra, rủi ro tín dụng năm hiện hành còn bị ảnh hưởng bởi

mức độ rủi ro tín dụng trong quá khứ, tỷ lệ vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận ngân hàng.

Từ khóa: Tăng trưởng tín dụng, Rủi ro tín dụng.

pdf 10 trang phuongnguyen 900
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
79 
TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG 
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 
THE EFFECT OF CREDIT GROWTH ON CREDIT RISK OF THE COMMERCIAL BANKS 
IN VIETNAM 
Ngày nhận bài: 02/09/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 21/09/2020 
Phạm Xuân Quỳnh 
TÓM TẮT 
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng 
trong việc tạo thu nhập và phát triển ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng góp phần hỗ trợ doanh 
nghiệp và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn và khó tránh khỏi 
trong hoạt động tín dụng. Bài viết nghiên cứu tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín 
dụng của ngân hàng thông qua dữ liệu từ báo cáo tài chính của 27 Ngân hàng thương mại Việt 
Nam giai đoạn 2013-2019. Kết quả nghiên cứu với mô hình FEM cho thấy tăng trưởng tín dụng 
năm hiện hành làm giảm rủi ro tín dụng trong cả hai trường hợp: tăng trưởng tín dụng do nội bộ, 
sáp nhập và do riêng nội bộ tạo ra. Ngoài ra, rủi ro tín dụng năm hiện hành còn bị ảnh hưởng bởi 
mức độ rủi ro tín dụng trong quá khứ, tỷ lệ vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận ngân hàng. 
Từ khóa: Tăng trưởng tín dụng, Rủi ro tín dụng. 
ABSTRACT 
Credit is a main activity of Vietnamese commercial banks, it plays an important role in making 
profits and developing the banks. Credit growth not only support companies but also develop 
Vietnamese economy. However, credit risks are always potential factor and unavoidable in credit 
activities. The study analyzes the impact of credit growth on the bank’s credit risks through using 
data from financial statements of 27 commercial banks in Vietnam during the period from 2013 to 
2019. By using FEM model, the result shows that credit growth in the current year leads to 
decrease credit risk in both cases is internal and mergers credit growth and only internal growth. 
Moreover, credit risks in the current year are also affected by the level of credit risk in the past, the 
ratio of equity and bank’s profit margins. 
Keywords: Credit growth, Credit risk. 
1. Đặt vấn đề 
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia thì 
hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) 
đóng vai trò quan trọng, là định chế cung cấp 
vốn cho nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy sự 
phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa. 
Riêng đối với điều kiện thị trường tài chính 
còn sơ khai như Việt Nam, kênh dẫn vốn từ 
thị trường cổ phiếu và trái phiếu vẫn còn non 
yếu, thì ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ 
đạo cho nền kinh tế (chiếm hơn 60% tổng 
lượng vốn) (Đỗ Hoài Linh, 2020). Trong 
hoạt động ngân hàng, cấp tín dụng là một 
nghiệp vụ mũi nhọn, sự an toàn và hiệu quả 
của hoạt động tín dụng có vài trò quan trọng 
trong việc tạo động lực cho tăng trưởng kinh 
tế. Có thể thấy mục tiêu tăng trưởng tín dụng 
(TTTD) là một trong những ưu tiên hàng đầu 
của Chính phủ và toàn ngành ngân hàng để 
góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và phát triển 
nền kinh tế Việt Nam. Theo Ngân hàng Nhà 
nước, tín dụng đến cuối năm 2019 tăng 
13,5% so với năm 2018, đây là mức tăng 
thấp, sát với mục tiêu so với những năm trở 
lại đây (giai đoạn 2015 - 2017 TTTD trung 
bình 18,1%) nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn 
Phạm Xuân Quỳnh, Trường Đại học An Giang - 
Đại học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
80 
đạt 7,02%. Theo báo cáo về môi trường kinh 
doanh 2020 của nhóm Ngân hàng Thế giới 
(WB) công bố vào cuối tháng 10/2019, chỉ số 
tiếp cận tín dụng của Việt Nam xếp 25/190 
nền kinh tế, đứng thứ 2 trong các nước 
ASEAN (Quỳnh Trang, 2019). 
Tuy nhiên, song song với vấn đề TTTD 
thì rủi ro tín dụng (RRTD) vẫn luôn là thách 
thức cho các ngân hàng. Rủi ro tín dụng 
thường khó kiểm soát và dẫn đến những thiệt 
hại, thất thoát về vốn và thu nhập của ngân 
hàng. Theo các con số thống kê và nhiều 
nghiên cứu trước cho thấy RRTD thường 
chiếm tỷ lệ cao trong rủi ro hoạt động của 
ngân hàng, RRTD không loại trừ bất kỳ nền 
kinh tế nào, ngân hàng nào dù Ngân hàng 
Nhà nước hay NHTM cổ phần và nó là một 
yếu tố khách quan và không tránh khỏi trong 
kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tác động 
của TTTD đến RRTD là việc làm cần thiết, 
góp phần giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả 
quản trị RRTD. 
2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực 
nghiệm 
2.1. Tăng trưởng tín dụng 
TTTD của NHTM là sự gia tăng khối 
lượng tín dụng (dư nợ) để đáp ứng nhu cầu 
của các chủ thể trong nền kinh tế trong một 
khoảng thời gian nhất định. Kết quả TTTD 
của một ngân hàng không chỉ quyết định bởi 
giá trị tuyệt đối mà quan trọng phụ thuộc 
vào tốc độ tăng trưởng tương đối so với các 
đối thủ cạnh tranh trong cùng điều kiện, 
cùng quốc gia và cùng năm. Theo Clair 
(1992), TTTD được chia thành 3 loại: (1) 
Tăng trưởng thông qua việc mua lại ngân 
hàng phá sản với sự hỗ trợ của nhà nước; (2) 
Tăng trưởng thông qua việc mua lại hoặc 
sáp nhập không có sự hỗ trợ của nhà nước 
và (3) Cuối cùng là tăng trưởng do nội bộ 
tạo ra. (1) Trường hợp này TTTD không tác 
động trái chiều đến chất lượng tín dụng bởi 
vì trong hầu hết các giao dịch này, nhà nước 
loại bỏ các khoản có chất lượng thấp từ 
danh mục cho vay; (2) Thông thường các 
ngân hàng bị mua lại được yêu cầu xóa các 
khoản tín dụng có vấn đề trước khi thực 
hiện việc mua lại. Trong trường hợp sáp 
nhập giữa các ngân hàng như nhau, chất 
lượng tín dụng của ngân hàng kết hợp sẽ là 
trung bình chất lượng tín dụng của 2 ngân 
hàng. Tuy nhiên, TTTD từ việc sáp nhập chỉ 
làm giảm tỷ lệ nợ xấu và không ảnh hưởng 
đến tỷ lệ nợ không thể thu hồi; (3) TTTD 
đến từ hoạt động cho vay, và đây là tăng 
trưởng khó dự đoán nhất. Một ngân hàng có 
thể tăng dư nợ cho vay bằng cách đa dạng 
hóa các danh mục cho vay giữa các khu vực 
địa lý, các ngành theo cách làm giảm tổng 
thể RRTD. Và kết quả nghiên cứu cho thấy 
TTTD nội bộ và mua lại ngân hàng phá sản 
góp phần cải thiện chất lượng tín dụng. 
Trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam 
hiện nay, TTTD của ngân hàng đa phần là do 
nội bộ tạo ra. Tuy nhiên, trong giai đoạn 
2013-2019 cũng có một số ngân hàng có 
TTTD từ hoạt động mua lại sáp nhập, nhất là 
năm 2015. Năm 2015 là làn sóng sáp nhập 
của nhiều ngân hàng như Ngân hàng Phát 
triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (MHB) 
vào Ngân hàng BIDV; Ngân hàng Mê Kông 
(MDB) vào Ngân hàng Hàng Hải (MSB); 
Ngân hàng Phương Nam vào Ngân hàng 
Sacombank, Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội 
(SHB) nhận sáp nhập NHTM Cổ phần Nhà 
Hà Nội (Habubank), NHTM Cổ phần Đại Á 
(DaiABank) sáp nhập vào NHTM Cổ phần 
Phát triển TP.HCM (HDBank). Vì thế trong 
nghiên cứu này, TTTD của các ngân hàng sẽ 
do tăng trưởng nội bộ tạo ra và sáp nhập. 
Mặc dù, trong hệ thống ngân hàng Việt Nam 
có hoạt động mua lại, sáp nhập nhưng chỉ là 
con số nhỏ so với khu vực và thế giới vì 
Ngân hàng Nhà nước đang điều tiết tốt tình 
hình ngân hàng có nguy cơ lâm vào tình 
trạng tài chính bất ổn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
81 
2.2. Rủi ro tín dụng 
RRTD là rủi ro phát sinh do khách hàng 
vay không thực hiện đúng các điều khoản 
của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể 
là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy 
đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản 
gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài 
chính và khó khăn trong hoạt động kinh 
doanh của NHTM. RRTD có thể chia làm hai 
loại chính: (1) Rủi ro giao dịch liên quan đến 
từng khoản tín dụng mỗi khi ngân hàng ra 
quyết định cấp một khoản tín dụng mới cho 
khách hàng. Đây có thể xem là rủi ro cá biệt 
của từng khoản tín dụng, nó phát sinh do sai 
sót ở khâu đánh giá, thẩm định và xét duyệt 
khi cho vay hoặc phát sinh do thiếu chặt chẽ 
ở khâu theo dõi kiểm soát quá trình sử dụng 
vốn vay, hoặc ở khâu bảo đảm và cam kết 
ràng buộc trong hợp đồng tín dụng; (2) Rủi 
ro danh mục tín dụng liên quan đến nhiều 
khoản mục tín dụng trong danh mục tín dụng 
của ngân hàng. Nó có thể phát sinh do đặc 
thù cá biệt của từng loại tín dụng hoặc phát 
sinh do thiếu đa dạng hóa danh mục tín dụng. 
Cho đến hiện nay khoản mục tài sản lớn 
nhất trong ngân hàng vẫn là những khoản 
cho vay, khoản mục này chiếm 50%-75% giá 
trị tổng tài sản ngân hàng. Đồng thời, rủi ro 
trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập 
trung vào danh mục các khoản cho vay, tình 
trạng khó khăn về tài chính thường phát sinh 
từ các khoản cho vay khó đòi. Các chuyên 
gia cho rằng một số tài sản của ngân hàng 
(đặc biệt là các khoản cho vay) giảm giá trị 
hay không thể thu hồi là biểu hiện của RRTD 
(Rose & Hudgins, 2004). Đối với các NHTM 
Việt Nam cũng không ngoại lệ, dù các hoạt 
động tín dụng đang được đa dạng hóa hơn 
trước đây nhưng cho vay là hoạt động chiếm 
tỷ trọng chủ yếu và thu từ lãi là nguồn thu 
nhập trọng yếu của ngân hàng. 
Có nhiều cách để đo lường RRTD, Rose 
& Hudgins (2004) cho rằng 4 chỉ số tính 
RRTD phổ biến là tỷ số giữa giá trị các 
khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay 
và cho thuê; tỷ số giữa các khoản xóa nợ 
ròng so với tổng thể cho vay và cho thuê; tỷ 
số giữa phân bố dự phòng tổn thất tín dụng 
hàng năm so với tổng cho vay và cho thuê 
hàng năm hay với tổng vốn chủ sở hữu và 
cuối cùng là tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín 
dụng so với tổng cho vay và cho thuê hay với 
tổng vốn chủ sở hữu. RRTD cũng có thể 
được đo lường bằng tỷ lệ nợ xấu (Amador& 
ctg, 2013) hoặc thể hiện qua tỷ lệ giá trị trích 
lập dự phòng RRTD chia cho tổng tài sản 
(Foos & ctg, 2010; Bùi Ngọc Toản, 2016). 
Bên cạnh đó, theo Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam, dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể 
và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể được 
trích lập để dự phòng cho những tổn thất có 
thể xảy ra đối với từng khoản nợ từ nhóm 2-
5, dự phòng chung được xác định dựa trên 
tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1-4. Do đó 
dựa vào tính chất của khoản mục dự phòng 
RRTD, cũng như các nghiên cứu của Rose & 
Hudgins (2004), Foos & ctg (2010), Bùi 
Ngọc Toản (2016), nghiên cứu này sử dụng 
tỷ lệ dự phòng RRTD trên dư nợ cho vay để 
đo lường RRTD của các NHTM Việt Nam. 
2.3. Mối quan hệ giữa TTTD và RRTD 
Hệ thống ngân hàng là kênh dẫn vốn quan 
trọng, đặc biệt là vốn cho đầu tư phát triển 
trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh 
tín dụng thương mại, hệ thống ngân hàng 
cũng tham gia vào các chương trình cho vay 
theo chỉ định của Chính phủ có ý nghĩa về 
mặt xã hội để góp phần giải quyết khó khăn 
của một bộ phận dân cư. Với cơ chế tín dụng 
ngày càng thông thoáng, bảo đảm quyền tiếp 
cận bình đẳng hơn giữa các tầng lớp dân cư 
và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh 
tế khác nhau đối với nguồn vốn tín dụng 
ngân hàng. Các tổ chức tín dụng tự chủ và tự 
do quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng, 
thoả thuận lãi suất thủ tục cho vay và lựa 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
82 
chọn hình thức bảo đảm tiền vay, đồng thời 
tự chịu trách nhiệm về tài chính và rủi ro. 
Đây cũng là một trong những nguyên nhân 
tiền tín dụng tăng nhanh hơn. Tuy nhiên, tốc 
độ TTTD quá nhanh dễ dẫn đến sự suy giảm 
chất lượng tín dụng cộng với chiến lược kinh 
doanh của các NHTM phổ biến tập trung vào 
tăng khối lượng tín dụng hơn, chạy đua lợi 
nhuận sẽ khiến ngân hàng trở nên thiếu kiểm 
soát hơn trong công tác cho vay và kết quả là 
gia tăng RRTD. Sự tác động của TTTD đến 
RRTD đựợc khá nhiều nghiên cứu quan tâm 
như nghiên cứu của Hess & ctg (2009), Foos 
& ctg (2010), trong đó các nghiên cứu đều đi 
đến kết luận rằng TTTD trong điều kiện kinh 
tế giảm phát, cầu tín dụng không tăng hoặc 
tiêu chuẩn cho vay bị nới lỏng sẽ dẫn đến 
RRTD. Trong mô hình nghiên cứu của các 
tác giả này, TTTD mạnh dẫn đến RRTD với 
độ trễ từ 2 - 4 năm. Điều này có nghĩa là mức 
tăng trưởng cao ở năm hiện tại (năm t) sẽ làm 
tăng RRTD của năm thứ 2 kế tiếp (năm t+2), 
năm thứ 3 (năm t+3), năm 4 (năm t+4), hay 
mức TTTD cao trong quá khứ năm t-2, năm 
t-3, năm t-4 có xu hướng làm tăng RRTD 
năm hiện tại. Theo Foos & ctg (2010), TTTD 
bất thường trong quá khứ có tác động cùng 
chiều đến RRTD với độ trễ từ 2 đến 4 năm 
khi nghiên cứu mối quan hệ giữa TTTD bất 
thừờng với RRTD, thu nhập lãi và khả năng 
thanh khoản của 16.000 ngân hàng ở 16 quốc 
gia lớn, trong giai đoạn 1997 - 2007. 
Tuy nhiên thì theo Keeton (1999), không 
phải TTTD lúc nào cũng dẫn đến tổn thất tín 
dụng. TTTD thông qua việc cho vay thêm 
các khách hàng mới hay khách hàng cũ ban 
đầu làm cải thiện chất lượng tín dụng năm 
hiện tại (Clair, 1992). Nghiên cứu của 
Laeven & Majnoni (2003) đã cho thấy mối 
quan hệ của TTTD với RRTD là ngược chiều 
nhau khi phân tích 1.000 NHTM lớn ở 45 
quốc gia trong giai đoạn 1988 - 1999. Nghiên 
cứu của Clair (1992) khi phân tích dữ liệu 
của các ngân hàng tư nhân ở Texas trong giai 
đoạn 1976 - 1990 cũng đã phát hiện tác động 
ngược chiều của TTTD đối với nợ xấu và nợ 
có khả năng xóa nợ trong năm đầu tiên sau 
khi mở rộng tín dụng, vì TTTD nội bộ góp 
phần cải thiện chất lượng tín dụng có nghĩa 
là làm giảm RRTD. Riêng đối với các 
NHTM Việt Nam, để giảm thiểu RRTD, 
giảm bớt nợ xấu cho hệ thống ngân hàng, 
trong những năm qua nhiều biện pháp đã 
được ban hành và thực thi như chính sách tái 
cơ cấu lại hệ thống, sáp nhập và loại bỏ các 
tổ chức tín dụng yếu kém, kiểm soát chặt chẽ 
hoạt động cho vay và việc trích lập dự phòng 
tín dụng cũng như sự ra đời của VAMC. Do 
đó, một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây 
của Bùi Ngọc Toản (2016), Lê Hoàng Vinh 
& ctg (2019) cho thấy sự ảnh hưởng của tốc 
độ TTTD hiện hành cũng như quá khứ với độ 
trễ 1 năm đến RRTD, đặc biệt TTTD năm 
hiện hành có tác động mạnh đến RRTD. Như 
vậy, TTTD dù là năm hiện hành hay trong 
quá khứ đều ảnh hưởng đến RRTD. Tùy vào 
không gian, thời gian, đặc điểm hệ thống 
ngân hàng ở mỗi quốc gia khi nghiên cứu mà 
mối quan hệ giữa TTTD và RRTD là cùng 
chiều hay ngược chiều. Vì vậy, nghiên cứu 
này chỉ xem xét tác động của TTTD năm 
hiện hành và trong quá khứ với độ trễ 1 năm 
đến RRTD của các ngân hàng. 
Bên cạnh yếu tố TTTD, nghiên cứu xem 
xét thêm một số yếu tố khác có ảnh hưởng 
đến RRTD ngân hàng đóng vai trò là biến 
kiểm soát trong mô hình, bao gồm: 
Quy mô ngân hàng: yếu tố này thể hiện 
lợi thế của ngân hàng trong chiến lược TTTD 
do khả năng cung ứng vốn cũng như đa dạng 
danh mục cho vay đáp ứng nhu cầu khách 
hàng. Trong nghiên cứu của Hess & ctg 
(2009) cho rằng quy mô ngân hàng có tác 
động ngược chiều đến RRTD. Tuy nhiên Das 
& Ghosh (2007) đã nghiên cứu các yếu tố 
quyết định đến RRTD của các ngân hàng Ấn 
Độ và kết luận rằng quy mô ngân hàng tác 
động cùng chiều đến RRTD vì các ngân hàng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
83 
lớn có nhiều cơ hội đa dạng hóa danh mục 
cho vay hơn nhưng cũng bị ảnh hưởng mạnh 
hơn bởi những khoản vay có vấn đề đối với 
phần tín dụng được mở rộng so với các ngân 
hàng có quy mô nhỏ. 
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (VCSH): VCSH 
ngân hàng là tấm đệm chống đỡ rủi ro, bảo vệ 
người gửi tiền, ký thác và các quỹ bảo hiểm 
tiền gửi. Trong trường hợp những điều kiện 
khác tương tự nhau, những ngân hàng có ...  chỉ tính các NHTM). Số 
liệu được thu thập và sắp xếp theo dữ liệu 
bảng, cấu trúc dữ liệu bảng được kết hợp từ 
hai thành phần: thành phần dữ liệu chéo và 
thành phần dữ liệu thời gian. 
3.3. Phương pháp ước lượng 
Hồi qui với dữ liệu bảng được ước lượng 
bằng hai mô hình: mô hình tác động cố định 
(FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên 
(REM). Kiểm định Hausman được sử dụng 
để lựa chọn mô hình FEM hay REM. Đồng 
thời, các kiểm định liên quan đến mức độ tin 
cậy của mô hình hồi qui với dữ liệu bảng 
cũng được thực hiện một cách thích hợp như: 
kiểm định đa cộng tuyến thông qua hệ số 
1 Các NHTM bao gồm ABB, ACB, BID, CTG, 
EIB, BVB, HDB, KLB, MBB, LPB, MSB, 
NamABank, NCB, OCB, SeaABank, PGBank, 
SGB, SHB, STB, TCB, VCB, VIB, VPB, SCB, 
TPB, VietABank, BAB. 
2 Báo cáo tài chính. Truy cập từ website ngân 
hàng và trang www.vietstock.vn 
nhân tử phóng đại phương sai (VIF) và 
phương sai sai số thay đổi thông qua kiểm 
định Wald (Modified Wald test for 
groupwise heteroscedasticity) (Baltagi, 
2008). 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu 
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến 
Tên biến 
Số 
quan 
sát 
Giá 
trị 
trung 
bình 
Giá 
trị lớn 
nhất 
Giá 
trị 
nhỏ 
nhất 
Độ 
lệch 
chuẩn 
Biến phụ thuộc 
RRTD 189 0,012 0,054 -0,007 0,009 
Biến độc lập 
RRTDt-1 189 0,012 0,063 -0,010 0,008 
TTTD 189 0,215 1,068 -0,139 0,159 
TTTDt-1 189 0,219 1,068 -0,246 0,191 
QM 189 18,650 21,122 16,502 1,079 
VCSH 189 0,086 0,238 0,029 0,334 
TSSL 189 0,007 0,027 0,000 0,006 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Bảng 2 trình bày tóm tắt phần thống kê 
mô tả các biến được sử dụng trong nghiên 
cứu. Kết quả thống kê mô tả cho thấy rằng 
các biến số đo lường mức độ RRTD, tốc độ 
TTTD, quy mô hoạt động, tỷ lệ VCSH và tỷ 
suất sinh lời của các ngân hàng trong mẫu 
nghiên cứu tương đối không đồng đều và có 
xu hướng biến động giữa các năm. Tỷ lệ 
TTTD bình quân của các ngân hàng đạt 
21,5% nhưng có sự khác biệt tương đối lớn 
giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất, cho 
thấy bên cạnh những ngân hàng vẫn đang 
kiểm soát tốt tốc độ TTTD thì cũng còn một 
vài ngân hàng còn khó khăn trong việc cung 
cấp dịch vụ tín dụng. Điển hình như năm 
2019, tỷ lệ TTTD của ngân hàng 
Techcombank là 44,6%, trong khi ngâ hàng 
Quốc Dân chỉ đạt 6,2%. Nhu cầu tín dụng ở 
nhiều ngành nghề đang gặp khó khăn như bất 
động sản, thép,...và nhu cầu tín dụng ở mảng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
85 
cá nhân do bị ảnh hưởng của nền kinh tế 
đang giảm tốc độ (Minh Sơn, 2019). Song 
song đó thì mức độ RRTD của các ngân hàng 
khá cao trong những năm gần đây, đặc biệt là 
các ngân hàng quy mô lớn. Mặc dù tăng 
nguồn dự phòng rủi ro sẽ giúp ngân hàng chủ 
động hơn trong xử lý nợ xấu thời gian tới 
nhưng điều này lại ảnh hưởng đáng kể đến 
lợi nhuận ngân hàng. 
4.2. Ma trận hệ số tương quan giữa các 
biến số 
Bảng 3. Ma trận tương quan của các biến số 
 RRTDt-1 TTTD TTTDt-1 QM VCSH TSST 
RRTDt-1 1,000 
TTTD -0,116 1,000 
TTTDt-1 -0,205 0,432 1,000 
QM 0,090 -0,042 -0,004 1,000 
VCSH 0,336 -0,200 -0,259 -0,586 1,000 
TSSL 0,324 0,065 0,075 0,312 0,184 1,000 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Qua thống kê ở bảng 3 thể hiện mối tương 
quan giữa các biến trong mô hình, giá trị 
tuyệt đối của các hệ số tương quan của từng 
cặp biến đều có giá trị nhỏ hơn 0,8. Điều này 
có nghĩa là không xảy ra hiện tượng đa cộng 
tuyến trong mô hình. Ngoài ra, hiện tượng đa 
cộng tuyến cũng có thể tồn tại ngay cả khi hệ 
số tương quan tương đối thấp hoặc mô hình 
hồi quy liên quan đến nhiều hơn hai biến giải 
thích. Vì vậy, nghiên cứu tiếp tục kiểm tra 
hiện tượng đa cộng tuyến bằng giá trị hệ số 
nhân tử phóng đại phương sai (VIF). Kết quả 
cho thấy tất cả các biến đều có hệ số nhân tử 
phóng đại phương sai khá nhỏ (<3), suy ra 
trong mô hình không xuất hiện tượng đa 
cộng tuyến giữa các biến độc lập. Vì thế mà 
các biến trong nghiên cứu này không bị bỏ ra 
khỏi mô hình trước khi ước lượng hồi quy để 
phân tích mức độ ảnh hưởng của các biến 
độc lập đến biến phụ thuộc. 
4.3. Kết quả hồi quy 
Kết quả ước lượng mô hình hồi quy được 
trình bày trong bảng 4. Như đã trình bày ở 
phương pháp ước lượng, nghiên cứu tiến 
hành ước lượng mô hình bằng cả phương 
pháp FEM và REM, sau đó kiểm định 
Hausman được sử dụng để chọn lựa mô hình 
thích hợp. Kết quả kiểm định cho thấy rằng 
phương pháp FEM là phù hợp hơn. Ngoài ra, 
kết quả kiểm định còn cho thấy mô hình ước 
lượng tồn tại hiện tượng phương sai sai số 
thay đổi. Để khắc phục sai phạm này, nghiên 
cứu sử dụng sai số chuẩn điều chỉnh (robust 
standard errors). Phương pháp này sẽ giúp 
ước lượng cho kết quả tốt hơn và đưa các sai 
số về giá trị thật của nó. 
Như đã trình bày trong phần cơ sở lý 
thuyết, đối với hệ thống các NHTM Việt 
Nam, TTTD đa phần do nội bộ tạo ra. Tuy 
nhiên, trong giai đoạn nghiên cứu 2013-2019 
cũng có một số ngân hàng có TTTD từ hoạt 
động mua lại sáp nhập. Vì vậy ở phần kết 
quả nghiên cứu này, tác giả xem xét tác động 
của TTTD đến RRTD trong 2 trường hợp: 
TTTD do nội bộ và sáp nhập và TTTD do 
riêng nội bộ tạo ra. 
Bảng 4. Kết quả ước lượng 
Biến độc lập 
Trường hợp 
TTTD nội bộ 
và sáp nhập 
Trường hợp 
TTTD nội bộ 
RRTDt-1 
0,414*** 0,571*** 
(0,071) (0,075) 
TTTD 
-0,008** -0,007* 
(0,003) (0,004) 
TTTDt-1 
-0,002 
(0,003) 
-0,002 
(0,003) 
QM 
0,003 0,003 
(0,002) (0,003) 
VCSH 
0,081** 0,049 
(0,037) (0,042) 
TSSL 
-0,476*** -0,413** 
(0,161) (0,193) 
Số quan sát 189 154 
R2 40,51% 50,44% 
F 10,14*** 12,80*** 
Ghi chú: *, **, *** hệ số có ý nghĩa thống 
kê lần lượt tại mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%. 
Giá trị sai số chuẩn điều chỉnh ở trong dấu 
ngoặc đơn. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
86 
Kết quả ước lượng cho thấy biến TTTD 
năm hiện hành có ảnh hưởng đến RRTD 
trong cả hai trường hợp. Trái với kỳ vọng 
ban đầu, tỷ lệ TTTD có tác động ngược chiều 
đến RRTD, hay nói cách khác, tăng tín dụng 
năm hiện hành sẽ giúp ngân hàng giảm 
RRTD. Kết quả này giống với các nghiên 
cứu của Clair (1992) và Laven & Mojinoni 
(2003) vì TTTD cao sẽ điều chỉnh thu nhập 
có khả năng làm giảm rủi ro. Khi các NHTM 
TTTD đến mức tối ưu sẽ làm giảm thiểu các 
RRTD và theo Clair (1992) TTTD nội bộ 
làm tăng chất lượng tín dụng nên RRTD sẽ 
giảm. Vì nếu xét thấy nhu cầu về tín dụng 
tăng các ngân hàng có thể dần tăng lãi suất 
cho vay và tăng tiêu chuẩn cho vay, xét duyệt 
hồ sơ, thẩm định phương án sử dụng vốn 
chặt chẽ hơn thì có thể làm giảm thiểu RRTD 
cho ngân hàng. Việc cho vay thêm các khách 
hàng mới hay khách hàng cũ ban đầu làm cải 
thiện chất lượng tín dụng năm hiện tại, cũng 
như khách hàng hiếm khi không trả được nợ 
trong năm đầu tiên sau khi nhận được khoản 
vay. Đối với các NHTM Việt Nam, tỷ lệ trích 
lập dự phòng tín dụng có nhiều biến động 
trong những năm gần đây, chịu ảnh hưởng 
bởi quy mô tín dụng và môi trường kinh 
doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, sau thời 
gian tái cơ cấu lại hệ thống và sự ra đời của 
VAMC đã đóng góp đáng kể đến hiệu quả xử 
lý nợ xấu. Để tăng lợi nhuận một cách bền 
vững, các ngân hàng đã chú trọng hơn đến 
chất lượng tín dụng bên cạnh việc tăng 
trưởng tín dụng, đồng thời hướng đến các 
hoạt động dịch vụ tạo thu nhập ngoài lãi để 
giảm rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh giữa 
các ngân hàng. Hơn nữa, các NHTM Việt 
Nam trong những năm gần đây đang có xu 
hướng đa dạng hóa danh mục tín dụng để 
góp phần giảm thiểu RRTD. 
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra biến 
RRTD với độ trễ 1 năm có ảnh hưởng đến 
RRTD năm hiện tại ở mức ý nghĩ thống kê 
5% và 10% trong cả hai trường hợp, và đây 
là sự tác động cùng chiều. Đồng quan điểm 
với nghiên cứu của Foos & ctg (2010), Lê 
Hoàng Vinh & ctg (2019), có thể thấy rằng 
RRTD năm trước không bị loại trừ hoặc triệt 
tiêu trong năm trước được mà có thể kéo dài 
ảnh hưởng đến RRTD năm hiện tại. Trong cơ 
cấu cho vay của các NHTM thì có cho vay 
ngắn hạn, trung và dài hạn nên một phần 
cũng tác động đến RRTD và có thể kéo dài 
cho những năm tiếp theo. Bên cạnh đó, có 
thể thấy rằng việc xử lí, thu hồi nợ được tạo 
ra từ năm trước chưa được xử lí tốt nên tồn 
đọng đến năm hiện tại. 
Ngược với kết luận của Zribi & 
Boujelbene (2011) khi tìm hiểu các ngân 
hàng ở Tunisia, kết quả nghiên cứu trên các 
NHTM Việt Nam cho thấy tăng tỷ lệ VCSH 
trên tài sản sẽ làm tăng RRTD của ngân 
hàng. Theo lý thuyết về quản trị NHTM, 
ngân hàng có thể đánh đổi giữa thanh khoản 
và tín dụng. Theo Igan và Tamirisa (2007), 
một trong những nhu cầu thanh khoản là để 
giải ngân cho vay nên tỷ lệ thanh khoản cao 
còn thể hiện sự sẵn sàng đáp ứng nhu cầu 
vay vốn và đẩy mạnh TTTD cho các chủ thể 
kinh tế. Tín dụng tăng trưởng mạnh, ngân 
hàng lỏng lẻo hơn trong kiểm soát chất lượng 
tín dụng dẫn đến gia tăng RRTD vì phải trích 
lập dự phòng RRTD nhiều hơn. 
Ngoài ra, yếu tố tỷ suất sinh lời cũng có 
ảnh hưởng ngược chiều đến mức độ RRTD 
của các ngân hàng. Tỷ suất sinh lời trên tài 
sản là một chỉ tiêu tài chính để đo lường hiệu 
quả quản lý và sử dụng tài sản của ngân hàng 
như thế nào là tốt, qua kết quả hồi quy có thể 
giải thích rằng nếu tỷ suất sinh lời giảm có 
nghĩa là ngân hàng đang tăng chi phí dự 
phòng cho các khoản vay, vì khi chi phí cho 
các hoạt động ngân hàng bao gồm cho hoạt 
động tín dụng càng cao thì tỷ suất sinh lời 
càng giảm và ngược lại tỷ suất sinh lời tăng 
cho thấy ngân hàng đang điều hành quản lý 
tài sản có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro tín 
dụng. Điển hình như tình hình lợi nhuận của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
87 
các NHTM Việt Nam ở 6 tháng đầu năm 
2019, chi phí dự phòng tại nhiều ngân hàng 
có sự thay đổi mạnh, tăng giảm lên tới trên 
50% như STB và NamABank tăng gấp đôi 
cùng kỳ, SCB giảm 84%, TCB giảm 77%, 
Vietbank giảm 84%3. Chi phí dự phòng rủi 
ro biến động mạnh đã tác động đáng kể tới 
kết quả lợi nhuận trước thuế. Một số ngân 
hàng đang từ mức tăng trưởng âm về lợi 
nhuận thuần (trước dự phòng), nhưng nhờ 
giảm mạnh chi phí dự phòng mà lợi nhuận 
trước thuế tăng trưởng dương, thậm chí là 
tăng vọt như Techcombank, SCB. 
5. Kết luận 
Với dữ liệu của 27 NHTM Việt Nam 
trong giai đoạn 2013-2019, bằng ước lượng 
FEM, nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa 
TTTD và một số yếu tố đến RRTD trong 
hoạt động ngân hàng. TTTD trong điều kiện 
được kiểm soát chặt chẽ sẽ góp phần giảm 
thiểu rủi ro trong tín dụng, hơn nữa đối với 
đặc điểm hoạt động các ngân hàng Việt Nam, 
việc mở rộng tín dụng đến các khách hàng 
mới hay cũ ban đầu làm cải thiện chất lượng 
tín dụng năm hiện tại vì khách hàng hiếm khi 
không trả được nợ trong năm đầu tiên sau khi 
nhận được khoản vay. Bên cạnh đó, tình hình 
nợ xấu còn chưa thể suy giảm trong những 
năm qua, khả năng đáp ứng điều kiện để vay 
vốn cũng như khả năng trả nợ thấp của mộ 
bộ phận khách hàng đã khiến các ngân hàng 
trở nên thận trọng hơn trong công tác xét 
duyệt cho vay mặc dù TTTD đang ngày càng 
khó khăn hơn. Việc xử lý, thu hồi nợ trong 
những năm trước không tốt lại tiếp tục ảnh 
hưởng đến tình hình nợ xấu cũng như mức 
3 Nhiều bất ngờ với bức tranh trích lập dự phòng 
rủi ro của 27 ngân hàng trong 6 tháng đầu năm. 
Truy cập từ https://cafef.vn/nhieu-bat-ngo-voi-
buc-tranh-trich-lap-du-phong-rui-ro-cua-27-ngan-
hang-trong-6-thang-dau-nam-
20190819122736361.chn 
độ RRTD ở năm tiếp theo, dẫn đến ngân 
hàng vẫn phải tăng tỷ lệ trích lập dự phòng 
RRTD, điều này còn ảnh hưởng đến khả 
năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Ngoài ra, 
kết quả nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố 
nội tại như tỷ lệ VCSH và tỷ suất lợi nhuận 
cũng ảnh hưởng đến RRTD ngân hàng. Với 
đặc trưng của các NHTM Việt Nam hiện nay, 
thì tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu và 
mang lại trên 50% thu nhập cho ngân hàng 
(Lê Long Hậu & Phạm Xuân Quỳnh, 2016), 
mở rộng và tăng trưởng tín dụng để góp phần 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một trong 
những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ và 
toàn ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện 
nay. Tuy nhiên, do RRTD cũng chiếm tỷ lệ 
cao trong hoạt động ngân hàng nên quan tâm 
đến hoạt động tín dụng ngân hàng là vấn đề 
quan trọng và cấp thiết để giúp các NHTM 
Việt Nam tăng trưởng ổn định trong điều 
kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn và tỷ lệ 
nợ xấu còn khá cao như hiện nay. Kết quả 
đạt được của nghiên cứu góp phần giúp cho 
các NHTM Việt Nam có thêm cơ sở về tác 
động của TTTD và một số yếu tố khác đến 
RRTD, từ đó mà vân dụng trong quá trình 
xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh 
của ngân hàng phù hợp với nền kinh tế.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
88 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bùi Ngọc Toản (2016). Tăng trưởng tín dụng và rủi ro tín dụng: bằng chứng thực nghiệm từ hệ 
thống ngân hàng Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 36, 36-43. 
Baltagi, B. H. (2008), Econometric Analysis of Panel Data, Wiley. 
Clair, R. T. (1992). “Loan growth and loan quality: some preliminary evidence from Texas 
banks”. Economic Review, Federal Reserve Bank of Dallas, Third Quarter, 1992, 9-22. 
Das, A., & Ghosh, S. (2007). “Determinants of credit risk in Indian state-owned banks: An 
empirical investigation”. 
Đỗ Hoài Linh (2020). Ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19 đối với hoạt động Ngân hàng Việt 
Nam - Những khó khăn và giải pháp. Tạp chí Ngân hàng. Truy cập từ 
ngan-hang-viet-nam-nhung-kho-khan-va-giai-phap.htm ngày 20/08/2020. 
Foos, D., Norden, L., & Weber, M. (2010). “Loan growth and riskiness of banks”. Journal of 
Banking & Finance, 34(12), 2929-2940. 
Green, S. B. (1991). How many subjects does it take to do a regression analysis. Multivariate 
behavioral research, 26(3), 499-510. 
Hess, K., Grimes, A., & Holmes, M. (2009). “Credit losses in Australasian banking”. Economic 
Record, 85(270), 331-343. 
Igan, D. O., and Tamirisa, N. T, (2007), “Credit Growth and Bank Soundness in Emerging 
Europe”, Croatian National Bank. 
Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). “Loan loss provisioning and economic slowdowns: too 
much, too late?”. Journal of financial intermediation, 12(2), 178-197. 
Lê Long Hậu, Phạm Xuân Quỳnh (2016), “Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả 
kinh doanh của các NHTM Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, (124), 11. 
Lê Hoàng Vinh, Bùi Kim Dung và Lê Anh Nhàn (2019) . Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín 
dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu 
Á, 165, 37-49. 
Minh Sơn (2019). Tăng trưởng tín dụng năm nay khó cán đích. Vnexpress. Truy cập từ: 
https://vnexpress.net/tang-truong-tindung-nam-nay-kho-can-dich-3967012.html ngày 
05/07/2020. 
Quỳnh Trang (2019). Tín dụng 2019 tăng thấp nhất 5 năm. Vnexpress. Truy cập từ 
https://vnexpress.net/tin-dung-2019-tang-thap-nhat-5-nam-4035387.html ngày 15/08/2020 
Rose, P.S & Hudgins,S.C (2004). Bank management and Financial Services (6th edtion). 
Mcgraw - Hill. 
Zribi, N., & Boujelbegrave, Y. (2011). “The factors influencing bank credit risk: The case of 
Tunisia”. Journal of accounting and taxation, 3(4), 70-78. 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_tang_truong_tin_dung_den_rui_ro_tin_dung_tai_ca.pdf