Tác động của ô nhiễm không khí do giao thông lên sức khỏe hô hấp: một nghiên cứu so sánh giữa các nhóm tiếp xúc cao và thấp

Ô nhiễm không khí do giao thông (TRAP) trở nên phổ biến ở các khu vực đô thị lớn. Nhóm phơi nhiễm

cao (tài xế xe ôm, người bán hàng rong) với TRAP và có nguy cơ mắc các bệnh hô hấp hay dị ứng cao hơn

nhóm phơi nhiễm thấp (nhân viên văn phòng). Bằng chứng về tác động của TRAP lên sức khỏe hô hấp của

từng nhóm đối tượng chưa được cập nhật và đầy đủ tại Việt Nam. Do đó, chúng tôi triển khai nghiên cứu mô

tả cắt ngang có so sánh ảnh hưởng của TRAP lên chức năng hô hấp và các triệu chứng hô hấp trên nhóm

phơi nhiễm cao và nhóm phơi nhiễm thấp tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Các đối tượng phù hợp được

chọn và phỏng vấn bằng bảng câu hỏi soạn sẵn về triệu chứng hô hấp ATS-DLD-78A, kiểm tra chức năng hô

hấp bằng thiết bị đo chức năng hô hấp cầm tay Vitalograph COPD6, đánh giá phơi nhiễm PM2.5 bằng thiết bị

giám sát phơi nhiễm cá nhân AirBeam2 trong khoảng thời gian từ 8 giờ đến 13 giờ. Nồng độ PM2.5 trung bình

đo được ở nhóm phơi nhiễm cao cao hơn nhóm phơi nhiễm thấp (28,77 µg/m³ so với 15,9 µg/m³). Đối tượng

nghiên cứu ở nhóm phơi nhiễm cao có triệu chứng ho cao gấp 7 lần (OR = 7,27; KTC 95% 2,03 – 26,05) so với

nhóm phơi nhiễm thấp (p = 0,008). Có mối tương quan nghịch giữa thông số chức năng hô hấp FEV1/FEV6,

%FEV1 và nồng độ PM2.5 phơi nhiễm khi tiếp xúc với không khí giao thông, nồng độ PM2.5 tăng lên 10 µg/m³

thì chỉ số chức năng hô hấp FEV1/FEV6 giảm 0,01 (p = 0,1384) và phần trăm giá trị dự đoán % FEV1 giảm

5,84% (p = 0,3259). Phơi nhiễm cao với ô nhiễm không khí do giao thông có tác động xấu đến sức khỏe hô hấp.

pdf 10 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của ô nhiễm không khí do giao thông lên sức khỏe hô hấp: một nghiên cứu so sánh giữa các nhóm tiếp xúc cao và thấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của ô nhiễm không khí do giao thông lên sức khỏe hô hấp: một nghiên cứu so sánh giữa các nhóm tiếp xúc cao và thấp

Tác động của ô nhiễm không khí do giao thông lên sức khỏe hô hấp: một nghiên cứu so sánh giữa các nhóm tiếp xúc cao và thấp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
197TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Trần Ngọc Đăng,
Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Tp.HCM
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/01/2020
Ngày được chấp nhận: 03/03/2020
TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ DO GIAO THÔNG LÊN 
SỨC KHỎE HÔ HẤP: MỘT NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA CÁC 
NHÓM TIẾP XÚC CAO VÀ THẤP
 Trần Ngọc Đăng , Lê Thị Phương Loan, Nguyễn Quang Bảo
Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Tp.HCM
Ô nhiễm không khí do giao thông (TRAP) trở nên phổ biến ở các khu vực đô thị lớn. Nhóm phơi nhiễm 
cao (tài xế xe ôm, người bán hàng rong) với TRAP và có nguy cơ mắc các bệnh hô hấp hay dị ứng cao hơn 
nhóm phơi nhiễm thấp (nhân viên văn phòng). Bằng chứng về tác động của TRAP lên sức khỏe hô hấp của 
từng nhóm đối tượng chưa được cập nhật và đầy đủ tại Việt Nam. Do đó, chúng tôi triển khai nghiên cứu mô 
tả cắt ngang có so sánh ảnh hưởng của TRAP lên chức năng hô hấp và các triệu chứng hô hấp trên nhóm 
phơi nhiễm cao và nhóm phơi nhiễm thấp tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Các đối tượng phù hợp được 
chọn và phỏng vấn bằng bảng câu hỏi soạn sẵn về triệu chứng hô hấp ATS-DLD-78A, kiểm tra chức năng hô 
hấp bằng thiết bị đo chức năng hô hấp cầm tay Vitalograph COPD6, đánh giá phơi nhiễm PM2.5 bằng thiết bị 
giám sát phơi nhiễm cá nhân AirBeam2 trong khoảng thời gian từ 8 giờ đến 13 giờ. Nồng độ PM2.5 trung bình 
đo được ở nhóm phơi nhiễm cao cao hơn nhóm phơi nhiễm thấp (28,77 µg/m³ so với 15,9 µg/m³). Đối tượng 
nghiên cứu ở nhóm phơi nhiễm cao có triệu chứng ho cao gấp 7 lần (OR = 7,27; KTC 95% 2,03 – 26,05) so với 
nhóm phơi nhiễm thấp (p = 0,008). Có mối tương quan nghịch giữa thông số chức năng hô hấp FEV1/FEV6, 
%FEV1 và nồng độ PM2.5 phơi nhiễm khi tiếp xúc với không khí giao thông, nồng độ PM2.5 tăng lên 10 µg/m³ 
thì chỉ số chức năng hô hấp FEV1/FEV6 giảm 0,01 (p = 0,1384) và phần trăm giá trị dự đoán % FEV1 giảm 
5,84% (p = 0,3259). Phơi nhiễm cao với ô nhiễm không khí do giao thông có tác động xấu đến sức khỏe hô hấp.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, ô nhiễm không khí là một trong 
những nguyên nhân gây ra các bệnh mạn tính 
và làm gia tăng tỉ lệ nhập viện về các bệnh 
thuộc đường hô hấp. Một báo cáo của Ủy ban 
Lancet về Ô nhiễm và Sức khỏe vào năm 2015 
chỉ ra rằng số ca tử vong do ô nhiễm gây ra 
nhiều hơn 3 lần so với tổng số ca tử vong do 
AIDS, lao và sốt rét.¹ Năm 2019, ô nhiễm không 
khí được WHO đánh giá là nguy cơ môi trường 
lớn nhất đối với sức khỏe.² Cùng với sự phát 
triển khá nhanh về công nghiệp hóa thì ô nhiễm 
không khí ngoài trời từ các khu đô thị trở nên 
ngày càng phổ biến ở các nước trên thế giới 
và mức ô nhiễm này gia tăng ở các nước đang 
phát triển. Trong đó, ô nhiễm không khí do giao 
thông ngày một gia tăng và góp phần làm tăng 
ô nhiễm không khí tại đô thị. Các hoạt động vận 
chuyển chiếm mức độ ô nhiễm không khí cao 
tại các thành phố lớn ở nước ta. Thành phố Hồ 
Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn nhất Việt 
Nam, tập trung người từ nhiều nơi khác đến, và 
lượng phương tiện giao thông cao, đồng nghĩa 
với việc làm giảm đi chất lượng không khí. Đối 
tượng phơi nhiễm với ô nhiễm không khí do 
giao thông có thể là những người thường xuyên 
di chuyển, làm việc trên các tuyến đường giao 
thông, những người sống gần đường chính. Ở 
Từ khóa: ô nhiễm không khí do giao thông, phơi nhiễm, phơi nhiễm, sức khỏe hô hấp.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
198 TCNCYH 126 (2) - 2020
Việt Nam, các đối tượng trong ngành nghề phải 
di chuyển thường xuyên trên các trục đường 
giao thông có thời gian dài tiếp xúc tới chất 
thải từ phương tiện giao thông cơ giới, nên 
mức phơi nhiễm với ô nhiễm không khí do giao 
thông cao hơn những đối tượng phơi nhiễm 
thấp, là những người đang làm những ngành 
nghề chủ yếu tại văn phòng, nhà ở. Nghiên cứu 
liên quan đến rủi ro nghề nghiệp có thể có tác 
động tiềm tàng đối với các vấn đề sức khỏe 
cộng đồng và nghề nghiệp liên quan đến các 
khu vực đô thị bị ô nhiễm vẫn chưa được chú ý 
quan tâm nhiều tại Việt Nam. Đánh giá về phơi 
nhiễm nghề nghiệp từ ô nhiễm không khí do 
giao thông đều được định lượng nồng độ phơi 
nhiễm từ trạm quan trắc cố định ở nhiều quốc 
gia như nghiên cứu tại Nigeria,³ Congo.⁴ Điều 
này không cung cấp mối tương quan đáng tín 
cậy giữa nồng độ phơi nhiễm và kết quả lên 
các nhóm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích đánh 
giá tác động của phơi nhiễm với ô nhiễm không 
khí do giao thông lên chức năng hô hấp và các 
triệu chứng hô hấp lên nhóm phơi nhiễm cao là 
những đối tượng có thời gian làm việc thường 
xuyên trên tuyến đường giao thông (tài xế xe 
ôm, nhân viên giao hàng, người bán hàng rong, 
v.v) và so sánh với nhóm phơi nhiễm thấp là 
những nhân viên văn phòng. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu tiến hành trên 100 đối tượng 
đang làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh, gồm: 
+ Nhóm phơi nhiễm cao (n = 50): Tài xế xe 
ôm, người bán hàng rong. 
+ Nhóm phơi nhiễm thấp (n = 50): Nhân viên 
văn phòng.
Tiêu chí chọn:
Những đối tượng thuộc nhóm phơi nhiễm 
cao và nhân viên văn phòng đồng ý tham gia 
nghiên cứu, những đối tượng thuộc nhóm phơi 
nhiễm cao có ít nhất 6 tháng trong nghề với 
thời gian làm việc ít nhất 6 giờ/ngày và ít nhất 
5 ngày/tuần, nhân viên văn phòng có thời gian 
làm việc tại TP.HCM ít nhất 6 tháng và thời gian 
di chuyển bằng xe máy ít hơn 2 giờ/ngày, các 
đối tượng có độ tuổi từ 18 đến dưới 60 tuổi. 
Tiêu chí loại trừ
Những đối tượng có tiền sử nhồi máu cơ 
tim, đang có thai, có phẫu thuật ngực, bụng và 
mắt (hoặc võng mạc) gần đây. 
Lựa chọn đối tượng tham gia vào nghiên 
cứu ở nhóm phơi nhiễm thấp phương pháp 
chọn mẫu cụm xác suất tỷ lệ với kích thước 
dân số và lựa chọn đối tượng nhóm phơi nhiễm 
cao bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh 
được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 6/2019. 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng 
vấn mặt đối mặt dựa vào bảng câu hỏi soạn 
sẵn ATS-DLD-78A, kiểm tra chức năng hô 
hấp bằng thiết bị đo chức năng hô hấp cầm 
tay Vitalograph COPD6 sử dụng các chỉ số 
%FEV1, %FEV6, FEV1/FEV6, đánh giá phơi 
nhiễm PM2.5 bằng thiết bị giám sát phơi nhiễm 
cá nhân AirBeam2 trong khoảng thời gian từ 8 
giờ 13 giờ.
Bộ câu hỏi ATS-DLD-78A
Bộ câu hỏi được Hội nghiên cứu khoa học 
Y khoa Anh quốc chấp nhận về đánh giá các 
triệu chứng hô hấp, được xây dựng nhằm hoàn 
thiện các khuyết điểm từ hai bộ câu hỏi MRC 
của Hội lồng ngực Hoa Kỳ và NHLBI-DLD. Khai 
thác các đặc điểm về dân số kinh tế xã hội, bộ 
câu hỏi ATS-DLD-78A,⁵ tiền sử bệnh lý bản 
thân, tiền sử nghề nghiệp, hút thuốc lá và tiếp 
xúc với nguồn ô nhiễm trong nhà.
Thiết bị giám sát cá nhân AirBeam2
Thiết bị dựa trên nền tảng Aircasting đánh 
giá chất lượng không khí cá nhân và giám sát 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
199TCNCYH 126 (2) - 2020
môi trường, được kiểm tra có độ chính xác 
cao bằng cách so sánh các phép đo cảm biến 
GRIMM 11-R (GRIMM Aerosol Technik GmbH 
& Co., Ainring, Đức).
Thiết bị đo chức năng hô hấp cầm tay 
Vitalograph COPD6
Thiết bị không đòi hỏi cao về kinh nghiệm 
của nghiên cứu viên, sử dụng thao tác dễ 
dàng. Khá thuận lợi cho việc di chuyển nhiều 
khi thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu trong 
cộng đồng Vitalograph COPD6 được sử dụng 
phổ biến đánh giá giới hạn thông khí trong dân 
số có nguy cơ mắc các bệnh trong chăm sóc 
ban đầu, sàng lọc những đối tượng có nguy cơ 
COPD trong cộng đồng.
3. Phương pháp xử lý và phân tích thống kê
Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và 
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. 
Sử dụng phần mềm Stata 14 để phân tích số 
liệu. Sử dụng phép kiểm chi bình phương (hoặc 
kiểm định chính xác Fisher nếu trên 20% giá 
trị vọng trị < 5) để tìm sự khác biệt giữa tần số 
của các đặc điểm cá nhân giữa hai nhóm. Kiểm 
định t (hoặc kiểm định Wilcoxon Ranksum) để 
tìm sự khác biệt giữa nồng độ phơi nhiễm của 
hai nhóm. Lượng giá mối quan hệ bằng tỉ số số 
chênh OR với khoảng tin cậy 95%. Sử dụng hồi 
qui logistic để hiệu chỉnh các biến số gây nhiễu. 
Sử dụng hồi qui Pearson để tìm mối liên quan 
giữa nồng độ PM2.5 và các chỉ số chức năng 
hô hấp.
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Đối tượng tham gia nghiên cứu được giải 
thích rõ về mục tiêu nghiên cứu và cách tiến 
hành. Nghiên cứu đã thông qua sự đồng ý của 
hội đồng khoa học khoa Y tế công cộng và đã 
được xét duyệt bởi hội đồng đạo đức trong 
nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP.HCM 
số 181/ĐHYD-HĐĐĐ kí ngày 20/03/2019.
II. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dân số xã hội của các nhóm phơi nhiễm(n = 100)
Đặc điểm
Phơi 
nhiễm 
cao
(n = 50)
Phơi 
nhiễm 
thấp
(n = 50)
p
Đặc điểm
Phơi 
nhiễm 
cao
(n = 50)
Phơi 
nhiễm 
thấp
(n = 50)
p
Tần số
(%)
Tần số
(%)
Tần số 
(%)
Tần số
(%)
Nhóm tuổi
0,001a
Đang sống 
chung với 
người hút 
thuốc lá 0,68a
18 - 25 16 (32) 29 (58) Có 33 (66) 31 (62)
26 - 39 23 (46) 21 (42)
Không 17 (34) 19 (38)
40 - 60 11 (22) 0 (0)
Giới tính < 0,001a
Có thắp nhang, 
sử dụng nhang 
xua muỗi 0,12a
Nam 42 (84) 22 (44) Có 17 (34) 10 (20)
Nữ 8 (16) 28 (56) Không 33 (66) 40 (80)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
200 TCNCYH 126 (2) - 2020
Đặc điểm
Phơi 
nhiễm 
cao
(n = 50)
Phơi 
nhiễm 
thấp
(n = 50)
p
Đặc điểm
Phơi 
nhiễm 
cao
(n = 50)
Phơi 
nhiễm 
thấp
(n = 50)
p
Tần số
(%)
Tần số
(%)
Tần số 
(%)
Tần số
(%)
Trình độ 
học vấn
< 0,001b
Mức độ ô 
nhiễm bụi xung 
quanh nơi sống
0,58b
Biết đọc 
biết viết
1 (2) 0 (0) Rất khó chịu 4 (8) 4 (8)
Cấp I 6 (12) 0 (0) Khó chịu 12 (24) 13 (25)
Cấp II 12 (24) 0 (0) Bình thường 25 (50) 28 (56)
Cấp III 11 (22) 2 (4) Tốt 9 (18) 4 (8)
Trên cấp III 20 (40) 48 (96) Rất tốt 0 (0) 1 (2)
Có sử 
dụng 
thuốc lá
< 0,001b
Đã làm việc 
trong môi 
trường nhiều 
bụi lớn hơn 30 
giờ/tuần 
(n = 100)
< 0,001a
Chưa bao 
giờ
26 (52) 44 (88) Có 46 (92) 2 (4)
Đã bỏ thuốc 
lá
3 (6) 2 (4) Không 4 (8) 48 (96)
Đang hút 
thuốc lá
21 (42) 4 (8)
Sử dụng khẩu 
trang bảo vệ 
trước ONKK
(n = 48) 0,51
b
aKiểm định Chi2 bKiểm định Fisher Có 27 (58,7) 2 (100)
Không 19 (41,3) 0 (0)
Có sự khác biệt về phân bố giới tính, nhóm tuổi và trình độ học vấn giữa hai nhóm đối tượng. Hầu 
hết đối tượng ở nhóm phơi nhiễm cao là nam, tập trung ở nhóm tuổi 26 - 39, có trình độ dưới cấp 
III chiếm phần lớn. Trong khi đó, ở nhóm phơi nhiễm thấp, phân bố nam và nữ tương đương nhau, 
độ tuổi 18 - 25 và tỷ lệ đối tượng có trình độ học vấn từ cấp III cao hơn so với nhóm phơi nhiễm cao 
(Bảng 1).So với nhóm phơi nhiễm thấp, những đối tượng ở nhóm phơi nhiễm cao có hút thuốc lá 
chiếm tỷ lệ cao hơn. Gần 2/3 đối tượng ở hai nhóm hiện đang sống chung với người có hút thuốc lá. 
Cả hai nhóm tương đồng nhau ở cảm nhận khách quan về mức độ ô nhiễm bụi tại môi trường sống 
và tỷ lệ sử dụng khói sinh khối (Bảng 1)
Kết quả từ biểu đồ 1 cho thấy có sự chênh lệch về mức độ phơi nhiễm nồng độ PM2.5 trong quá 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
201TCNCYH 126 (2) - 2020
trình làm việc giữa hai nhóm đối tượng. Nồng độ PM2.5 trung bình 28,77 µg/m³ ở nhóm phơi nhiễm 
cao, với PM2.5 cao nhất 36,79 µg/m³ và thấp nhất 19,09 µg/m³. Trong khi đó, trung bình nồng độ PM2.5 
ở nhóm phơi nhiễm thấp 15,9 µg/m³, có mức cao nhất 23,89 µg/m³ và thấp nhất 0,59 µg/m³. Mức 
trung vị nồng độ PM2.5 phơi nhiễm của hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Bảng 2. Sức khoẻ hô hấp của các nhóm phơi nhiễm (n = 100)
Đặc điểm
Phơi 
nhiễm cao 
(n = 50)
Phơi nhiễm 
thấp 
(n = 50) Pthô
OR thô
(KTC 95%) Phc
OR **
hiệu chỉnh
(KTC 95%)
Tần số (%) Tần số (%)
Ho
0,002 0,008Có 22 (44) 7 (14) 4,83 (1,82-12,79) 7,27 (2,03-26,05)
Không 28 (56) 43 (86) 1 1
Khạc đàm
0,128 0,08Có 24 (48) 14 (28) 2,37 (1,04-5,42) 2,01 (0,81-4,95)
Không 26 (52) 36 (72) 1 1
Khó thở
0,067 0,007Có 6 (12) 19 (38) 0,22 (0,07-0,67) 0,34 (0,11-1,08)
Không 44 (88) 31 (62) 1 1
Khò khè
0,466 0,125Có 30 (60) 25 (50) 1,5 (0,68-3,32) 1,35 (0,6-3,04)
Không 20 (60) 25 (50) 1 1
** Hiệu chỉnh các tuổi, giới, thói quen hút thuốc, môi trường sống
Nhìn chung, nhóm phơi nhiễm cao có tỉ lệ có các triệu chứng hô hấp cao hơn so với nhóm phơi 
nhiễm thấp. Đối tượng thuộc nhóm phơi nhiễm cao có triệu chứng ho cao gấp 7,27 lần (OR = 7,27; 
KTC 95% 2,03-26,05) đối tượng nhóm phơi nhiễm thấp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,008). 
Tương tự, nhóm phơi nhiễm cao sẽ có các triệu chứng hô hấp như khạc đàm, khó thở, khò khè lần 
lượt cao gấp 2,01 lần (OR = 2,01; KTC 95% 0,81 - 4,95; p = 0,128), 0,33 lần (OR = 0,33; KTC 95% 
0,11 - 1,08; p = 0,067) và 1,35 (OR = 1,35; KTC 95% 0,6-3,04; p = 0,466). Và sự khác biệt không 
có ý nghĩa thông kê (Bảng 2).
Biểu đồ 2 và 3 cho thấy có các mối tương quan nghịch không có ý nghĩa thống kê. Ở tất cả đối 
tượng nghiên cứu, khi nồng độ PM2.5 tăng lên 10 µg/m3 thì chỉ số chức năng hô hấp FEV1/FEV6 
giảm 0,01; và nồng độ PM2.5 tăng lên 10 µg/m3 thì chỉ số %FEV1 giảm 5,84%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
202 TCNCYH 126 (2) - 2020
Biểu đồ 1. Nồng độ phơi nhiễm PM2.5 của đối tượng được đo bằng thiết bị giám sát phơi 
nhiễm cá nhân AirBeam2 (n = 100)
Biểu đồ 2. Mối tương quan giữa nồng độ PM2.5 phơi nhiễm và thông số FEV1/FEV6 của đối 
tượng (n = 100, p = 0,1384)
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa nồng độ PM2.5 phơi nhiễm và tỷ lệ phần trăm giá trị tiên 
đoán FEV1 của đối tượng (n = 100, p = 0,3259)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
203TCNCYH 126 (2) - 2020
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu phù hợp với các báo 
cáo trong các tài liệu liên quan đến tác động 
tiêu cực từ phơi nhiễm với môi trường nơi làm 
việc đối với các chất ô nhiễm không khí do giao 
thông. Đối tượng nhóm phơi nhiễm có các triệu 
chứng hô hấp cao hơn hẳn so với đối tượng 
làm văn phòng, bao gồm các triệu chứng như 
ho, khạc đàm, khò khè. So với tỉ lệ của ho và 
khạc đàm ở nghiên cứu tại Bogota, kết quả mà 
nghiên cứu chúng tôi khảo sát được có tỉ lệ cao 
hơn, điều này có thể giải thích bởi việc đánh giá 
phơi nhiễm của đối tượng lao động tại Bogota 
dựa trên nồng độ PM10, khác với nghiên cứu 
chúng tôi thực hiện dựa trên nồng độ PM2.5.
6 
Sự phân biệt các PM dựa vào kích thước của 
các loại hạt, PM2.5 có kích thước hạt bụi nhỏ 
hơn 2.5 µm, có khả năng đi sâu vào các tiểu 
phế nang phổi hơn.⁷ Sự ảnh hưởng lên chức 
năng phổi gây ra các biểu hiện triệu chứng hô 
hấp cao hơn so với các hạt bụi lớn. Ngược lại, 
nghiên cứu so sánh giữa người nữ bán hàng 
rong và bán trong cửa hàng lại không tìm thấy 
sự khác biệt về các triệu chứng hô hấp của hai 
nhóm.8 
Kiểm tra đánh giá suy giảm chức năng hô 
hấp cần thiết khi đánh giá tác động của ô nhiễm 
không khí do giao thông lên sức khỏe hô hấp. 
Đánh giá chức năng hô hấp trong nghiên cứu 
chúng tôi được thực hiện bằng máy đo cầm 
nay Vitalograph COPD6, với ưu điểm nhỏ gọn, 
có thể thuận tiện trong việc di chuyển lấy mẫu 
trong cộng động. Theo GOLD 2018 đánh giá 
sự suy giảm chức năng hô hấp dựa vào FEV1/
FVC < 0,7 và FEV1 < 80%. Tỉ số FEV1/FEV6 
được chúng tôi thực hiện để đánh giá thay thế 
cho FEV1/FVC. Tỉ số FEV1/FEV6 đủ chính 
xác và có thể chấp nhận được trong việc đánh 
giá tắc nghẽn ở đối tượng nguy cơ cao trong 
cộng đồng.10 Kết quả ghi nhận chức năng hô 
hấp không có sự khác biệt lớn ở hai nhóm đối 
tượng, ghi nhận này tương đồng với nghiên 
cứu tại Nigeria,3 Bogota,6 Thái Lan.8 Kết quả 
này có thể được giải thích bởi đối tượng tham 
gia nghiên cứu của chúng tôi thuộc nhóm tuổi 
dưới 40 tuổi chiếm hầu hết, việc ảnh hưởng 
lên chức năng hô hấp trải qua thời gian dài. 
Điều này cũng là tiền đề cho việc bảo vệ trước 
những phơi nhiễm ô nhiễm không khí do giao 
thông cũng góp phần hạn chế việc ảnh hưởng 
đến chức năng hô hấp sớm trong cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu được hiệu chỉnh các 
biến số gây nhiễm ảnh hưởng đến mối liên quan 
giữa phơi nhiễm nghề nghiệp và tác động hô 
hấp. Trong đó, khói sinh khối cũng là yếu tố phát 
thải ra hàm lượng PM2.5 cao, một trong những 
nguy cơ hàng đầu ảnh hưởng lên sức khỏe hô 
hấp, nhiều nghiên cứu đã đánh giá tác động 
của khói sinh khối lên đối tượng phơi nhiễm.10,11 
Ngoài ra, ở những người có sử dụng nhang 
thắp thờ cúng, nhang xua côn trùng thường 
xuyên trong nhà có sự phơi nhiễm với nồng độ 
PM2.5 gây ra những biểu hiện về triệu chứng và 
các bệnh đường hô hấp cao.12 Bên cạnh đó, 
có khoảng 42% đối tượng nhóm phơi nhiễm 
cao hiện đang sử dụng thuốc lá chủ động. Mối 
liên quan giữa hút thuốc lá và chức năng phổi 
được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu.13,14 Điều 
này cũng chứng minh được có liên quan đến 
sự khác biệt về kinh tế xã hội, những người lao 
động phổ thông và trình độ học vấn ở mức thấp 
hơn.15 Mối quan tâm trong nghiên cứu chúng 
tôi là sự suy giảm chức năng hô hấp bởi việc 
phơi nhiễm PM2.5 trong môi trường làm việc, thì 
hút thuốc lá sẽ là một yếu tố ảnh hưởng đến kết 
quả hô hấp ở nhóm đối tượng phơi nhiễm cao. 
Mức độ nặng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính càng cao khi hút thuốc lá và phơi nhiễm 
ô nhiễm không khí tương tác với nhau.16 Giám 
sát cá nhân trước ô nhiễm không khí trong quá 
trình làm việc là một công cụ có thể ước tính 
được nồng độ phơi nhiễm với PM trong môi 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
204 TCNCYH 126 (2) - 2020
trường mà đối tượng đó đang tiếp xúc. Chúng 
tôi thực hiện đo nồng độ PM2.5 bằng thiết bị đo 
cá nhân AirBeam.² Ưu điểm của thiết bị này là 
nhỏ gọn, thuận tiện cho việc di chuyển. Thiết bị 
này đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu 
để đánh giá mức độ phơi nhiễm cá nhân.17,18 
Dù vậy, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn 
khi tiến hành lấy mẫu tại hiện trường vì máy 
hoạt động phụ thuộc vào pin sạc, thời gian 
hoạt động tối đa 8 giờ. Kế đến, do đặc tính về 
kỹ thuật của thiết bị đo, nghiên cứu chúng tôi 
chưa thể đáp ứng được thời gian đo theo tiêu 
chuẩn 24 giờ. Tuy nhiên, mục đích chính mà 
nghiên cứu chúng tôi muốn thực hiện, là đánh 
giá so sánh những ảnh hưởng của việc phơi 
nhiễm PM2.5 trong quá trình làm việc ở nhóm 
đối tượng phơi nhiễm cao và phơi nhiễm thấp. 
Chính vì thế, chúng tôi thực hiện việc đo lường 
nồng đồ PM2.5 ở khung giờ tương đương nhau 
trong các ngày ở các đối tượng khảo sát. Bởi 
vì nồng độ PM2.5 có sự khác biệt giữa các giờ 
trong ngày. 
Đây được xem là điểm mới trong nghiên 
cứu chúng tôi thực hiện, mục đích nhằm tìm 
hiểu xem việc suy diễn kết quả chung cho cả 
hai nhóm đối tượng về khía cạnh phơi nhiễm 
với PM2.5 ảnh hưởng như thế nào đến chức 
năng hô hấp của họ. Tăng nồng độ phơi nhiễm 
với PM2.5 lên 10 µg/m
3 có sẽ làm giảm chức 
năng hô hấp. Nồng độ chất nguy hại trong môi 
trường làm việc càng cao thì càng góp phần gia 
tăng tỉ lệ mắc các bệnh đường hô hấp. 
V. KẾT LUẬN 
Môi trường làm việc phơi nhiễm cao với ô 
nhiễm không khí do giao thông có tác động 
xấu đến sức khỏe hô hấp. Gia tăng nồng độ 
chất nguy hại càng gia tăng tỉ lệ mắc các bệnh 
đường hô hấp. Chính vì vậy, cần tăng cường 
tuyên truyền cho người dân nhận thức được 
tác hại của ô nhiễm không khí do giao thông. 
Thông qua việc khuyến khích những người lao 
động làm việc trong môi trường phơi nhiễm 
cao với ô nhiễm không khí do giao thông nên 
sử dụng máy giám sát phơi nhiễm cá nhân, để 
đánh giá đúng hơn về mức độ tiếp xúc, khám 
sức khỏe định kỳ nhằm dự phòng biểu hiện sớm 
của suy giảm chức năng hô hấp. Cầnnghiên 
cứu thêm để củng cố kết quả nhằm cải thiện 
các tiêu chuẩn chất lượng không khí để bảo vệ 
người lao động tiếp xúc với môi trường không 
khí ngoài trời.
Lời cảm ơn
Đề tài này được thực hiện với sự tài trợ máy 
đo ô nhiễm không khí của bộ môn Sức khỏe 
Môi trường, khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi chân 
thành cảm ơn các tình nguyện viên tham gia 
vào nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Landrigan P.J. The Lancet Commission 
on pollution and health. The Lancet Public 
Health. 2017; 2, e23.
2. World Health Organization. WHO 
Global Ambient Air Quality Database (update 
2018). https://www.who.int/airpollution/data/
cities/en/. Accessed September 12, 2018. 
3. Obaseki DO, Adeniyi B, Jumbo J et 
al. Respiratory symptom, lung function and 
exhaled carbon monoxide among a sample of 
traffic workers in Lagos, Nigeria: A pilot survey. 
Niger Med.2014; 55(4): 306 - 9.
4. Mbelambela EP. Occupation exposed 
to road - traffic emissions and respiratory health 
among Congolese transit workers, particularly 
bus conductors, in Kinshasa: a cross - sectional 
study. Environ Health Prev Med.2017; 22:11.
5. Ferris BG. Epidemiology 
standardization project (American thoracic 
society). Am Rev Respir Dis. 1978; 118: 1 - 120.
6. Estévez - García J.A, Rojas - Roa N.Y, 
Rodríguez - Pulido A.I. Occupational exposure 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
205TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
THE IMPACTS OF TRAFFIC RELATED AIR POLLUTION 
ON RESPIRATORY HEALTH: A COMPARISON STUDY 
BETWEEN HIGH AND LOW EXPOSURE GROUPS 
Traffic-related air pollution (TRAP) has become a common issue in large urban areas. The 
high exposure group to TRAP (e.g., motorbikes, taxi drivers, peddlers) could be at a higher risk of 
respiratory or allergic diseases compared to that of the low exposure group (e.g., office workers). 
The evidence on the impact of TRAP on the respiratory health of those groups has not been updated 
to air pollutants: particulate matter and 
respiratory symptoms affecting traffic - police in 
Bogotá. Rev Salud Publica. 2013; 15(6): 889 - 
902.
7. United States Environmental Protection 
Agency. Particulate Matter (PM) Pollution 
Basics. https://www.epa.gov/pm - pollution/
particulate - matter - pm - basics#PM, Accessed 
December 11, 2018.
8. Jones A.Y, Lam P.K, Gohel M.D. 
Respiratory health of road - side vendors in a 
large industrialized city. Environ Sci Pollut Res 
Int. 2008; 15(2): 150 - 4.
9. Rosa FW, Padilla R Perez, et al. 
Efficacy of the FEV1/FEV6 ratio compared to 
the FEV1/FVC ratio for the diagnosis of airway 
obstruction in subjects aged 40 years or over. 
Brazilian Journal of Medical and Biological 
Research. 2007; 40(12): 1615 - 21.
10. Obaseki DO, Adeniyi B, Jumbo J et 
al. Respiratory symptom, lung function and 
exhaled carbon monoxide among a sample of 
traffic workers in Lagos, Nigeria: A pilot survey. 
Niger Med J. 2014; 55(4): 306 - 9.
11. Baran Balcan, Selcuk Akan, Aylin 
Ozsancak Ugurlu. Effects of biomass smoke 
on pulmonary functions: a case control study. 
International Journal of COPD. 2016; 11: 1615 
- 1622.
12. Ramírez - Venegas A, Sansores R.H, 
et al. FEV1 decline in patients with chronic 
obstructive pulmonary disease associated with 
biomass exposure. Am J Respir Crit Care Med. 
2014; 190(9): 996 - 1002.
13. Eisner MD, Anthonisen N, Coultas D, 
Kuenzli N, Perez - Padilla R,Postma D, et al. 
An official American Thoracic Society public 
policy statement: Novel risk factors and the 
global burden of chronic obstructive pulmonary 
disease. Am J Respir Crit Care Med. 2010; 
182(5): 693 - 718.
14. Martinez CH, Kim V, Chen Y, Kazerooni 
EA, Murray S, Criner G. J, et al. The clinical 
impact of non - obstructive chronic bronchitis 
in current and former smokers". Respir Med. 
2014; 108(3): 491 - 9.
15. Chhabra SK, Rajpal S, Gupta R. 
Patterns of smoking in Delhi and comparison of 
chronic respiratory morbidity among beedi and 
cigarette smokers. Indian J Chest Dis Allied Sci. 
2001; 43(1): 19 - 26.
16. Koeverden van Ian, Blanc Paul 
D, Bowler Russell P, Arjomandi Mehrdad. 
Secondhand Tobacco Smoke and COPD 
Risk in Smokers: A COPDGene Study Cohort 
Subgroup Analysis. HHS Public Access. 2014; 
12(2): 182 - 189.
17. Mazaheria M. Investigations into 
factors affecting personal exposure to particles 
in urban microenvironments using low - cost 
sensors. Environment International. 2018; 
120(2018): 496 - 504.
18. Mukherjee A, Stanton LG, Graham AR, 
Roberts PT. Assessing the Utility of Low - Cost 
Particulate Matter Sensors over a 12 - Week 
Period in the Cuyama Valley of California. 
MDPI. 2017; 17: 1805.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
206 TCNCYH 126 (2) - 2020
and studied comprehensively in Vietnam. The aim of this study is to compare the effects of TRAP 
on respiratory function and symptoms between high and low exposure groups in Ho Chi Minh City in 
2019. One hundred subjects (including 50 in high exposure group and 50 in low exposure group) were 
selected and interviewed with ATS-DLD-78A questionnaire for respiratory symptoms assessment. 
The respiratory function test was recruited using the Vitalograph COPD6 handheld respirator, and 
the PM2.5 exposure assessment was measured using the AirBeam2 personal exposure monitoring 
device for a period of 8 to 13 hours. The average PM2.5 concentrations were 28.77 µg/m³ and 15.9 
µg/m³ in the high exposure group, and the low exposure group respectively. Subjects in the high 
exposure group had 7 times higher risk for cough symptoms (OR = 7.27; 95% CI 2.03 - 26.05) 
compared to that of the low exposure group (p = 0.008). There was a negative correlation between 
respiratory function parameters (i.e., FEV1 / FEV6, and % FEV1) and PM2.5 concentration. Each 10 
µg / m³ increase in PM2.5 concentration decreased FEV1 / FEV6 by 0.01 (p = 0.184), and % FEV1 by 
5.84% (p = 0.3259) respectively. High exposure to TRAP implies a bad effect on respiratory health.
Keywords: Traffic related air pollution, exposure, respiratory health. 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_o_nhiem_khong_khi_do_giao_thong_len_suc_khoe_ho.pdf