Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam
Bài báo nghiên cứu tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân
hàng. Mẫu nghiên cứu bao gồm 31 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam trong giai đoạn 2006- 2018. Sự ổn định ngân hàng được đo lường
thông qua Tỷ lệ dự phòng cho vay trên tổng cho vay (LRGL), Tỷ lệ cho vay
trên huy động (LDR), chỉ số Z_score của ngân hàng. Sử dụng phân tích hồi
quy dựa trên dữ liệu bảng không cân, kết quả cho thấy rằng, sở hữu tập
trung (đại diện bởi cổ đông lớn nhất) có tác động dương đến LLRGL và
LDR. Ngược lại, sở hữu tập trung có tác động âm đến chỉ số Z_score ngân
hàng. Kết quả nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết cho rằng sở hữu tập trung có
ảnh hưởng làm giảm sự ổn định ngân hàng.
Từ khóa: Sở hữu tập trung, rủi ro ngân hàng, sự ổn định ngân hàng
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 215- Tháng 4. 2020 Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam Võ Xuân Vinh Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) Thành phố Hồ Chí Minh Mai Xuân Đức Viện nghiên cứu Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Ngày nhận: 26/12/2019 Ngày nhận bản sửa: 13/01/2020 Ngày duyệt đăng: 05/02/2020 Bài báo nghiên cứu tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng. Mẫu nghiên cứu bao gồm 31 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2006- 2018. Sự ổn định ngân hàng được đo lường thông qua Tỷ lệ dự phòng cho vay trên tổng cho vay (LRGL), Tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR), chỉ số Z_score của ngân hàng. Sử dụng phân tích hồi quy dựa trên dữ liệu bảng không cân, kết quả cho thấy rằng, sở hữu tập trung (đại diện bởi cổ đông lớn nhất) có tác động dương đến LLRGL và LDR. Ngược lại, sở hữu tập trung có tác động âm đến chỉ số Z_score ngân hàng. Kết quả nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết cho rằng sở hữu tập trung có ảnh hưởng làm giảm sự ổn định ngân hàng. Từ khóa: Sở hữu tập trung, rủi ro ngân hàng, sự ổn định ngân hàng. The impact of ownership concentration on Bank Stability: Empirical evidence from Vietnamese Banks Abstract: Using data on 31 commercial Vietnamese banks in the period 2006 – 2018, this study investigate the impact of ownership concentration on the bank stability. The article measure the bank stability by Loan Loss Reserves to Gross Loans (LLRGL), Loan to Deposite Ratio (LDR) and Bank’s Z-score. Employing unbalanced panel data regression analyses, the results suggest that ownership concentration (proxyed by largest shareholder) has a significantly positive effect on both LLRGL and LDR. In the opposite, concentrated ownership has a negative influence on Bank’s Z-score. The reseach results support the hypothesis that ownership concentration reduces bank stability. Keywords: Ownership Concentration, Bank Risk, Bank Stability. Vinh Xuan Vo. Email: vinhvx@ueh.edu.vn University Economics Ho Chi Minh City - CFVG Ho Chi Minh City Duc Xuan Mai. Email: xuanducsbvhcm@gmail.com Institute of Business Research - University Economics Ho Chi Minh City Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 1. Giới thiệu Trong công ty cổ phần, “vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần”1. Các cổ đông là những cá nhân tổ chức sở hữu tối thiểu một cổ phần. Cơ cấu cổ đông tạo nên cấu trúc sở hữu của công ty. Cấu trúc sở hữu của công ty có thể được tiếp cận ở hai góc độ khác nhau, sở hữu tập trung và sở hữu hỗn hợp (Mandaci & Gumus 2010). Pedersen & Thomsen (1999) cho rằng sở hữu tập trung (Ownership Concentration) biểu thị những cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phiếu cao nhất, và chịu ảnh hưởng nhiều nhất khi phát sinh rủi ro cũng như chi phí giám sát. Sở hữu tập trung thể hiện việc phân chia quyền sở hữu giữa các cổ đông khác nhau, có vai trò quan trọng trong việc xác lập quyền kiểm soát công ty của cổ đông. Sở hữu tập trung cao trong công ty thường xuất hiện ở các nước đang phát triển, nơi quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ lẻ không được bảo vệ do chưa có quy định hoặc quy định không đầy đủ trong các luật liên quan (La Porta et al. 1999; Shleifer & Vishny 1997). Trong hoạt động ngân hàng, tập trung sở hữu là một khía cạnh hết sức quan trọng (Iannotta et al. 2007). Ở Việt Nam, vấn đề tỷ lệ sở hữu ngân hàng đã được luật hóa và luôn được Chính phủ giám sát chặt chẽ. Theo đó,“Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% điều lệ của một tổ chức tín dụng (TCTD)” và “Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD”, trừ một số trường hợp đặc biệt được luật quy định riêng2. 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp 2014. 2 Điều 55 Luật Các TCTD 2010 (được sử đổi bổ sung bởi Khoản 14 Điều 1 Luật Các TCTD sửa đổi 2017). Dù vậy, trong thời gian qua, ở một số ngân hàng Việt Nam đã xuất hiện tình trạng cổ đông lớn hoặc nhóm cổ đông lớn chi phối hoạt động của ngân hàng. Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu lớn hoặc có quyền lực trong ngân hàng đã thao túng hoạt động của ngân hàng, sử dụng tiền huy động từ các khu vực kinh tế và dân cư để đầu tư vào những dự án có rủi ro cao hoặc sử dụng cho các dự án sân sau. Hậu quả là một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng cao, mất thanh khoản và thậm chí âm vốn chủ sở hữu. Để đảm bảo an toàn hệ thống, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) buộc phải có những hành động quyết liệt (cho vay tái cấp vốn, kiểm soát đặc biệt hoặc quốc hữu hóa) trong quản lý và điều hành hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đề án 1058 khẳng định, “nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh hành vi sở hữu chéo, lạm dụng quyền quản trị, điều hành, quyền cổ đông lớn để thao túng hoạt động của TCTD là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD”3. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng tập trung sở hữu có thể ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngân hàng (Azofra & Santamaría 2011; Iannotta et al. 2007; Shehzad et al. 2010). Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu vẫn tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau. Nguyên nhân có thể một phần xuất phát từ sự khác biệt về môi trường kinh doanh, đặc điểm thể chế và chế độ pháp lý từ các quốc gia khác nhau (Dong et al. 2014). Bài báo xem xét mối quan hệ giữa sở hữu tập trung và sự ổn định ngân hàng Việt 3 Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016- 2020” ban hành kèm theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ. VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 3Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Nam. Sự tác động của sở hữu tập trung được lý giải dựa trên nền tảng lý thuyết quản trị công ty: Giả thuyết cổ đông giám sát (SMH- Shareholder Monitoring Hypothesis) và lý thuyết người đại diện (AT- Agency Theory); giả thuyết về quan hệ ủy quyền thừa hành trong hoạt động ngân hàng. Kết quả nghiên cứu là bằng chứng quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu tập trung và sự ổn định của NHTM Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu, bài báo đề xuất một số hàm ý chính sách đến các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà quản trị điều hành trong khu vực ngân hàng. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Một số giả thuyết liên quan Tác động của sở hữu tập trung đến hoạt động của công ty là một chủ đề quan trọng được đề cập nhiều trong các nghiên cứu thực nghiệm về quản trị công ty. Jensen & Meckling (1976) cho rằng sự tập trung sở hữu cao có thể mang lại lợi ích cho công ty. Nói một cách khác, công ty có cổ đông lớn sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động và giá trị của công ty. Các nghiên cứu (Admati et al. 1994; Edwards & Nibler 2000; Shleifer & Vishny 1986) dựa trên giả thuyết cổ đông giám sát (SMH- Shareholder Monitoring Hypothesis) cho rằng, ở các công ty có sở hữu tập trung cao sẽ khuyến khích các cổ đông tăng cường giám sát hoạt động của công ty cũng như hoạt động của ban điều hành, từ đó nâng cao hiệu quả kiểm soát công ty. Ngược lại, những công ty có sở hữu phân tán, các cổ đông có ít động cơ để thực hiện việc giám sát. Tương tự, Berle & Means (1933) và Shehzad et al. (2010) ote> cho rằng sở hữu phân tán sẽ làm giảm quyền lực của cổ đông tham gia quản lý, giám sát công ty và có thể cản trở việc ra quyết định hiệu quả. Hơn nữa, khi sở hữu phân tán, các cổ đông nhỏ phải chịu đầy đủ chi phí giám sát trong khi chỉ nhận được một phần nhỏ lợi ích. Vì vậy, họ có rất ít động lực để thực hiện việc giám sát hoạt động của công ty. Tuy nhiên, một số nghiên cứu dựa trên lý thuyết người đại diện (AT- Agency Theory) có quan điểm ngược lại. La Porta et al. (1999) cho rằng một khi công ty được sở hữu bởi các cổ đông lớn sẽ có hiện tượng các cổ đông lớn thu lợi riêng, vì vậy doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động kém hơn. Tương tự, Gomes & Novaes (1999) cho rằng các cổ đông lớn có điều kiện theo đuổi những lợi ích khác so với các cổ đông thiểu số. Vì vậy, các cổ đông lớn và có quyền lực mạnh có thể gây áp lực lên ban quản lý để tăng hiệu suất trong ngắn hạn. Áp lực này có thể thúc đẩy các nhà quản lý theo đuổi những dự án đầu tư mới có rủi ro cao hơn (Burkart et al. 1997). Hoạt động của các ngân hàng có sự khác biệt lớn so với các công ty phi tài chính. Sự khác biệt đó chính là ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính trong nền kinh tế (Shehzad et al. 2010). Tính chất trung gian tài chính của ngân hàng đã làm phát sinh mối quan hệ ủy quyền và thừa hành. Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng sau đó thực hiện nghiệp vụ cho vay. Lúc này phát sinh mối quan hệ giữa ngân hàng với người gửi tiền và mối quan hệ giữa ngân hàng với người đi vay. Trong phạm vi quyền lực của mình, do sự bất cân xứng thông tin, người gửi tiền không thể giám sát và kiểm soát đầy đủ những hành động của cổ đông và nhà quản lý ngân hàng trong mối quan hệ giữa ngân hàng Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 và người đi vay (Saunders et al. 1990). Một số cổ đông ngân hàng có thể thông đồng với các nhà quản lý ngân hàng dùng vốn huy động từ nền kinh tế để tài trợ các khoản vay có rủi ro cao, làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu và gây ra tình trạng hao hụt vốn của các ngân hàng (Shehzad et al. 2010). Hơn nữa, người quản lý ngân hàng và chủ sở hữu ngân hàng không phải gánh chịu toàn bộ hậu quả từ những hành động của họ gây ra, lúc này, vấn đề rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng sẽ phát sinh và gây thiệt hại cho ngân hàng cũng như người gửi tiền (Esty 1998; Galai & Masulis 1976). 2.2. Mối quan hệ giữa sở hữu tập trung và hoạt động ngân hàng Một số nghiên cứu cho rằng sở hữu tập trung có tác động làm gia tăng sự bất ổn cho hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng có mức độ sở hữu tập trung tăng, rủi ro và sự biến động lợi nhuận tăng theo (Hou et al. 2016; Laeven & Levine 2009). Laeven (2002) xem xét mối quan hệ giữa sở hữu tập trung với bảo hiểm tiền gửi và rủi ro ngân hàng ở 14 quốc gia. Nghiên cứu sử dụng chi phí bảo hiểm như là một đại diện cho rủi ro ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy sở hữu tập trung và rủi ro ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều. Tương tự, Kim & Rhee (2000) và Kim et al. (2007) cho thấy rằng khi Chính phủ Nhật mở rộng phạm vi của bảo hiểm tiền gửi và nới lỏng những điều kiện về vốn, sở hữu tập trung có tác động làm tăng rủi ro ngân hàng. Kết quả trên xuất phát từ việc các chương trình bảo hiểm có thể làm giảm kỷ luật thị trường (Demirgüç-Kunt & Detragiache 2002; Demirgüç-Kunt & Huizinga 2004). Vì vậy, kỷ luật thị trường, sự giám sát của thể chế và sự kiểm soát trực tiếp đối với các ngân hàng này có thể không hiệu quả để giảm thiểu chi phí đại diện. Trong trường hợp không có sự kiểm soát thích hợp, các cổ đông của ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động rủi ro cao hơn để gia tăng lợi ích của họ từ tài sản của những người gửi tiền (DeYoung et al. 2001). Trong khi đó, một số nghiên cứu khác cho rằng các ngân hàng có sở hữu tập trung cao sẽ có hoạt động ổn định hơn. Các ngân hàng tập trung sở hữu có rủi ro thấp (García-Marco & Robles-Fernández 2008), rủi ro tài sản và rủi ro phá sản thấp do chất lượng các khoản vay tốt hơn (Iannotta et al. 2007), tỷ lệ nợ xấu thấp và tỷ lệ an toàn vốn cao (Shehzad et al. 2010). Dong et al. (2014) cho thấy rằng sở hữu tập trung trong ngân hàng có ảnh hưởng làm giảm rủi ro. Điều này được giải thích rằng quyền kiểm soát lớn giúp tăng cường giám sát việc quản lý và thúc đẩy các quy trình hoạt động thận trọng. Agusman et al. (2014) xem xét mối quan hệ giữa sở hữu tập trung và rủi ro ngân hàng ở Indonesia trong giai đoạn 1995- 2003. Mẫu nghiên cứu được phân loại thành hai đối tượng, ngân hàng được tái cấp vốn và các ngân hàng không được tái cấp vốn. Nghiên cứu tìm thấy rằng trong số các ngân hàng được tái cấp vốn, tập trung sở hữu có mối quan hệ dương với thanh khoản và tác động âm đến rủi ro tín dụng. Barry et al. (2011) cho rằng một sự tăng quyền sở hữu tập trung làm giảm rủi ro tài sản và rủi ro phá sản nhưng không thay đổi khả năng sinh lời. Đối với các ngân hàng đại chúng có sở hữu phân tán, sự thay đổi cấu trúc sở hữu không có ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng. Chalermchatvichien et al. (2014)cho rằng tập trung sở hữu có thể là một yếu tố VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 5Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng quyết định đáng kể cho sự ổn định về vốn. Nghiên cứu này cũng khẳng định rằng sở hữu tập trung có thể cải thiện thanh khoản của các ngân hàng. Delbariragheb & Zadeh (2015) cho thấy sở hữu tập trung làm giảm rủi ro thanh khoản của ngân hàng. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Xây dựng mô hình nghiên cứu Dựa trên các nghiên cứu đã được công bố trên thế giới (Agusman et al. 2014; Chalermchatvichien et al. 2014; Dong et al. 2014; Kiruri 2013; Shehzad et al. 2010), bài báo đề xuất mô hình nghiên cứu như sau: BANKSTAB i,t = a0 + a1OCi,t + bjXi,t + εi,t Trong đó, - OC đại diện cho sở hữu tập trung của ngân hàng. - X là véc tơ đại diện cho các yếu tố thuộc nội tại của ngân hàng - ε là phần dư; - i,t là chỉ số biểu thị ngân hàng i và năm t. 3.2. Đo lường các biến - BANKSTAB (Bank Stability) đại diện cho sự ổn định của ngân hàng. Tương tự một số nghiên cứu trước (Berger et al. 2017; Fernández et al. 2016; Fu et al. 2014), bài báo sử dụng khái niệm rủi ro để đại diện cho sự ổn định của ngân hàng. Ngân hàng có rủi ro thấp thì ổn định cao. Một số biến số rủi ro được sử dụng trong bài báo bao gồm chỉ số Z_score, Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro trên tổng cho vay (LLRGL) và Tỷ lệ tổng cho vay trên tổng tiền gửi (LDR). Cụ thể : + Biến Z_score được đo lường thông qua công thức sau đây: Z_score = (ROAA i,t + EA i,t )/Sd_ROAA i,t Nhiều nghiên cứu (Beck et al. 2013; Houston et al. 2010; Laeven & Levine 2009; Meslier et al. 2016; Võ Xuân Vinh & Trần Thị Phương Mai 2015) đã sử dụng Z_Score đại diện cho rủi ro phá sản ngân hàng. Z_score có giá trị cao chứng tỏ rằng sự ổn định của ngân hàng cao và ngược lại vì chỉ số này biến động ngược chiều với rủi ro phá sản ngân hàng (Fernández et al. 2016). + Biến LLRGL (Loan Loss Reserves to Gross Loans): Tỷ lệ dự phòng rủi ro trên tổng cho vay là một phương pháp đo lường rủi ro tín dụng ngân hàng (Agusman et al. 2014; Martinez Peria & Schmukler 2001; Nier & Baumann 2006). Tỷ lệ này cao cho thấy nợ có khả năng mất vốn của ngân hà ... làm rủi ro phá sản tăng nhưng rủi ro thanh khoản lại giảm xuống. Theo thuyết minh báo cáo tài chính của các ngân hàng, chi phí hoạt động của các ngân hàng chủ yếu bao gồm chi phí cho nhân viên, chi về tài sản và chi cho hoạt động quản lý, công vụ. Chi phí hoạt động tăng làm sụt giảm lợi nhuận cũng như năng lực tài chính của các ngân hàng (giảm vốn chủ sở hữu). Vốn chủ sở hữu giảm và biến động lợi nhuận tăng lên sẽ làm cho rủi ro phá sản của ngân hàng tăng theo. Tuy nhiên chi phí hoạt động tăng có thể do các ngân hàng tập trung đầu tư nâng cao chất lượng hạ tầng kỹ thuật, mở rộng mạng lưới giao dịch, tăng tiền lương để kích thích người lao động nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu suất làm việc của nhân viên. Từ đó sẽ tạo điều kiện để các ngân hàng đa dạng hóa dịch vụ (giảm tỷ trọng dịch vụ tín dụng), tăng doanh số huy động vốn, nâng cao năng lực và vị thế thanh khoản cho ngân hàng làm cho ngân hàng hoạt động an toàn hơn. Tỷ lệ dự phòng rủi ro trên thu nhập từ lãi vay (LLP) thể hiện chất lượng và quy mô các khoản đầu tư rủi ro của ngân hàng. Khi tỷ lệ này tăng chứng tỏ rằng chất lượng các khoản đầu tư đang giảm. Vì vậy biến LLP có mối quan hệ cùng chiều với rủi ro tín dụng. 5. Kết luận và hàm ý chính sách 5.1. Kết luận Bài báo nghiên cứu tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định của NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy sở hữu tập trung càng cao, sự bất ổn của NHTM càng cao. Cụ thể, các ngân hàng có sở hữu tập trung tăng sẽ tác động làm rủi ro phá sản, rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng tăng. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của (Hou et al. 2016) và (Laeven & Levine 2009) nhưng trái ngược với một số nghiên cứu khác (García-Marco & Robles- Fernández 2008; Iannotta et al. 2007; Shehzad et al. 2010). Kết quả nghiên cứu của bài báo đã đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm trong chủ đề nghiên cứu về tác động của sở hữu tập trung đến hoạt động của các NHTM. VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 11Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 5.2. Hàm ý chính sách Kết quả nghiên cứu cho thấy sở hữu tập trung cao kéo theo sự bất ổn trong hoạt động ngân hàng. Hệ thống ngân hàng có mức độ sở hữu cao nếu không có sự giám sát chặt chẽ có thể sẽ tác động không tốt đến tình hình kinh tế- xã hội. Chính vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước phải có những giải pháp thích hợp để giám sát vấn đề sở hữu tập trung trong ngân hàng một cách tốt nhất. Từ kết quả nghiên cứu, bài báo gợi mở một số hàm ý đến các nhà hoạch định chính sách. Một là, Cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ và NHNN) phải giám sát chặt chẽ và sát sao việc thực thi các quy định về giới hạn cổ phần của các cổ đông NHTM theo quy định của Luật Các TCTD. 6Quán triệt và thực hiện tốt công tác “ngăn ngừa việc lạm dụng quản trị, điều hành, quyền cổ đông lớn để thao túng hoạt động của TCTD” của Đề án 1058. Theo đó, các nhà quản lý có thể đề nghị giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một số cổ đông và những người có liên quan so với quy định hiện hành. Mặt khác, NHNN, cụ thể là Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng cần có những giải pháp giám sát chặt chẽ các nhóm cổ đông, bao gồm các nhóm cổ đông không thuộc đối tượng người có liên quan theo luật định nhưng tiềm ẩn rủi ro đối với hoạt động của NHTM. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến các cổ đông không có cổ phần kiểm soát. Bởi vì sở hữu tập trung có thể tăng cao khi các cổ đông nhỏ 6 “Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% điều lệ của một TCTD” và “Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD”, trừ một số trường hợp đặc biệt được luật quy định riêng. thực hiện thỏa thuận và ủy thác để tạo thành nhóm cổ đông có quyền kiểm soát chi phối hoạt động ngân hàng (Gomes & Novaes 1999; Gomes & Novaes 2005). Hai là, để thực hiện tốt việc giám sát tỷ lệ sở hữu của các cổ đông ngân hàng, NHNN (Thanh tra giám sát ngân hàng) và Bộ Tài chính (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ để chia sẻ thông tin liên quan đến cổ đông của ngân hàng. Mặt khác, cần có quy định riêng về công bố thông tin của cổ đông cá nhân sở hữu ngân hàng theo hướng giảm giới hạn sở hữu. Thực tế cho thấy, có rất ít cổ đông cá nhân của ngân hàng phải công bố thông tin, và cơ quan quản lý không thể giám sát được thông tin về các cổ đông cá nhân của ngân hàng. 7Vấn đề thỏa thuận và ủy thác đã đề cập ở trên có thể được hình thành và gây nên sự bất ổn cho hoạt động của ngân hàng. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu đã cho thấy quy mô ngân hàng, hiệu quả quản lý chi phí hoạt động và tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động đến sự ổn định của ngân hàng. Ngân hàng có quy mô tổng tài sản cao sẽ hoạt động ổn định và hiệu quả. Vì vậy các ngân hàng cần quản lý tốt chất lượng tài sản, từng bước tăng tỷ trọng thu nhập hoạt động phi tín dụng để giảm thiểu nguy cơ hao hụt tổng tài sản ■ 7 Điều 55 Luật Các TCTD 2010 (được sử đổi bổ sung bởi Khoản 14 Điều 1 Luật Các TCTD sửa đổi 2017) quy định giới hạn sở hữu cổ phần của một cá nhân không quá 5%. Mặt khác, theo Luật công bố thông tin, 5% cũng là tỷ lệ sở hữu mà cổ đông phải công bố thông tin. Ngân hàng TMCP là một công ty đại chúng có vốn điều lệ rất lớn, một cá nhân muốn sở hữu 5% cổ phần của một ngân hàng sẽ phải bỏ ra một số tiền ít nhất 150 tỷ đồng (vốn pháp định tối tiểu của ngân hàng là 3.000 tỷ đồng theo luật định). Vì vậy, ở Việt Nam, có rất ít cá nhân có sở hữu trên 5% vốn của một ngân hàng. Tài liệu tham khảo 1. Admati, A.R., Pfleiderer, P. & Zechner, J. (1994), ‘Large shareholder activism, risk sharing, and financial market Tác động của sở hữu tập trung đến sự ổn định ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng Việt Nam 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 equilibrium’, journal of Political Economy, 102(6), 1097-1130. 2. Agusman, A., Cullen, G.S., Gasbarro, D., Monroe, G.S. & Zumwalt, J.K. (2014), ‘Government intervention, bank ownership and risk-taking during the Indonesian financial crisis’, Pacific-Basin Finance Journal, 30, 114-131. 3. Azofra, V. & Santamaría, M. (2011), ‘Ownership, control, and pyramids in Spanish commercial banks’, Journal of Banking Finance, 35(6), 1464-1476. 4. Barry, T.A., Lepetit, L. & Tarazi, A. (2011), ‘Ownership structure and risk in publicly held and privately owned banks’, Journal of Banking & Finance, 35(5), 1327-1340. 5. Beck, T., De Jonghe, O. & Schepens, G. (2013), ‘Bank competition and stability: Cross-country heterogeneity’, Journal of financial Intermediation, 22(2), 218-244. 6. Berger, A.N., Klapper, L.F. & Turk-Ariss, R. 2017, ‘Bank competition and financial stability’, Handbook of Competition in Banking and Finance, Edward Elgar Publishing. 7. Berle, A. & Means, G. 1933, ‘The modern corporation and private capital’, New York: Macmillan. 8. Brown, C.O. & Dinç, I.S. (2011), ‘Too many to fail? Evidence of regulatory forbearance when the banking sector is weak’, The Review of Financial Studies, 24(4), 1378-1405. 9. Burkart, M., Gromb, D. & Panunzi, F. (1997), ‘Large shareholders, monitoring, and the value of the firm’, The quarterly journal of economics, 112(3), 693-728. 10. Chalermchatvichien, P., Jumreornvong, S., Jiraporn, P. & Singh, M. (2014), ‘The effect of bank ownership concentration on capital adequacy, liquidity, and capital stability’, Journal of Financial Services Research, 45(2), 219-240. 11. Delbariragheb, M. & Zadeh, N. (2015), ‘The effect of bank ownership concentration on capital adequacy and liquidity’, Management Science Letters, 5(8), 715-720. 12. Delis, M.D. & Kouretas, G.P. (2011), ‘Interest rates and bank risk-taking’, Journal of Banking Finance, 35(4), 840-855. 13. Demirgüç-Kunt, A. & Detragiache, E. (2002), ‘Does deposit insurance increase banking system stability? An empirical investigation’, Journal of monetary economics, 49(7), 1373-1406. 14. Demirgüç-Kunt, A. & Huizinga, H. (2004), ‘Market discipline and deposit insurance’, Journal of Monetary Economics, 51(2), 375-399. 15. Demirgüç-Kunt, A. & Huizinga, H. (2013), ‘Are banks too big to fail or too big to save? International evidence from equity prices and CDS spreads’, Journal of Banking Finance, 37(3), 875-894. 16. DeYoung, R., Spong, K. & Sullivan, R.J. (2001), ‘Who’s minding the store? Motivating and monitoring hired managers at small, closely held commercial banks’, Journal of Banking & Finance, 25(7), 1209-1243. 17. Dong, Y., Meng, C., Firth, M. & Hou, W. (2014), ‘Ownership structure and risk-taking: Comparative evidence from private and state-controlled banks in China’, International Review of Financial Analysis, 36, 120-130. 18. Edwards, J. & Nibler, M. (2000), ‘Corporate governance in Germany: the role of banks and ownership concentration’, Economic Policy, 15(31), 238-267. 19. Esty, B.C. (1998), ‘The impact of contingent liability on commercial bank risk taking’, Journal of Financial Economics, 47(2), 189-218. 20. Fernández, A.I., González, F. & Suárez, N. (2016), ‘Banking stability, competition, and economic volatility’, Journal of Financial Stability, 22, 101-120. 21. Fu, X.M., Lin, Y.R. & Molyneux, P. (2014), ‘Bank competition and financial stability in Asia Pacific’, Journal of Banking Finance, 38, 64-77. 22. Galai, D. & Masulis, R.W. (1976), ‘The option pricing model and the risk factor of stock’, Journal of Financial economics, 3(1-2), 53-81. 23. García-Marco, T. & Robles-Fernández, M.D. (2008), ‘Risk-taking behaviour and ownership in the banking industry: The Spanish evidence’, Journal of Economics Business, 60(4), 332-354. 24. Gomes, A. & Novaes, W. (1999), ‘Multiple large shareholders in corporate governance’, Working Paper. The Wharton School, Philadelphia, PA. 25. Gomes, A.R. & Novaes, W. (2005), ‘Sharing of control as a corporate governance mechanism’, PIER Working Paper No. 01-029. 26. Hou, W., Lee, E., Stathopoulos, K. & Tong, Z. (2016), ‘Executive compensation and the split share structure reform in China’, The European Journal of Finance, 22(4-6), 506-528. 27. Houston, J.F., Lin, C., Lin, P. & Ma, Y. (2010), ‘Creditor rights, information sharing, and bank risk taking’, Journal of financial Economics, 96(3), 485-512. 28. Iannotta, G., Nocera, G. & Sironi, A. (2007), ‘Ownership structure, risk and performance in the European banking industry’, Journal of Banking Finance, 31(7), 2127-2149. 29. Jensen, M.C. & Meckling, W.H. (1976), ‘Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure’, Journal of financial economics, 3(4), 305-360. 30. Kim, K.A., Lee, S.-H. & Rhee, S.G. (2007), ‘Large shareholder monitoring and regulation: The Japanese banking experience’, Journal of Economics and Business, 59(5), 466-486. VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 13Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 31. Kim, K.A. & Rhee, S.G. (2000), ‘A note on shareholder oversight and the regulatory environment: the Japanese banking experience’. 32. Kiruri, R.M. (2013), ‘The effects of ownership structure on bank profitability in Kenya’, European Journal of Management Sciences Economics Letters, 1(2), 116-127. 33. La Porta, R., Lopez‐de‐Silanes, F. & Shleifer, A. (1999), ‘Corporate ownership around the world’, The journal of finance, 54(2), 471-517. 34. Laeven, L. (2002), ‘Bank risk and deposit insurance’, the world bank economic review, 16(1), 109-137. 35. Laeven, L. & Levine, R. (2009), ‘Bank governance, regulation and risk taking’, Journal of financial economics, 93(2), 259-275. 36. Mandaci, P. & Gumus, G. (2010), ‘Ownership concentration, managerial ownership and firm performance: Evidence from Turkey’, South East European Journal of Economics and Business, 5(1), 57-66. 37. Martinez Peria, M.S. & Schmukler, S.L. (2001), ‘Do depositors punish banks for bad behavior? Market discipline, deposit insurance, and banking crises’, The journal of finance, 56(3), 1029-1051. 38. Meslier, C., Morgan, D.P., Samolyk, K. & Tarazi, A. (2016), ‘The benefits and costs of geographic diversification in banking’, Journal of International Money and Finance, 69, 287-317. 39. Nier, E. & Baumann, U. (2006), ‘Market discipline, disclosure and moral hazard in banking’, Journal of Financial Intermediation, 15(3), 332-361. 40. Pedersen, T. & Thomsen, S. (1999), ‘Economic and systemic explanations of ownership concentration among Europe’s largest companies’, International Journal of the Economics of Business, 6(3), 367-381. 41. Saunders, A., Strock, E. & Travlos, N.G. (1990), ‘Ownership structure, deregulation, and bank risk taking’, the Journal of Finance, 45(2), 643-654. 42. Shehzad, C.T., de Haan, J. & Scholtens, B. (2010), ‘The impact of bank ownership concentration on impaired loans and capital adequacy’, Journal of Banking Finance, 34(2), 399-408. 43. Shleifer, A. & Vishny, R. (1997), ‘A Survey Of Corporate Governance’, Journal Of Finance, 52(2), 737-783. 44. Shleifer, A. & Vishny, R.W. (1986), ‘Large shareholders and corporate control’, Journal of political economy, 94(3, Part 1), 461-488. 45. Võ Xuân Vinh & Mai Xuân Đức (2017), ‘Sở hữu nước ngoài và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 33(3), 1-11. 46. Võ Xuân Vinh & Trần Thị Phương Mai (2015), ‘Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(8), 54-70. 47. Wen, Y. & Jia, J. (2010), ‘Institutional ownership, managerial ownership and dividend policy in bank holding companies’, International Review of Accounting, Banking Finance, 2(1), 8-21. mở rộng bao phủ BHXHTN nói riêng và BHXH nói chung. Cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các yếu tố (như thiết kế các chế độ hưởng BHXHTN, mức đóng- mức hưởng, các chế độ hỗ trợ tài chính và phi tài chính, thủ tục và quá trình đăng ký tham gia, đóng, hưởng BHXH, mở rộng BHXHTN với người lao động di cư quốc tế) là những vấn đề quan trọng quyết định sự thành công của mục tiêu mở rộng sự bao phủ BHXHTN mà Việt Nam có thể tiếp thu từ kinh nghiệm quốc tế. ■ tiếp theo trang 55 hàng dễ rơi vào tình trạng nới lỏng các điều kiện tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho tiếp theo trang 43 nền kinh tế, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn gia tăng. Biến Lạm phát (LP): Lạm phát có tác động thuận chiều đến rủi ro ngân hàng. Tức là lạm phát tăng, rủi ro các ngân hàng cũng gia tăng. Bởi ảnh hưởng của khủng hoảng năm 2008, lạm phát của nền kinh tế Việt Nam năm 2008 là 23,1%, năm 2011 là 18,68%. Vào những thời điểm này, hệ thống NHTM gặp rất nhiều khó khăn khi thị trường bất động sản đóng băng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi, nhiều khó khăn dẫn đến khả năng kiệt quệ trong việc trả nợ ngân hàng... làm cho rủi ro hệ thống NHTM Việt Nam cao, và phải đối phó với khó khăn bằng nhiều cách như: cắt giảm quy mô, giảm nhân sự, siết chặt tín dụng.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_so_huu_tap_trung_den_su_on_dinh_ngan_hang_bang.pdf