Tác động của danh tiếng truyền thông tới hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam

Tóm tắt

Bài viết nghiên cứu ảnh hưởng của danh tiếng truyền thông đến hiệu quả tài chính của

ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012 - 2018 thông qua ba kênh gồm tài sản, chấp

nhận rủi ro và đa dạng hóa thu nhập. Kết quả hồi quy cho thấy danh tiếng truyền thông không

có ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính, ngay cả khi kiểm soát vấn đề nội sinh bằng biến công

cụ. Cụ thể, danh tiếng truyền thông không ảnh hưởng đến tiền gửi và khoản vay, nợ khó

đòi và đa dạng hóa thu nhập. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả tại Việt Nam có thể giải

thích do sự hạn chế trong đo lường danh tiếng truyền thông hoặc tính lỏng lẻo của mối liên

hệ giữa danh tiếng truyền thông và hiệu quả tài chính. Nhưng đối với các ngân hàng thương

mại, danh tiếng truyền thông chỉ là một trong những nguồn lực tạo dựng lợi thế cạnh tranh.

Từ khóa: Hiệu quả tài chính, Ngân hàng thương mại, Danh tiếng truyền thông, Việt Nam

pdf 22 trang phuongnguyen 520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tác động của danh tiếng truyền thông tới hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của danh tiếng truyền thông tới hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của danh tiếng truyền thông tới hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Trang chủ của tạp chí: 
Tác động của danh tiếng truyền thông tới hiệu quả tài chính của 
ngân hàng thương mại Việt Nam
The effects of media reputation on financial performance of 
Vietnamese commercial banks
Đoàn Ngọc Thắng1 
Học viện Ngân hàng, Hà Nội, Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Hải 
Học viện Ngân hàng, Hà Nội, Việt Nam
Hoàng Phương Dung 
Học viện Ngân hàng, Hà Nội, Việt Nam
Ngày nhận: 24/04/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 25/05/2020; Ngày duyệt đăng: 29/05/2020
Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu ảnh hưởng của danh tiếng truyền thông đến hiệu quả tài chính của 
ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012 - 2018 thông qua ba kênh gồm tài sản, chấp 
nhận rủi ro và đa dạng hóa thu nhập. Kết quả hồi quy cho thấy danh tiếng truyền thông không 
có ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính, ngay cả khi kiểm soát vấn đề nội sinh bằng biến công 
cụ. Cụ thể, danh tiếng truyền thông không ảnh hưởng đến tiền gửi và khoản vay, nợ khó 
đòi và đa dạng hóa thu nhập. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả tại Việt Nam có thể giải 
thích do sự hạn chế trong đo lường danh tiếng truyền thông hoặc tính lỏng lẻo của mối liên 
hệ giữa danh tiếng truyền thông và hiệu quả tài chính. Nhưng đối với các ngân hàng thương 
mại, danh tiếng truyền thông chỉ là một trong những nguồn lực tạo dựng lợi thế cạnh tranh.
Từ khóa: Hiệu quả tài chính, Ngân hàng thương mại, Danh tiếng truyền thông, Việt Nam
Abstract
This paper investigates the effect of media reputation on financial performance, using 
data from Vietnamese commercial bank data for the period 2012 - 2018, through three 
channels namely assets, risk-taking, and income diversification. The empirical results show 
that media reputation has no effect on financial performance, even when we control for 
endogeneity bias. Media reputation does not affect the deposit, loan, non-performing loan, 
1 Tác giả liên hệ: ngocthangdoan@hvnh.edu.vn
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 128 (5/2020), 109-130
ISSN 2615-9848
TẠP CHÍ
QUẢN LÝ
và KINH TẾ QUỐC TẾ
109Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
1. Mở đầu
Danh tiếng của doanh nghiệp đang ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên 
cứu, bởi vì nó tạo ra lợi thế cạnh tranh và cải thiện hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Danh 
tiếng tốt được coi là một tài sản vô hình mang lại cho doanh nghiệp một lợi thế so sánh bền 
vững nhờ đặc tính riêng biệt nên khó bị bắt chước (Hall, 1993; Barney, 1991). Một số tác 
giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa danh tiếng và hiệu quả tài chính: (Roberts & Dowling, 
1997; Eberl & Schwaiger, 2005), đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng (Inglis, 2006). Danh 
tiếng của công ty được xây dựng dựa trên sự tương tác và liên lạc với các bên liên quan. Khi 
truyền thông ảnh hưởng đến kiến thức và quan điểm của công chúng, danh tiếng được tích 
lũy qua những phương tiện truyền thông theo thời gian. Bài viết này tập trung nghiên cứu 
ảnh hưởng của danh tiếng theo cách tiếp cận như vậy đối với hiệu quả tài chính của các ngân 
hàng thương mại, trong bối cảnh Việt Nam giai đoạn 2012 - 2018.
Bài viết dựa theo cách tiếp cận của nghiên cứu Deephouse (2000), trong đó, các tác giả 
sử dụng khái niệm danh tiếng truyền thông để đánh giá tổng thể cách thức một công ty xuất 
hiện trên phương tiện truyền thông. Theo đó, danh tiếng truyền thông là một nguồn lực có 
thể mang lại lợi ích cho các công ty bằng cách giảm chi phí, tăng giá và thiết lập các rào cản 
cạnh tranh. Tuy nhiên, những lợi ích từ danh tiếng truyền thông chỉ là tiềm năng; câu hỏi 
đặt ra là liệu các công ty có thể tận dụng danh tiếng truyền thông tốt để cải thiện hiệu quả 
tài chính hay không. Phân tích danh tiếng truyền thông trong lĩnh vực ngân hàng là rất cần 
thiết khi các ngân hàng cung cấp các sản phẩm đồng nhất cho các khách hàng bằng cách sử 
dụng các yếu tố sản xuất tương tự như lao động (Chen, 1996) và các ngân hàng tích lũy danh 
tiếng trong phạm vi một nhóm các bên liên quan. Do đó, tập trung vào lĩnh vực ngân hàng 
cho phép kiểm soát sự không đồng nhất liên quan đến sản phẩm và yếu tố thị trường giống 
như những ngành khác. Là một nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam có nhiều yếu tố phù hợp 
để đánh giá mối liên hệ giữa danh tiếng truyền thông và hiệu quả tài chính. Tính minh bạch 
và chất lượng thông tin thấp có thể ảnh hưởng đến uy tín truyền thông của công ty, cũng như 
mối quan hệ của uy tín truyền thông với hiệu quả tài chính.
Bằng cách kiểm soát sai lệch lựa chọn mẫu, nghiên cứu này cho thấy danh tiếng truyền 
thông không ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam 
từ năm 2012 - 2018. Kết quả này vẫn phù hợp khi nghiên cứu xem xét vấn đề nội sinh của 
biến. Các tác giả đã tập trung vào ba kênh để phân tích kết quả này, bao gồm: kênh tài sản, 
kênh chấp nhận rủi ro và kênh đa dạng hóa thu nhập. Kết quả cho thấy danh tiếng truyền 
thông không ảnh hưởng đến tiền gửi, khoản vay, nợ xấu (NPL) hoặc đa dạng hóa thu nhập. 
or income diversification. The findings may be specific to Vietnam due to the inaccurate 
measurement of media reputation, or the weakness of the linkage between media reputation 
and financial performance. Although media reputation is regarded as a source leading of 
competitive advantage, for commercial banks, having such a reputation is inadequate.
Keywords: Financial performance, Commercial banks, Media reputation, Vietnam
110 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Nhóm nghiên cứu cho rằng phát hiện này có thể là do sai lệch trong đo lường danh tiếng 
truyền thông, điểm yếu về uy tín truyền thông, hiệu suất ngân hàng và các tổ chức chính thức 
không hoàn chỉnh tại Việt Nam.
Kết quả này có ý nghĩa đóng góp trong tổng quan tình hình nghiên cứu. Đây là công trình 
đầu tiên nghiên cứu ảnh hưởng của danh tiếng truyền thông đến hiệu quả tài chính của các 
ngân hàng thương mại trong nền kinh tế chuyển đổi, cụ thể là Việt Nam. Trái ngược với kết 
quả tích cực được ghi nhận bởi Deephouse (2000) khi phân tích hệ thống ngân hàng ở Mỹ 
- một quốc gia phát triển, kết quả thực nghiệm cho thấy danh tiếng truyền thông không có 
tác động đến các hình thức hoạt động của các ngân hàng khác nhau. Bài viết cũng tiến hành 
điều tra các kênh khác nhau để lý giải phát hiện này, trong khi nghiên cứu của Deephouse 
(2000) đã không đề cập đến vấn đề này. Với cách tiếp cận trong một nền kinh tế chuyển đổi, 
khi tính minh bạch và chất lượng thông tin thấp, phân tích của các tác giả có thể làm thay 
đổi mối quan hệ giữa danh tiếng truyền thông và hiệu quả tài chính. Lập luận này xuất phát 
từ nghiên cứu của Saeidi & cộng sự (2015) và Xie & cộng sự (2017) khi phân tích mối quan 
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, trong đó Xie & cộng sự (2017) tập trung 
nghiên cứu tại các doanh nghiệp ở Trung Quốc và Việt Nam. Những nghiên cứu này chỉ ra 
rằng môi trường thể chế ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả 
tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, các nghiên cứu Bear & cộng sự (2010) và Park & 
cộng sự (2014) cho thấy trách nhiệm xã hội lại tác động đến danh tiếng của doanh nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1 Khái niệm về danh tiếng
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định danh tiếng như một nguồn tài nguyên vô hình quan trọng 
giúp doanh nghiệp phát triển lợi thế cạnh tranh bền vững (Dierickx & Cool, 1989; Barney, 
1991). Các học giả vẫn đang tranh luận về các cách tiếp cận liên qua đến định nghĩa và quy 
mô của danh tiếng. Theo Shenkar & Yuchtman-Yaar (1997), danh tiếng là một khái niệm 
rộng có thể áp dụng trong tiếp thị, kế toán hoặc kinh tế. Khái niệm này phản ánh một hình 
ảnh vững chắc, uy tín và thiện chí. Nói cách khác, danh tiếng có thể gắn liền với một cá nhân, 
thương hiệu hoặc công ty và các bên liên quan nhận thức và đánh giá nhân tố này ở các thời 
điểm khác nhau (Perrow, 1961). Tập trung vào danh tiếng của công ty, Fombrun (1996) đã 
xác định đây là đại diện nhận thức của một công ty về hành động trong quá khứ và triển vọng 
tương lai của công ty khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu.
Như vậy, hầu hết các định nghĩa về danh tiếng của doanh nghiệp đều dựa vào bản chất 
cảm nhận của danh tiếng. Cụ thể, danh tiếng của công ty có thể được đánh giá theo kinh 
nghiệm dựa trên sự chia sẻ của kinh nghiệm của các bộ phận liên quan với công ty và với bất 
kỳ phương tiện truyền thông về hoạt động của công ty so sánh với các công ty đối thủ (Gotsi 
& Wilson, 2001; Wartick, 2002). Theo đó, danh tiếng của công ty có thể được đo lường dựa 
trên các khía cạnh khác nhau. Groenland (2002) đề xuất danh tiếng là một trong những thang 
đo lường phổ biến nhất của danh tiếng của doanh nghiệp. Nó bao gồm sáu khía cạnh: hấp dẫn 
về cảm xúc, sản phẩm và dịch vụ, tầm nhìn và khả năng lãnh đạo, môi trường làm việc, trách 
111Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
nhiệm xã hội và môi trường và hiệu quả tài chính. Trong nhiều nghiên cứu, các khía cạnh 
tiếp cận về danh tiếng là cơ sở để đo lường danh tiếng chung của công ty. Trong bối cảnh 
phát triển của ngành ngân hàng, cách thức đo lường này đã được mở rộng, bao gồm chăm 
sóc khách hàng và tính tổng thể, dịch vụ ngân hàng (Ruiz & cộng sự, 2014).
Dựa trên định nghĩa về danh tiếng của công ty do Gotsi & Wilson (2001) và Wartick 
(2002) đề xuất, nhóm tác giả thấy rằng danh tiếng của một công ty không chỉ được xác định 
từ những phản ánh của khách hàng, mà còn từ nhiều nguồn thông tin và phương tiện truyền 
thông khác nhau. Các phương tiện truyền thông đó có thể bao gồm các thông cáo báo chí của 
công ty do bộ phận quan hệ công chúng chuẩn bị (Shoemaker & Reese, 1991); ý kiến của các 
bên liên quan, văn phòng chính phủ và đánh giá của các cơ quan xếp hạng trong các thông 
cáo báo chí (Fombrun, 1996); và các nhân viên truyền thông như phóng viên và biên tập viên 
viết về các công ty (Shoemaker & Reese, 1991). Các phóng viên cung cấp tin tức và các câu 
chuyện nổi bật từ nhiều nguồn khác nhau đồng thời các biên tập viên cũng có các chuyên 
mục viết về các công ty. Các phương tiện truyền thông này không chỉ ghi lại tổng hợp hoạt 
động của các công ty và các bên liên quan, mà còn tạo thành một diễn đàn nơi các công ty 
và các bên liên quan có thể tranh luận để bổ sung các nguồn thông tin khác nhau (Gamson & 
cộng sự, 1992; Hynds, 1994). Tất cả các thông tin này có thể tạo thuận lợi hoặc không thuận 
lợi cho công ty và nó có thể ảnh hưởng đến quá trình thu nhận và đánh giá của các bên liên 
quan. Lần đầu tiên, Deephouse (2000) đưa ra khái niệm về danh tiếng truyền thông của một 
công ty, trong đó danh tiếng truyền thông được định nghĩa là đánh giá tổng thể của một công 
ty được trình bày trên phương tiện truyền thông. Theo đó, nguồn lưu trữ báo chí phân tích đo 
lường cấu trúc này (Deephouse, 2000).
2.2 Mối quan hệ giữa danh tiếng truyền thông và hiệu quả của doanh nghiệp
Để giải thích hiệu quả của các công ty theo lợi thế cạnh tranh bền vững, Barney (1991) đã 
xây dựng khung lý thuyết trên quan điểm dựa trên tài nguyên. Theo lý thuyết này, sự khác 
biệt trong hiệu quả của các công ty có thể được giải thích bằng các tài nguyên và khả năng 
mà họ sở hữu và cách quản lý hiệu quả các tài nguyên. Cụ thể, lý thuyết này nhấn mạnh vai 
trò của các nguồn lực và khả năng các công ty xây dựng lợi thế cạnh tranh hoặc có khả năng 
thực hiện chiến lược tạo giá trị không đồng thời mà bất kỳ đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm 
năng áp dụng (Barney, 1991; Wang, 2014). Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các công ty tiếp tục 
nỗ lực vượt trội so với các đối thủ khác và bảo vệ vị thế cạnh tranh trên thị trường. Để có 
nguồn lực vững chắc nhằm duy trì các lợi thế cạnh tranh bền vững, phải có một số thuộc tính 
đặc biệt. Chỉ khi các tài nguyên khan hiếm và có giá trị mới có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh 
cho danh nghiệp. Tuy nhiên, khi các đối thủ cạnh tranh tài nguyên đó không thể bắt chước 
và không thể thay thế, từ đó những tài nguyên đó có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững 
cho doanh nghiệp.
Danh tiếng truyền thông tốt là nguồn tài nguyên vô hình quan trọng có các thuộc tính cần 
thiết cho phép các công ty xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững. Theo Barney (1991), một 
tài nguyên có giá trị nếu nó tăng cường hiệu quả. Danh tiếng truyền thông tốt có giá trị đối 
với các công ty theo ba cách: giảm chi phí, tăng giá và nâng cao các rào cản cạnh tranh. Trên 
112 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
thực tế, danh tiếng truyền thông tốt cho thấy công ty là nơi làm việc chất lượng cao, có khả 
năng thu hút nhân viên có năng lực cao và duy trì tỷ lệ giữ chân nhân viên cao, do đó giảm 
chi phí tổ chức (Roberts & Dowling, 2002). Hơn nữa, danh tiếng truyền thông cũng phản 
ánh chất lượng của dịch vụ, do đó, nó trở thành một chỉ số chất lượng dựa trên đó người tiêu 
dùng có thể lựa chọn. Do đó, một công ty có uy tín truyền thông tốt có thể giảm chi phí tiếp 
thị để thu hút khách hàng mới hoặc giữ chân khách hàng hiện tại, đồng thời tăng doanh số và 
có thể bán sản phẩm hoặc dịch vụ với giá cao (Shapiro, 1983). Mặt khác, danh tiếng truyền 
thông tốt cũng báo hiệu rằng công ty là đối tác tin cậy và giúp tăng sự tin tưởng của các công 
ty cung cấp và khách hàng, do đó giảm chi phí và đẩy mạnh giao dịch (Kotha & cộng sự, 
2001). Cuối cùng, danh tiếng truyền thông tốt sẽ tạo nên rào cản cạnh tranh, vì vậy, sẽ ngăn 
cản gia nhập thị trường của doanh nghiệp mới và công ty sẽ duy trì doanh số (Michalisin & 
cộng sự, 2000). Một khi một công ty có danh tiếng truyền thông tốt thì sẽ có vị thế cao, chi 
phí thấp hơn và đạt được nhiều lợi ích hơn so với các đối thủ khác, từ đó, sẽ cung cấp động 
lực cho phép công ty nâng cao danh tiếng trong kinh doanh (Podony, 1993). Ngoài ra, danh 
tiếng truyền thông có thể được coi là một nguồn tài nguyên hiếm theo cách tiếp cận danh 
tiếng truyền thông của các công ty khác nhau và một số doanh nghiệp có thể được đánh giá 
là có danh tiếng tốt hơn so với những công ty khác (Barney, 1991).
Các đối thủ cạnh tranh cố gắng sao chép các tài nguyên của một công ty phải đối mặt với 
áp lực giảm chi phí và thách thức trong kinh doanh (Barney, 1991). Thông qua sự tương tác 
xã hội phức tạp giữa đặc điểm của chủ thể tiến hành hoạt động truyền thông (bên trong) và 
các nhân tố bên ngoài (công ty và các nguồn thông tin), công ty sẽ cung cấp thông tin trên 
nhiều phương tiện truyền thông. (Shoemaker & Reese, 1991). Kết quả, cùng với quá trình 
phát triển, công ty đạt được danh tiếng truyền thông thông qua một quá trình liên quan đến 
nhiều chủ thể như công ty, nhân viên truyền thông, nguồn tin tức và khán giả, hoặc độc giả 
(Fombrun & Shanley, 1990). Do bối cảnh lịch sử nhất định, mỗi công ty có tài sản đặc trưng 
nhất định. Cụ thể, danh tiếng được coi là một trong những tài nguyên khá bền vững và có 
lịch sử phát triển (Dierickx & Cool, 1989; Sun & Tse, 2009). Hơn nữa, danh tiếng không thể 
giao dịch trực tiếp trên thị trường và cách nhanh nhất để các công ty có đượ chính là thông 
qua quá trình mua lại (Peteraf, 1993; Sigalas & Economou, 2013) ... 54 4,65 3,85
(45,96) (44,47) (44,10) (42,53)
LISTED 0,14 0,14 0,15 0,16
 (0,15) (0,15) (0,15) (0,15)
SIZE 0,68** 0,66** 0,67** 0,70**
 (0,33) (0,32) (0,32) (0,33)
DEPOSIT -1,18* -1,24** -1,16* -1,05*
 (0,64) (0,61) (0,59) (0,58)
LOAN 1,47*** 1,41** 1,52*** 1,43**
 (0,55) (0,55) (0,53) (0,58)
BRANCH -0,39 -0,40 -0,39 -0,38
 (0,33) (0,33) (0,33) (0,32)
ETA 9,71*** 9,43*** 9,69*** 9,66***
 (3,47) (3,42) (3,42) (3,33)
AGE 0,63* 0,66* 0,65* 0,63*
 (0,33) (0,35) (0,34) (0,34)
STATE -2,19*** -2,18*** -2,21*** -2,27***
 (0,56) (0,56) (0,57) (0,56)
DEPOSIT*MRD 0,04
 (0,46)
LOAN*MRD 0,37
(0,41)
NPL*MRD -0,04
(0,04)
124 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
 (1) (2) (3) (4)
Biến nghiên cứu ROA ROA ROA ROA
DIVER*MRD 0,41
(0,52)
Constant -3,10 -3,17 -3,32 -3,46
(4,05) (3,99) (3,96) (3,83)
Bank fixed effect Yes Yes Yes Yes
Year fixed effect Yes Yes Yes Yes
Observations 179 179 179 169
Number of Code 32 32 32 28
Trong dấu ngoặc đơn là sai số chuẩn theo nhóm ở cấp ngân hàng
***, **, * thể hiện ý nghĩa thống kê tại 1%, 5%, 10%
 Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu theo phần mềm Stata 14
Bảng 6. Kết quả hồi quy ROE theo tương tác giữa MRD và 
DEPOSIT, LOAN, LOAN, NPL và DIVER
 (1) (2) (3) (4)
Biến nghiên cứu ROE ROE ROE ROE
MRD -2,60 -2,31 2,01 -0,31
 (3,84) (2,31) (1,75) (1,53)
NPL -0,95*** -0,95*** -0,69** -0,95***
 (0,30) (0,28) (0,29) (0,31)
HHI 362,8 345,1 360,8 355,8
(595,1) (559,1) (560,9) (559,7)
LISTED 1,08 1,10 1,20 1,23
(2,42) (2,42) (2,35) (2,40)
SIZE 3,37 3,29 3,31 3,43
(2,62) (2,53) (2,52) (2,65)
DEPOSIT -14,89** -14,20** -13,18** -12,12**
(6,99) (6,37) (5,93) (5,87)
LOAN 15,11** 14,06** 15,67** 13,62*
(6,87) (6,80) (6,65) (7,40)
BRANCH -2,16 -2,02 -2,02 -2,00
125Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
 (1) (2) (3) (4)
Biến nghiên cứu ROE ROE ROE ROE
(3,31) (3,30) (3,35) (3,27)
ETA 26,32 24,02 26,70 27,20
(25,54) (24,15) (24,45) (25,06)
AGE 3,95 3,93 3,86 3,54
(3,21) (3,26) (3,04) (3,04)
STATE -13,13*** -12,76*** -13,28*** -13,09***
(4,62) (4,63) (4,73) (4,56)
DEPOSIT*MRD 4,05
(5,95)
LOAN*MRD 4,38
(4,85)
NPL*MRD -0,74
(0,49)
DIVER*MRD 1,59
(4,12)
Constant -31,46 -30,02 -33,60 -31,79
(49,86) (47,28) (48,06) (47,20)
Bank fixed effect Yes Yes Yes Yes
Year fixed effect Yes Yes Yes Yes
Observations 179 179 179 169
Number of Code 32 32 32 28
Trong dấu ngoặc đơn là sai số chuẩn theo nhóm ở cấp ngân hàng
***, **, * thể hiện ý nghĩa thống kê tại 1%, 5%, 10%
 Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu theo phần mềm Stata 14
5. Kết luận
Bài viết đã nghiên cứu ảnh hưởng của danh tiếng truyền thông đến hiệu quả tài chính của 
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2012 - 2018. Nghiên cứu sử dụng dữ 
liệu danh tiếng do VNR công bố, đây là dữ liệu được biết đến nhiều nhất để đo lường danh 
tiếng truyền thông của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết quả thực nghiệm cho thấy 
danh tiếng truyền thông không ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của ngân hàng. Những kết 
quả này vẫn đúng khi vấn đề nội sinh được kiểm soát. Tác giả tiến hành phân tích sâu hơn 
để giải thích kết quả này thông qua ba kênh: kênh tài sản, kênh chấp nhận rủi ro và kênh đa 
126 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
dạng hóa thu nhập. Các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng danh tiếng truyền thông không làm 
thay đổi tiền gửi, tín dụng, nợ xấu hoặc đa dạng hóa thu nhập. Ngoài ra, các biến tương tác 
giữa danh tiếng truyền thông và bốn yếu tố này không có tác động đến hiệu quả tài chính. 
Kết quả này không tương đồng với kết quả của Deephouse (2000) khi nghiên cứu tại các 
nước phát triển.
Kết quả của nghiên cứu này có thể liên quan đến thể chế chính thức chưa hoàn chỉnh, 
được phản ánh qua sự thiếu minh bạch thông tin và chất lượng thông tin thấp, đặc trưng cho 
các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Các ràng buộc về thể chế thay đổi theo thời gian 
và cụ thể đối với các ngân hàng có thể làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, bởi vì, nghiên 
cứu không thể kiểm soát được các hiệu ứng này do giới hạn về kích thước mẫu lựa chọn. 
Công trình này có thể có ý nghĩa cho hướng nghiên cứu trong tương lai, có thể sử dụng dữ 
liệu mảng với số lượng ngân hàng nhiều hơn và thời gian dài hơn, che giấu danh tiếng truyền 
thông trên mạng xã hội, hoặc tìm ra người điều hành mối quan hệ giữa danh tiếng truyền 
thông và hiệu quả tài chính.
Bài viết này còn có các hạn chế như sau. Thứ nhất, vì VNR chỉ sử dụng nội dung của năm 
tờ báo để mã hóa phân tích, nên có thể không nắm bắt được mức độ phù hợp cho danh tiếng 
truyền thông. Về mã hóa phân tích, 12 tiêu chí xếp hạng do VNR sử dụng có thể không phải 
là tiêu chí phù hợp vì chúng liên quan đến lợi thế cạnh tranh và hiệu quả tài chính. Hơn nữa, 
vì chỉ quan sát mười ngân hàng uy tín nhất được báo cáo trong tổng số 32 ngân hàng được 
VNR sử dụng tại Việt Nam, cho nên, kết quả có thể thay đổi nếu thay thế biến giả bằng điểm 
số thực. Thứ hai, về các điểm yếu có thể có trong mối quan hệ của danh tiếng truyền thông 
và hiệu quả tài chính, tác giả cho rằng mối liên kết này có thể là gián tiếp và được truyền 
qua chiến lược và lợi thế cạnh tranh. Theo lý thuyết dựa trên tài nguyên, các công ty có khả 
năng duy trì lợi thế cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ phụ thuộc vào 
công ty sở hữu tài nguyên và năng lực mà còn quản lý hiệu quả các tài nguyên đó như thế 
nào (Barney, 1991). Do đó, phân tích sâu hơn trong những nghiên cứu tiếp theo là cần thiết 
để tìm ra kênh mà qua đó danh tiếng truyền thông có thể ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính 
của ngân hàng thương mại..
Tài liệu tham khảo
Aldrich, H.E. & Fiol, E.M. (1994), “Fools rush in? The institutional context of industry creation”, 
Academy of Management Review, Vol. 19 No. 4, pp. 645 - 670.
Balmer, J.M. (2010), “Explicating corporate brands and their management: Reflections and directions 
from 1995”, Journal of Brand Management, Vol. 18 No. 3, pp. 180 - 196.
Barney, J. (1991), “Firm resources and sustainable competitive advantage”, Journal of Management, 
Vol. 17 No. 1, pp. 99 - 120.
Bear, S., Rahman, N. & Post, C. (2010), “The impact of board diversity and gender composition on 
corporate social responsibility and firm reputation”, Journal of Business Ethics, Vol. 97 No. 
2, pp. 207 - 221.
127Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
César Machado, J., Vacas-de-Carvalho, L., Costa, P. & Lencastre, P. (2012), “Brand mergers: 
examining consumers' responses to name and logo design”, Journal of Product & Brand 
Management, Vol. 21 No. 6, pp. 418 - 427.
Chen, M.J. (1996), “Competitor analysis and interfirm rivalry: Toward a theoretical integration”, 
Academy of Management Review, Vol. 21 No. 1, pp. 100 - 134.
Deephouse, D.L. (1997), “The effect of financial and media reputations on performance”, Corporate 
Reputation Review, Vol. 1 No. 2, pp. 68 - 71.
Deephouse, D.L. (2000), “Media reputation as a strategic resource: an integration of mass 
communication and resource-based theories”, Journal of Management, Vol. 26 No. 6, pp. 
1091 - 1112.
Dierickx, I. & Cool, K. (1989), “Asset stock accumulation and sustainable competitive advantage”, 
Management Science, Vol. 35 No. 12, pp. 1504 - 1511.
Duschek, S. (2004), “Inter-firm resources and sustained competitive advantage”, Management Revue, 
Vol. 15 No. 1, pp. 53 - 73.
Eberl, M. & Schwaiger, M. (2005), “Corporate reputation: disentangling the effects on financial 
performance”, European Journal of Marketing, Vol. 39 No. 7 - 8, pp. 838 - 854.
Fombrun, C. (1996), Reputation: realizing value from corporate image, Harvard Business School 
Press, Boston, MA.
Gamson, W., Croteau, D., Hoynes, W. & Sasson, T. (1992), “Media images and the social construction 
of reality”, Annual Review of Sociology, Vol. 18, pp. 373 - 393.
Goddard, J., McKillop, D. & Wilson, J.O. (2008), “The diversification and financial performance of 
US credit unions”, Journal of Banking & Finance, Vol. 32 No. 9, pp. 1836 - 1849.
Gotsi, M. & Wilson, A. (2001), “Corporate reputation: seeking a definition”, Corporate 
Communications, Vol. 6 No. 1, pp. 24 - 30.
Groenland, E. (2002), “Qualitative research to validate the RQ-dimensions”, Corporate Reputation 
Review, Vol. 4 No. 4, pp. 308 - 315.
Hall, R. (1993), “A framework linking intangible resources and capabilities to sustainable competitive 
advantage”, Strategic Management Journal, Vol. 14 No. 8, pp. 607 - 618.
Hao, N.T. (2015), “Factors affecting the level of voluntary information disclosure of listed companies 
on HOSE”, Journal of Economic Development, Vol. 26 No. 11, pp. 99 - 115.
Heckman, J.J. (1979), “Sample selection bias as a specification error. Econometrica”, Journal of the 
econometric society, Vol. 47 No. 1, pp. 153 - 161.
Hynds, E. (1994), “Editors at most U.S. dailies see vital roles for editorial page”, Journalism 
Quarterly, Vol. 71 No. 3, pp. 573 - 582.
Inglis, R., Morley, C. & Sammut, P. (2006), “Corporate reputation and organisational performance: 
an Australian study”, Managerial Auditing Journal, Vol. 21 No. 9, pp. 934 - 947.
Jiang, C., Yao, S. & Feng, G. (2013), “Bank ownership, privatization, and performance: evidence 
from a transition country”, Journal of Banking & Finance, Vol. 37 No. 9, pp. 3364 - 3372.
Jones, G., Jones, B. & Little P. (2000), “Reputation as a reservoir: buffering against loss in times of 
economic crisis”, Corporate Reputation Review, Vol. 3 No. 1, pp. 21 - 29.
Kapferer, J.N. (2012), The new strategic brand management: advanced insights and strategic 
thinking, Kogan page publishers.
128 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Kotha, S., Rajgogal, S. & Rindova, V. (2001), “Reputation building and performance: an empirical 
analysis of the top-50 pure internet firms”, European Management Journal, Vol. 19 No. 6, 
pp. 570 - 586.
Le, T.B. & Nguyen, T.H. (2016), “Accounting information quality in emerging markets: conservatism 
in financial reporting of Vietnamese firms in the context of international economic integration”, 
International Journal of Economics and Financial issues, Vol. 6 No. 6, pp. 88 - 93
Linsley, P.M. & Shrives, P.J. (2005), “Transparency and the disclosure of risk information in the 
banking sector”, Journal of Financial regulation and Compliance, Vol. 13 No. 3, pp. 205 - 
214.
Luu, H.N., Nguyen, L.Q.T. & Vu, Q.H. (2019), “Income diversification and financial performance of 
commercial banks in Vietnam”, Review of Behavioral Finance, Vol. 12 No. 3, pp. 185 - 199.
McCombs, M.E. & Shaw, D.L. (1972), “The agenda-setting function of mass media”, Public Opinion 
Quarterly, Vol. 36 No. 2, pp. 176 - 187.
Michalisin, M., Kline, D. & Smith, R. (2000), “Intangible strategic assets and firm performance: a 
multi-industry study of the resource-based view”, Journal of Business Strategies, Vol. 17 No. 
2, pp. 93 - 117.
Park, J., Lee, H. & Kim, C. (2014), “Corporate social responsibilities, consumer trust and corporate 
reputation: South Korean consumers' perspectives”, Journal of Business Research, Vol. 67 
No. 3, pp. 295 - 302.
Perrow, C. (1961), “Organizational prestige: some functions and dysfunctions”, American Journal of 
Sociology, Vol. 66 No. 4, pp. 335 - 341.
Peteraf, M.A. (1993), “The cornerstones of competitive advantage”, Strategic Management Journal, 
Vol. 14 No. 3, pp. 179 - 191.
Podony, J. (1993), “A status-based model of market competition”, American Journal of Sociology, 
Vol. 98 No. 4, pp. 829 - 872.
Roberts, P.W. & Dowling, G.R. (1997), The value of a firm’s corporate reputation: How reputation 
helps attain and sustain superior profitability, Paper presented at the Conference on Corporate 
Reputation, Image, & Competitiveness, New York University, New York.
Roberts, P. & Dowling, G. (2002), “Corporate reputation and sustained superior financial 
performance”, Strategic Management Journal, Vol. 23 No. 12, pp. 1077 - 1093.
Rose, C. & Thomsen, S. (2004), “The impact of corporate reputation on performance: some Danish 
evidence”, European Management Journal, Vol. 22 No. 2, pp. 201 - 210.
Rosen, R.J., Smart, S.B. & Zutter, C.J. (2005), “Why do firms go public? Evidence from the banking 
industry”, Working Paper Series WP-05-17, Federal Reserve Bank of Chicago.
Ruiz, B., Esteban, Á. & Gutiérrez, S. (2014), “Determinants of reputation of leading Spanish financial 
institutions among their customers in a context of economic crisis”, BRQ Business Research 
Quarterly, Vol. 17 No. 4, pp. 259 - 278.
Saeidi, S.P., Sofian, S., Saeidi, P., Saeidi, S.P. & Saaeidi, S.A. (2015), “How does corporate social 
responsibility contribute to firm financial performance? The mediating role of competitive 
advantage, reputation, and customer satisfaction”, Journal of business research, Vol. 68 No. 
2, pp. 341 - 350.
129Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Shapiro, C. (1983), “Premiums for high quality products as returns to reputations”, Quarterly Journal 
of Economics, Vol. 98 No. 4, pp. 659 - 679.
Shenkar, O. & Yuchtman-Yaar, E. (1997), “Reputation, image, prestige, and goodwill: an 
interdisciplinary approach to organizational standing”, Human Relations, Vol. 50 No. 11, pp. 
1361 - 1381.
Shoemaker, P.J. & Reese, S.D. (1991), Mediating the message: Theories of influences on mass media 
content, White Plains, NY: Longman.
Sigalas, C. & Economou, V.P. (2013), “Revisiting the concept of competitive advantage”, Journal of 
Strategy and Management, Vol. 6 No. 1, pp. 61 - 80.
Srivastava, R.K., McInish, T.H., Wood, R.A. & Capraro, A.J. (1997), “The value of corporate 
reputation: Evidence from equity markets”, Corporate Reputation Review, Vol. 1 No. 1-2, 
pp. 62 - 67.
Sun, M. & Tse, E. (2009), “The resource-based view of competitive advantage in two-sided markets”, 
Journal of Management Studies, Vol. 46 No. 1, pp. 45 - 64.
Tran, T.B., Grafton, R.Q. & Kompas, T. (2009), “Institutions matter: the case of Vietnam”, The 
Journal of Socio-Economics, Vol. 38 No. 1, pp. 1 - 12.
Transparency International. (2017), “Transparency in Corporate Reporting: Assessing the 30 largest 
companies in Vietnam”, https://towardstransparency.vn/wp-content/uploads/2019/02/
TRAC-Vietnam-2017_EN_Final.pdf (truy cập ngày 01 tháng 11 năm 2019).
Vauhkonen, J. (2012), “The impact of Pillar 3 disclosure requirements on bank safety”, Journal of 
financial services research”, Vol. 41 No. 1 - 2, pp. 37 - 49.
Wang, H.L. (2014), “Theories for competitive advantage”, in: Hasan, H. (Ed.), Being Practical with 
Theory: A Window into Business Research, Wollongong, Australia, pp. 33 - 43.
Wartick, S. (2002), “Measuring corporate reputation”, Business and Society, Vol. 41 No. 4, pp. 371 
- 92.
Xie, X., Jia, Y., Meng, X. & Li, C. (2017). “Corporate social responsibility, customer satisfaction, 
and financial performance: the moderating effect of the institutional environment in two 
transition economies” Journal of Cleaner Production, Vol. 150, pp. 26 - 39.
130 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế

File đính kèm:

  • pdftom_tat_tien_giang_la_tinh_thuoc_dong_bang_song_cuu_long_co.pdf