Tác động của quản trị hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam

TÓM TẮT

Ứng dụng hàm Cobb–Douglas, bài nghiên cứu thiết kế mô hình thực nghiệm dưới dạng bảng

động và sử dụng phương pháp ước lượng D-GMM để kiểm tra tác động của các chỉ số quản trị

hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam. Bộ dữ liệu nghiên cứu gồm 63 tỉnh và

thành phố trực thuộc Trung ương được thu thập trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2018. Bằng

chứng thống kê tìm được củng cố mạnh mẽ cho vai trò của hiệu quả quản trị hành chính công cấp

tỉnh. Các chỉ số PCI và PAPI đại diện cho thể chế quản trị hành chính công giải thích tốt cho sự

thay đổi kinh tế địa phương. Kết quả nghiên cứu cũng xem xét ảnh hưởng của các chỉ số nội dung

thành phần của PAPI. Trong khi sự Tham gia của người dân ở cấp cơ sở và Trách nhiệm giải

trình với người dân đều cho thấy có những ảnh hưởng tích cực, Công khai, minh bạch trong việc

ra quyết định lại có mối tương quan nghịch chiều.

Từ khóa: D-GMM, PAPI, PCI, quản trị hành chính công.

pdf 10 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của quản trị hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của quản trị hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam

Tác động của quản trị hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
102 
TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH CÔNG ĐỐI VỚI 
KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM 
THE IMPACT OF PROVINCIAL ADMINISTRATIVE GOVERNANCE ON VIETNAM’S 
REGIONAL GROWTH PERFORMANCE 
Ngày nhận bài: 27/02/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 30/03/2020 
Lê Thông Tiến, Võ Thị Thúy Kiều, Lê Hoàng Anh, Nguyễn Thị Như Ý 
TÓM TẮT 
Ứng dụng hàm Cobb–Douglas, bài nghiên cứu thiết kế mô hình thực nghiệm dưới dạng bảng 
động và sử dụng phương pháp ước lượng D-GMM để kiểm tra tác động của các chỉ số quản trị 
hành chính công đối với kinh tế địa phương ở Việt Nam. Bộ dữ liệu nghiên cứu gồm 63 tỉnh và 
thành phố trực thuộc Trung ương được thu thập trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2018. Bằng 
chứng thống kê tìm được củng cố mạnh mẽ cho vai trò của hiệu quả quản trị hành chính công cấp 
tỉnh. Các chỉ số PCI và PAPI đại diện cho thể chế quản trị hành chính công giải thích tốt cho sự 
thay đổi kinh tế địa phương. Kết quả nghiên cứu cũng xem xét ảnh hưởng của các chỉ số nội dung 
thành phần của PAPI. Trong khi sự Tham gia của người dân ở cấp cơ sở và Trách nhiệm giải 
trình với người dân đều cho thấy có những ảnh hưởng tích cực, Công khai, minh bạch trong việc 
ra quyết định lại có mối tương quan nghịch chiều. 
Từ khóa: D-GMM, PAPI, PCI, quản trị hành chính công. 
ABSTRACT 
Applying Cobb – Douglas function, the paper designed experimental models in the form of 
Dynamic Panel Data and using D-GMM estimation to examine the impact of provincial 
administrative governance indicators on the regional growth performance in Vietnam. The 
researching dataset of 63 provinces and cities directly under the Central Government was 
collected from 2012 to 2018. The statistical evidence found strongly strengthened the role of public 
administrative governance efficiency. The PCI and PAPI are employed as proxies of provincial 
administrative governance, explaining the regional growth performance. The research results also 
considered the impact of PAPI's component index of content. While Participation at Local Levels 
and Vertical Accountability had found positive effects, Transparency was recorded negatively 
correlation. 
Keywords: D-GMM, PAPI, PCI, provincial administrative governance. 
1. Giới thiệu 
Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 
4.0 đương đại đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, 
nền hành chính công cũng cần được đổi mới 
và vượt qua những thử thách ngày một phức 
tạp hơn. Những nghiên cứu về khả năng quản 
trị hành chính công ở địa phương cũng được 
thực hiện để giải quyết những yêu cầu thực 
tiễn thiết yếu phục vụ cho việc cải cách hệ 
thống quản trị hành chính công một cách 
đồng bộ và hiệu quả ở Việt Nam. Manning & 
ctg (2006) đã cho rằng các nhà kinh tế có 
nhiều cách tiếp cận khác nhau để diễn giải 
các quan điểm cơ bản của quản trị công. 
Phương pháp đo lường quản trị công được 
cho là một vấn đề rất phức tạp và để lại rất 
nhiều những tranh luận cần tiếp tục giải đáp 
(Rotberg, 2004). Mặt khác, sự ra đời của hai 
bộ chỉ số liên quan đến chất lượng thể chế ở 
Lê Thông Tiến, Ủy ban Kiểm tra Quận ủy Quận 
Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh 
Võ Thị Thúy Kiều, Lê Hoàng Anh, Trường Đại 
học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh 
Nguyễn Thị Như Ý, Ủy ban Kiểm tra Quận ủy 
Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
103 
địa phương là PAPI và PCI cũng góp phần 
thúc đẩy sự quan tâm nhiều hơn của công 
chúng cũng như những nhà phân tích chính 
sách công. 
Từ năm 2005, Dự án về Chỉ số Năng lực 
cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial 
Competitiveness Index, PCI) được thực hiện 
bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt 
Nam (VCCI) với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát 
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam 
nhằm đo lường và đánh giá thường niên chất 
lượng điều hành các tỉnh và thành phố trực 
thuộc Trung ương dưới góc nhìn của doanh 
nghiệp tư nhân. Chính phủ đã giao trách 
nhiệm cho các địa phương thực hiện rà soát 
và đưa ra các giải pháp để cải thiện PCI, 
đồng thời đặt hàng VCCI tiến hành điều tra, 
đánh giá độc lập và công bố PCI định kỳ 
hàng năm (VCCI-USAID, 2018). 
Đến năm 2009, Trung tâm Nghiên cứu 
phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), 
Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo 
cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF-
CRT), Công ty Phân tích Thời gian thực 
(RTA) và Chương trình Phát triển Liên Hợp 
quốc (UNDP) đã phối hợp phát triển và cập 
nhật thường niên Chỉ số Hiệu quả Quản trị và 
Hành chính công cấp tỉnh (The Viet Nam 
Provincial Governance and Public 
Administration Performance Index, PAPI). 
PAPI hướng tới việc cải thiện hiệu quả phục 
vụ nhân dân của chính quyền địa phương 
nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao 
của nhân dân thông qua việc: (i) tạo cơ hội 
cho người dân tham gia đánh giá hiệu quả 
hoạt động của chính quyền, vận động chính 
quyền cải thiện cách phục vụ nhân dân; và, 
(ii) thúc đẩy việc tự đánh giá để đổi mới, tạo 
tập quán cạnh tranh lành mạnh và văn hóa 
học hỏi kinh nghiệm giữa các chính quyền 
địa phương (CECODES & ctg, 2019). 
Cũng trong năm 2009, Tran & ctg (2009) 
đã nghiên cứu về cải cách thể chế ở Việt 
Nam và tác động đối với hiệu quả hoạt động 
của các doanh nghiệp. Bộ dữ liệu được sử 
dụng bao gồm Chỉ số năng lực cạnh tranh 
cấp tỉnh (PCI) và dữ liệu doanh nghiệp trong 
năm 2005. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, 
sự cạnh tranh giữa các tỉnh, thành phố trực 
thuộc trung ương có ý nghĩa về mặt thống kê 
trong việc giải thích sự khác biệt về vai trò 
kinh tế trong quản trị hành chính công ở địa 
phương. Hiệu quả hoạt động của các công ty 
được cải thiện nhờ vào ảnh hưởng tích cực 
của việc cung cấp thông tin thị trường, an 
toàn về quyền sử dụng đất và hỗ trợ đào tạo 
lao động. Tuy nhiên, những rào cản tư pháp 
và cải cách hành chính chưa thực sự tỏ ra 
hiệu quả trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng 
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở 
Việt Nam. 
Gần đây, Vinh & Nhung (2019) đã sử 
dụng các phương pháp ước lượng OLS, 
REM, FEM, FGLS để tìm ra những kết quả 
nghiên cứu tích cực đối với thực trạng phân 
bổ ngân sách nhà nước. Yếu tố ngân sách nhà 
nước trong bài viết này đóng vai trò như một 
yếu tố vốn đầu vào. Mô hình thực nghiệm 
thêm vào yếu tố đánh giá và xếp hạng chính 
quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc trung 
ương của Việt Nam (PCI) trong việc xây 
dựng chất lượng điều hành kinh tế và xây 
dựng mô hình kinh doanh. Tuy nhiên, kết 
quả nghiên cứu cho thấy có sự tương quan 
không đồng nhất của PCI với tăng trưởng 
kinh tế địa phương trong các phương pháp 
ước lượng, bằng chứng thống kê về sự tồn tại 
mối tương quan dương chỉ được cung cấp bởi 
phương pháp ước lượng OLS. 
Thanh & Hoai (2017) đã lượng hóa tác 
động của quy mô chính phủ và quản trị công 
đối với đầu tư tư nhân cho các tỉnh của Việt 
Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 
2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các 
chỉ số quản trị công và các thành phần trong 
đó có tác động tích cực đến tăng trưởng đầu 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
104 
tư tư nhân, cải thiện hiệu quả chi tiêu công và 
gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. 
Barbosa & ctg (2016) đã chứng minh rằng 
nếu chính phủ tăng tính minh bạch và trách 
nhiệm trong chi tiêu công, đồng nghĩa với 
việc gia tăng chất lượng quản trị hành chính 
công, chi phí khu vực công sẽ giảm trong khi 
vẫn đáp ứng tốt các mục tiêu phát triển kinh 
tế. Nhấn mạnh tầm quan trọng của thể chế 
hành chính, liên quan đến tự do dân sự, chất 
lượng pháp lý và tham nhũng thấp hơn, 
Percoco (2014) cho rằng chất lượng quản trị 
công sẽ thúc đẩy nhiều hơn sự tham gia của 
khu vực tư nhân vào các dự án đối tác công - 
tư. Chất lượng pháp lý như quyền tài sản, 
thực thi hợp đồng, giá cả và quy định kinh 
doanh và thực tiễn lao động cũng có tác động 
quyết định đến hiệu quả kinh tế và xã hội 
(Gwartney và Stroup, 2014). 
Bên cạnh đó, Nguyen & ctg (2013) và 
Tran & ctg (2009) cung cấp những bằng 
chứng hữu ích cho rằng quản trị công và cải 
cách thể chế có tác động quan trọng đến việc 
tăng hiệu suất hoạt động của công ty và 
khuyến khích các doanh nghiệp trong nước 
hướng tới đổi mới chiến lược kinh doanh để 
có hiệu quả hơn trong việc cạnh tranh với các 
công ty nước ngoài. Các khoản đầu tư của 
các doanh nghiệp đa quốc gia tại các quốc 
gia mới nổi sẽ phụ thuộc vào cấu trúc quản 
trị công của chính phủ nước sở tại (Jiang & 
ctg, 2015). Thực tế, chất lượng quản trị công 
mà chủ yếu là nhằm để ủng hộ các doanh 
nghiệp nhà nước được cho là một trong 
những dấu hiệu của tham nhũng và làm méo 
mó tính cạnh tranh trong môi trường kinh 
doanh (Nguyen và van Dijk, 2012). 
Do đó, thay vì đầu tư công dàn trải và 
thiếu định hướng, chính phủ các quốc gia nên 
thiết lập tốt hơn thể chế hành chính mà vận 
động được nhiều hơn các kênh đầu tư của 
khu vực tư nhân (Aparicio & ctg, 2016; 
Braga Tadeu và Moreira Silva, 2013). Chất 
lượng quản trị công sẽ thúc đẩy sự gia tăng 
năng suất biên của đầu tư công, và đồng thời 
gia tăng năng suất biên của đầu tư tư nhân 
(Dzhumashev, 2014). Các nghiên cứu gần 
đây đều cho rằng bên cạnh chi tiêu công, 
quản trị công và cải cách thể chế cũng là 
những nhân tố nội sinh quan trọng quyết định 
đến sự tăng trưởng kinh tế (Thanh & Hoai, 
2017; Neyapti và Arasil, 2016; Nawaz, 2015; 
Brousseau & ctg, 2011). 
Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm 
mục đích phân tích sâu sắc hơn ảnh hưởng 
của hoạt động quản trị hành chính công đến 
sản lượng đầu ra của kinh tế địa phương. 
Trong khi một vài nghiên cứu trước đây sử 
dụng bộ dữ liệu GRDP của các tỉnh, thành 
phố trực thuộc trung ương vào mô hình phân 
tích. Bộ dữ liệu này tỏ ra không hiệu quả và 
được khuyến cáo cần đánh giá lại toàn bộ 
chuỗi số liệu GRDP tương ứng với cách tính 
GDP quốc gia. Bằng chứng là, chuỗi số liệu 
ước tính GRDP năm 2017 chênh lệch so với 
GDP quốc gia 1.7 lần. Ngày 10/4/2018, Tổng 
cục trưởng Tổng cục Thống kê đã ban hành 
Quyết định số 286/QĐ-TCTK về kế hoạch 
thực hiện điều chỉnh quy mô GDP và GRDP 
giai đoạn 2010-2017, và đề nghị Cục Thống 
kê và Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương 
dừng việc tính toán GRDP, và thực hiện đánh 
giá lại theo hướng dẫn của Tổng cục Thống 
kê. Do đó, bài nghiên cứu đề xuất sử dụng 
chỉ số sản xuất công nghiệp (Industrial 
Production Index, IPI) để đại diện cho sản 
lượng đầu ra của kinh tế địa phương. Một 
trong những lý do chính khiến chỉ số sản xuất 
công nghiệp (IPI) thường xuyên được xem là 
một đại diện tốt cho GDP là vì giá trị gia tăng 
của sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng 
đáng kể trong GDP (OECD, 2012). 
Mặt khác, mô hình dữ liệu bảng động 
(Dynamic Panel Data, DPD) và phương pháp 
ước lượng Sai phân Mô men Tổng quát 
(Difference Genaralized Method of Moments-
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
105 
DGMM) cũng được đề xuất để xây dựng mô 
hình thực nghiệm và cung cấp thêm các bằng 
chứng thống kê, củng cố thêm ý nghĩa kinh tế 
của những nghiên cứu trước đây. 
2. Phương pháp nghiên cứu: 
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp 
nghiên cứu định lượng, vận dụng mô hình lý 
thuyết Cobb và Douglas để nghiên cứu tác 
động của quản trị hành chính công ở 63 tỉnh, 
thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm bộ 
chỉ số chất lượng quản trị hành chính công và 
chỉ số năng lực cạnh tranh, đối với kinh tế 
địa phương. Tác động của quản trị hành 
chính công được lượng hóa bởi mô hình dữ 
liệu bảng động (DPD), và tính toán ước 
lượng bằng phương pháp Sai phân Mômen 
Tổng quát (D-GMM). 
2.1. Về mô hình lý thuyết 
Cobb và Douglas (1928) đã giới thiệu một 
mô hình kinh tế học đại diện cho mối quan 
hệ giữa hai hay nhiều yếu tố đầu và sản 
lượng đầu ra, hàm Cobb–Douglas, được thể 
hiện như sau: 
Y = A (1) 
Trong đó: 
 Y là năng suất hay sản lượng đầu ra 
 là tích các yếu tố vốn k thứ i 
 với là trọng số 
của yếu tố vốn k thứ i (2) 
 là tích các yếu tố lao động l thứ j 
 với là trọng số 
của yếu tố lao động thứ j (3) 
 A là hệ số nhân tăng trưởng, thể hiện 
sự tương tác kết hợp giữa yếu tố vốn và lao 
động. Trong trường hợp của bài nghiên cứu, 
yếu tố A cũng được hiểu là chất lượng quản 
trị hành chính công. 
Phương trình (1) còn được viết dưới dạng 
như sau: 
 (4) 
Chuyển hai vế phương trình (4) về dạng 
logarith tự nhiên: 
 (5) 
Khi ấy, phương trình (5) tương đương với: 
 (6) 
2.2. Về phương pháp ước lượng 
Mô hình dữ liệu bảng động (Dynamic 
Panel Data - DPD) được sử dụng trong bài 
nghiên cứu nhằm phân tích sâu sắc hơn ảnh 
hưởng của thông tin lịch sử, quan tâm đến sự 
tác động của dữ liệu quá khứ của tăng trưởng 
địa phương, mô hình DPD có dạng như sau: 
 (7) 
Trong đó, là biến phụ thuộc được 
quan sát ứng với đối tượng i và thời điểm t, 
 là vectơ biến độc lập tại thời điểm t, là 
ảnh hưởng riêng của từng đối tượng không 
thay đổi theo thời gian và không quan sát 
được, là sai số ngẫu nhiên. 
Phương pháp ước lượng OLS sử dụng 
trong mô hình dạng bảng động thu được các 
hệ số ước lượng bị chệch do vấn đề nội sinh 
trong mô hình không thể loại bỏ. Arellano và 
Bond (1991) đã đề nghị dùng mô hình GMM 
sai phân (Difference-GMM hay D-GMM) do 
Hansen (1982) phát triển, đồng thời sử dụng 
độ trễ từ bậc hai của biến phụ thuộc và biến 
giải thích đóng vai trò như các biến công cụ 
để kiểm soát vấn đề nội sinh tiềm ẩn trong 
mô hình nghiên cứu thực nghiệm. Việc lấy 
sai phân của mô hình sẽ giúp loại bỏ được 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
106 
ảnh hưởng tương quan giữa phần dư và các 
biến giải thích. 
Phương pháp D-GMM được cho là hiệu 
quả hơn so với phương pháp ước lượng OLS, 
FEM, REM vì dễ dàng thỏa mãn các giả thiết 
ước lượng thông qua các phương trình điều 
kiện moment. Các phương trình điều kiện 
moment xác định các ràng buộc ngoại sinh 
giữa sai số trong mô hình với các biến công 
cụ được sử dụng. Trong trường hợp mẫu 
quan sát đủ lớn, hệ số ước lượng bằng 
phương pháp D-GMM tiệm cận với ước 
lượng thu được từ phương pháp bình phương 
bé nhất (OLS) và phương pháp cực đại hàm 
hợp lý (MLE). 
Kiểm định Sargan và kiểm định Arellano - 
Bond cũng được sử dụng. Trong đó, kiểm 
định Sargan được thực hiện nhằm kiểm tra 
điều kiện ngoại sinh đồng thời của các biến 
công cụ. Do mô hình được xây dựng dựa trên 
phép chuyển đổi sai phân, vấn đề tự tương 
quan bậc nhất được chấp nhận một cách hiển 
nhiên. Vấn đề tự tương quan bậc hai được 
kiểm tra thông qua kiểm định Arellano - Bond 
được đề xuất bởi Arellano và Bond (1991). 
2.3. Về mô hình thực nghiệm: 
Bài nghiên cứu xem xét 2 yếu tố: vốn địa 
phương (Localsize) và vốn tư nhân (Private) 
là yếu tố vốn (k) đầu vào; vốn lao động (l) là 
lực lượng lao động (Labor). Phương trình (6) 
được phân tích như sau : 
 (8) 
Dựa trên mô hình lý thuyết được xây 
dựng ở phương trình (7) và (8), ba mô hình 
thực nghiệm dạng bảng động (DPD) xem xét 
ảnh hưởng của chất lượng quản trị hành 
chính công đến tăng trưởng kinh tế địa 
phương được xây dựng lần lượt như sau: 
lnIPIi,t = β0 + β1lnIPIi,t-1 + β2lnLocalsizei,t + 
β3lnPrivatei,t + β4lnLabori,t + β5lnPCIi,t + μi 
+ εit (9) 
lnIPIi,t = β0 + β1lnIPIi,t-1 + β2lnLocalsizei,t + 
β3lnPrivatei,t + β4lnLabori,t + β5lnPAPIi,t + 
μi + εit (10) 
lnIPIi,t = β0+ β1lnIPIi,t-1 + β2lnLocalsizei,t + 
β3lnPrivatei,t + β4lnLabori,t + 
 + μi + εit (11) 
Trong đó: 
 μi ~ i.i.d.(0, ), εit ~ i.i.d.(0, ), 
E[μiεit] = 0; 
 i: là các tỉnh, thành phố trực thuộc 
trung ương; t: là năm (2012-2018); 
 lnIPIi,t: là chỉ số sản xuất công nghiệp, 
đại diện cho tăng trưởng kinh tế địa phương. 
 lnLocalsizei,t: là chi tiêu ngân sách địa 
phương. 
 lnPrivatei,t: là tổng mức bán lẻ hàng 
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá 
thực tế ở địa phương. 
 lnLabori,t: là lực lượng lao động. 
 lnPCIi,t: là Chỉ số Năng lực Cạnh tranh 
cấp tỉnh. 
 lnPAPIi,t: là Chỉ số Hiệu quả Quản trị 
và Hành chính công cấp tỉnh 
 ln : là bộ sáu chỉ số nội 
dung cấu thành nên . 
2.4. Về dữ liệu nghiên cứu: 
Bảng 1 mô tả ý nghĩa và nguồn thu thập 
dữ liệu các biến trong mô hình thực nghiệm. 
Bộ dữ liệu được thu thập trên 63 tỉnh, thành 
phố trực thuộc trung ương từ năm 2012 đến 
năm 2018. Hầu hết dữ liệu nghiên cứu được 
thu thập chủ yếu từ số liệu và báo cáo của 
Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính Việt 
Nam. Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh 
(PCI) và Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành 
chính công cấp tỉnh (PAPI) được thu thập 
thông qua các trang thông tin điện tử mã 
nguồn mở và miễn phí tiếp cận. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
107 
Bảng 1: 
Mô tả và giải thích ý nghĩa các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu 
Tên biến Ký hiệu Giải thích ý nghĩa các biến Nguồn thu thập dữ liệu 
Chỉ số sản 
xuất công 
nghiệp 
IPI Đại diện cho tăng trưởng kinh tế địa 
phương. 
Tổng cục Thống kê Việt 
Nam 
Vốn địa 
phương 
Localsize Chi ngân sách địa phương là một đại 
diện cho vốn khu vực công 
Bộ Tài chính 
Vốn tư 
nhân 
Private Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu 
dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế ở địa 
phương 
Tổng cục Thống kê Việt 
Nam 
Lực lượng 
lao động 
Labor Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 
theo địa phương 
Tổng cục Thống kê Việt 
Nam 
Chỉ số 
Năng lực 
Cạnh 
tranh Cấp 
tỉnh 
PCI Ước tính thông qua 10 chỉ số thành 
phần là: (i) Gia nhập thị trường; (ii) 
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử 
dụng đất; (iii) Tính minh bạch; (iv) Chi 
phí thời gian; (v) Chi phí không chính 
thức; (vi) Tính năng động và tiên phong 
của lãnh đạo tỉnh; (vii) Cạnh tranh bình 
đẳng; (viii) Dịch vụ hỗ trợ doanh 
nghiệp; (ix) Đào tạo lao động; (x) Thiết 
chế pháp lý. 
Phòng Thương mại và 
Công nghiệp Việt Nam 
(VCCI) và Cơ quan Phát 
triển Quốc tế Hoa Kỳ 
(USAID) tại Việt Nam. 
Chỉ số 
Hiệu quả 
Quản trị 
và Hành 
chính 
công cấp 
tỉnh 
PAPI Tổng phi trọng số của 06 chỉ số nội 
dung, số liệu PAPI năm 2018 không bao 
gồm hai chỉ số mới được thêm vào là 
Quản trị môi trường và Quản trị điện tử: 
 = 
Bao gồm 06 chỉ số nội dung là: (j=1) 
Tham gia của người dân ở cấp cơ sở 
(PLL); (j=2) Công khai, minh bạch 
trong việc ra quyết định (Trans); (j=3) 
Trách nhiệm giải trình với người dân 
(VA); (j=4) Kiểm soát tham nhũng 
trong khu vực công (COC); (j=5) Thủ 
tục hành chính công (PAP); (j=6) Cung 
ứng dịch vụ công (PSD) (CECODES, 
2019). 
Nguồn: Tổng hợp bởi nhóm tác giả 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
108 
3. Kết quả và thảo luận 
Bảng 2: 
Kết quả ước lượng mô hình thực nghiệm 
Biến phụ thuộc: lnIPI Mô hình (9) Mô hình (10) Mô hình (11) 
0,0589*** 0,0720*** 0,0891*** 
lnLocalsize -0,0182 0,0562*** 0,0463*** 
lnPrivate -0,0456** -0,0486* -0,0099 
lnLabor 0,2182 0,4275** 0,2789* 
lnPCI 0,5680*** 
lnPAPI 0,3243*** 
lnPLL 0,3150*** 
lnTrans -0,1977*** 
lnVA 0,1261*** 
lnCOC -0,0204 
lnPAP -0,1126 
lnPSD -0,0021 
------------------------------------------------------------------------------------------------------ ----------------- 
Số biến công cụ được sử 
dụng 
49 49 54 
Kiểm định Sargan 0,284 0,184 0,772 
AR(2) 0,673 0,408 0,320 
Số quan sát 315 315 315 
Số tỉnh thành 63 63 63 
Ghi chú: ***, **, * thể hiện ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt ở 1%, 5%, 10%; N là kích thước mẫu; 
N_g là số lượng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tham gia trong mẫu nghiên cứu; Kiểm định 
Sargan trình bày giá trị p_value của thống kê kiểm định Sargan; AR(2) trình bày giá trị p_value tự tương 
quan bậc ρ của kiểm định Arellano-Bond. 
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả 
Kết quả kiểm định Sargan thu được chưa 
đủ cơ sở để bác bỏ giá thiết H0 (Giả thiết H0 
là tất cả các biến công cụ trong mô hình được 
xem là ngoại sinh) ở các mức ý nghĩa 1%, 
5%, 10%, lần lượt là 0,284; 0,184 và 0,772 ở 
Mô hình (9), (10) và (11). Tập các biến công 
cụ được sử dụng trong các mô hình được cho 
là ngoại sinh. Đồng thời, AR(2) cho thấy 
hiện tượng tự tương quan bậc 2 cũng không 
xảy ra ở cả ba Mô hình (9), (10) và (11). 
Nhìn chung, sự tăng trưởng kinh tế địa 
phương được duy trì mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu 
sắc bởi những thuận lợi vốn có của địa phương 
đó. Độ trễ của Chỉ số Sản xuất Công nghiệp 
( ) đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% ở 
cả ba mô hình thực nghiệm (Bảng 2). 
Một trong những điểm nổi bật của kết quả 
nghiên cứu là các đại diện cho chất lượng 
quản trị hành chính công có thể giải thích 
mạnh mẽ cho sự thay đổi của kinh tế địa 
phương. Hệ số ước lượng của Chỉ số Năng 
lực Cạnh tranh (lnPCI) là 0,5680 và của Chỉ 
số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp 
tỉnh (lnPAPI) là 0,3243, đều có ý nghĩa thống 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
109 
kê ở mức ý nghĩa 1%. Khi phân tích sâu hơn 
về các chỉ số nội dung cấu thành nên PAPI, 
kết quả nghiên cứu tìm thấy bằng chứng 
thống kê đều ở mức ý nghĩa 1% về ảnh 
hưởng của các chỉ số Tham gia của người 
dân ở cấp cơ sở (lnPLL), Công khai, minh 
bạch trong việc ra quyết định (lnTrans) và 
Trách nhiệm giải trình với người dân (lnVA). 
Trong khi động thái của chính quyền cơ 
sở nhằm vào mục tiêu giảm bớt việc sử dụng 
áp lực để buộc công dân đóng góp bằng tiền, 
hiện vật, hoặc ngày công lao động cho dự án 
cơ sở hạ tầng, từ đó người dân chủ động hơn 
trong việc quyết định tham gia đóng góp tự 
nguyện cho dự án phát triển hạ tầng ở địa 
phương. Vô hình chung, thái độ tích cực của 
người dân đối với chính quyền thúc đẩy sự 
phát triển của kinh tế địa phương. Điều này 
giải thích cho hệ số ước lượng 0,3150 của 
lnPLL ở mức ý nghĩa 1% thu được từ Mô 
hình (11). 
Bên cạnh đó, bởi hệ số ước lượng là -
0,1977 có ý nghĩa thống kê ở mức 1% cùng 
chiều hướng âm được ghi nhận, kết quả 
nghiên cứu ở Bảng 2 chưa có bằng chứng lạc 
quan về vai trò của sự hài lòng của người dân 
đối với mức độ công khai, minh bạch (Trans) 
của chính quyền địa phương trong việc tổ 
chức lập danh sách hộ nghèo và chia sẻ thông 
tin thu, chi ngân sách. Mặc dù, sự công khai, 
minh bạch đem lại nhiều lợi ích về mặt xã 
hội nhưng lại tác động ngược chiều đối với 
kinh tế địa phương, một phần vì ảnh hưởng 
mạnh mẽ do tăng trưởng không bền vững từ 
việc hưởng lợi thông qua thông tin bất cân 
xứng, đầu cơ tích trữ và kinh doanh chênh 
lệch giá. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy một ảnh 
hưởng đáng lưu ý là hệ số ước lượng của 
Trách nhiệm giải trình với người dân (lnVA) 
tương ứng 0,1261 với ý nghĩa thống kê 1%. 
Rõ ràng cuộc tiếp xúc giữa người dân và 
chính quyền trong trường hợp này mang lại 
một số kết quả hài hòa giữa hai bên thì cũng 
góp phần đóng góp cho sự tăng trưởng kinh 
tế địa phương. 
Về ảnh hưởng của các yếu tố vốn, hệ số 
ước lượng của Vốn địa phương (lnLocalsize) 
có ý nghĩa thống kê ở mức 1% đối với Mô 
hình (10) và (11), phản ánh mối tương quan 
cùng chiều lên kinh tế địa phương. Hàm ý 
rằng, Vốn địa phương đóng vai trò quan 
trọng trong việc giải thích sự tăng trưởng 
kinh tế địa phương. Tuy nhiên, kết quả về 
mặt thống kê cũng cho thấy vốn địa phương 
chưa hỗ trợ tốt cho ảnh hưởng của Vốn tư 
nhân (lnPrivate) lên tăng trưởng kinh tế cấp 
tỉnh. Bằng chứng là, tác động nghịch chiều 
được tìm thấy ở Mô hình (9) và Mô hình (10) 
lần lượt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và 
10%. Hiệu ứng này làm cho vốn địa phương 
và vốn tư nhân có xu hướng triệt tiêu lẫn 
nhau. Kết quả này đồng thời ủng hộ cho kết 
quả nghiên cứu của Vinh & Nhung (2019) về 
ảnh hưởng cùng chiều của chi ngân sách địa 
phương được ghi nhận nhưng tỏ ra không 
hiệu quả trong việc phân bổ các nguồn lực xã 
hội. 
Về ảnh hưởng của yếu tố lao động, hệ số 
ước lượng của Lực lượng lao động (lnLabor) 
là 0,4275 và 0,2789, có ý nghĩa thống kê lần 
lượt ở mức 5% và 10% đối với Mô hình (10) 
và (11). Kết quả nghiên cứu thu được phù 
hợp với nghiên cứu gần đây của Vinh & 
Nhung (2019). Cuối cùng, bằng chứng thống 
kê của Kiểm soát tham nhũng trong khu vực 
công (lnCOC); Thủ tục hành chính công 
(lnPAP) và Cung ứng dịch vụ công (lnPSD) 
vẫn chưa được tìm thấy. 
4. Kết luận 
Với mô hình nghiên cứu ở dạng dữ liệu 
bảng động, nghiên cứu xem xét các yếu tố 
ảnh hưởng đến kinh tế địa phương ở Việt 
Nam giai đoạn 2012-2018. Mục tiêu của 
nghiên cứu chủ yếu là đánh giá tác động của 
quản trị hành chính công đến kinh tế địa 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
110 
phương ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc 
Trung ương. Kết quả ước lượng thấy rằng, 
PCI và PAPI đều là những chỉ số đo lường 
hiệu quả thể chế có tác động tích cực đối với 
kinh tế các tỉnh nói riêng và tăng trưởng kinh 
tế Việt Nam nói chung. 
Từ kết quả nghiên cứu trên, sự cải thiện 
các chỉ số PCI, PAPI nhằm góp phần tăng 
trưởng nền kinh tế địa phương thông qua các 
chỉ số thành phần và nội dung của PCI, PAPI 
là phương diện được xem xét khi thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế. 
Một trong những giới hạn của phạm vi 
nghiên cứu là chưa làm rõ hai chỉ số nội dung 
mới được thêm vào PAPI từ năm 2018 là 
Quản trị môi trường và Quản trị điện tử vì độ 
dài dữ liệu được phân tích và kinh nghiệm 
thực tiễn về hai chỉ số nội dung này mới chỉ 
ở bước đầu triển khai tính toán. Nghiên cứu 
sẽ được thực hiện mở rộng trong tương lai, 
với chiều hướng đánh giá và cung cấp thêm 
những bằng chứng thống kê hữu ích về 
những mối quan hệ phát sinh bởi hai chỉ số 
Quản trị môi trường và Quản trị điện tử. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Aparicio, S., Urbano, D., & Audretsch, D. (2016). Institutional factors, opportunity 
entrepreneurship and economic growth: Panel data evidence. Technological 
Forecasting and Social Change, 102, 45–61. 
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo 
evidence & an application to employment equations. The Review of Economic Studies, 
58(2), 277–297. 
Barbosa, D., Carvalho, V. M., & Pereira, P. J. (2016). Public stimulus for private 
investment: An extended real options model. Economic Modelling, 52, 742–748. 
Braga Tadeu, H. F., & Moreira Silva, J. T. (2013). The determinants of the long term private 
investment in Brazil: An Empyrical analysis using cross-section and a Monte Carlo 
simulation. Journal of Economics Finance and Administrative Science, 18, 11–17. 
Brousseau, E., Garrouste, P., & Raynaud, E. (2011). Institutional changes: Alternative 
theories and consequences for institutional design. Journal of Economic Behavior & 
Organization, 79(2), 3–19. 
CECODES, VFF-CRT, RTA, & UNDP (2019). Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính 
công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2019: Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn của người 
dân. Báo cáo nghiên cứu chính sách chung của Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ 
trợ cộng đồng (CECODES), Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo cán bộ Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam (VFF-CRT), Công ty Phân tích Thời gian thực và Chương trình 
Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), Hà Nội, Việt Nam. Đăng tại: 
Cobb, C.W., & Douglas P. H. (1928). A Theory of Production. American Economic 
Review, 18, 139–165. 
Dzhumashev, R. (2014). Corruption and growth: The role of governance, public spending, 
and economic development. Economic Modelling, 37, 202-215. 
Gwartney, J. D., & Stroup, R. (2014). Publis choice: Gaining from government and 
government failure. In J. D. Gwartney, & R. Stroup (Eds.), Macroeconomics (Third 
Edition), Academic Press, 455–475. 
Hansen, L. (1982). Large Sample Properties of Generalized Method of Moments Estimators. 
Econometrica, 50, 1029–1054. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
111 
Jiang, Y., Peng, M. W., Yang, X., & Mutlu, C. C. (2015). Privatization, governance, and 
survival: MNE investments in private participation projects in emerging economies. 
Journal of World Business, 50(2), 294–301. 
Manning, N., Kraan, D.-J., & Malinska, J. (2006). How and why should government activity 
be measured in “Government at a glance”? Project on Management in Government, 
Organization for Economic Cooperation and Development. 
Nawaz, S. (2015). Growth effects of institutions: A disaggregated analysis. Economic 
Modelling, 45, 118–126. 
Neyapti, B., & Arasil, Y. (2016). The nexus of economic and institutional evolution. 
Economic Modelling, 52, 574–582. 
Nguyen, T. T., & van Dijk, M. A. (2012). Corruption, growth, and governance: Private vs. 
stateowned firms in Vietnam. Journal of Banking & Finance, 36(11), 2935–2948. 
Nguyen, T. V., Le, N. T. B., & Bryant, S. E. (2013). Sub-national institutions, firm 
strategies, and firm performance: A multilevel study of private manufacturing firms in 
Vietnam. Journal of World Business, 48(1), 68–76. 
OECD (2012). Transition of the OECD CLI System to a GDP-based business cycle target, 
Composite Leading Indicators Background note. Availabe at: 
Percoco, M. (2014). Quality of institutions and private participation in transport 
infrastructure investment: Evidence from developing countries. Transportation 
Research Part A: Policy and Practice, 70, 50–58. 
Rotberg, R. (2004). Strengthening governance: Ranking countries would help. Washington 
Quarterly, 28(1), 71–81. 
Thanh, D. S., & Hoai, N. T. M. (2017). Government size, public governance and private 
investment: The case of Vietnamese provinces. Economic Systems, 41(4), 651–666. 
Tran, T. B., Grafton, R. Q., & Kompas, T. (2009). Institutions matter: The case of Vietnam. 
The Journal of Socio-Economics. 38(1), 1–12. 
VCCI-USAID (2018). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: Đánh giá chất lượng điều hành 
kinh tế để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, PCI 2018, Báo cáo năm 2018 của Phòng 
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Đăng tại: 
Vinh, N. T., & Nhung, N. C. (2019). Thực trạng hiệu quả phân bổ ngân sách nhà nước ở 
Việt Nam. Tạp chí Khoa học Kinh tế và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 35(3), 
1–10. Đăng tại: https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4260. 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_quan_tri_hanh_chinh_cong_doi_voi_kinh_te_dia_ph.pdf