Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp ứng phó

1. Thực trạng tác động của biến đổi

khí hậu tới nông nghiệp, nông thôn

Ở Việt Nam, nông nghiệp đóng vai

trò quan trọng trong nền kinh tế quốc

dân, chiếm khoảng 52,6% lực lượng

lao động và 22% tổng sản phẩm trong

nước (GDP) năm 2010(1). Hoạt động

sản xuất của ngành phụ thuộc nhiều

vào các yếu tố tự nhiên, như: đất đai,

nước, khí hậu và thủy văn, nhiệt độ, độ

ẩm. Biến đổi khí hậu trong thời gian

qua đã tác động xấu đến ngành nông

nghiệp Việt Nam

pdf 10 trang phuongnguyen 10260
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp ứng phó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp ứng phó

Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp ứng phó
T¹p chÝ Khoa häc x· héi ViÖt Nam, sè 5 (66) - 2013 
 12 
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN 
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ 
PHAN SĨ MẪN* 
HÀ HUY NGỌC** 
1. Thực trạng tác động của biến đổi 
khí hậu tới nông nghiệp, nông thôn 
Ở Việt Nam, nông nghiệp đóng vai 
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc 
dân, chiếm khoảng 52,6% lực lượng 
lao động và 22% tổng sản phẩm trong 
nước (GDP) năm 2010(1). Hoạt động 
sản xuất của ngành phụ thuộc nhiều 
vào các yếu tố tự nhiên, như: đất đai, 
nước, khí hậu và thủy văn, nhiệt độ, độ 
ẩm... Biến đổi khí hậu trong thời gian 
qua đã tác động xấu đến ngành nông 
nghiệp Việt Nam. 
1.1. Tác động của biến đổi khí hậu 
đến an ninh lương thực quốc gia 
Để đảm bảo an ninh lương thực quốc 
gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông 
thôn (NN&PTNT) đã xây dựng Đề án 
“Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông 
thôn”, Chiến lược an ninh lương thực 
quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến 
năm 2030; Nghị định về quản lý đất 
lúa. Theo số liệu thống kê của Bộ 
NN&PTNT năm 2009, diện tích đất 
gieo trồng cây nông nghiệp khoảng 9,4 
triệu ha, trong đó có 4 triệu ha đất lúa; 
mục tiêu đến năm 2020 đạt 10 triệu ha. 
Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020 dân số 
nước ta sẽ đạt khoảng 120 triệu người 
cùng với tốc độ đô thị hóa cao, trong bối 
cảnh biến đổi khí hậu và thời tiết cực 
đoan, nước biển dâng thì mục tiêu này 
đang bị đe dọa. 
Trong lĩnh vực nông nghiệp, thiệt hại 
do thiên tai gây ra rất đáng kể. Thiên tai 
làm gia tăng sự phân hóa mức sống dân 
cư, làm cản trở và làm chậm quá trình 
xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt ở những 
vùng thường xuyên phải đối mặt với 
thiên tai. Trung bình hàng năm có hàng 
triệu lượt người cần cứu trợ do bị thiên 
tai và nhiều người lại rơi vào tình trạng 
tái nghèo (Bảng 1)(*) 
(*) Phó giáo sư, tiến sỹ, Viện Địa lý nhân văn - 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
** Viện Địa lý nhân văn - Viện Hàn lâm Khoa 
học xã hội Việt Nam. 
(1) Tổng Cục Thống kê (2010). 
T¸c ®éng cña biÕn ®æi khÝ hËu ®Õn n«ng nghiÖp, n«ng th«n ViÖt Nam... 
 13 
Bảng 1. Thiệt hại do thiên tai gây ra đối với ngành nông nghiệp 
Hạng mục 2002 2003 2005 2006 2007 2008 2009 2010 
Lúa bị hư hại (ha) 46.490 209.764 504.095 139.321 173.830 149.945 237.799 157.696 
Hoa màu bị hại (ha) 43.698 50.118 160.780 122.560 215.059 325.614 173.662 -- 
Trâu, bò chết (con) 8.465 288 1.629 427 2.931 414 48.938 4.567 
Lợn chết (con) 27.732 2.535 6.705 610 246.553 22.006 98.620 32.555 
Gia cầm chết (con) 219.456 93.885 131.747 79.766 2.868.985 1.162.303 1.249.087 676.782 
Diện tích hồ nuôi 
tôm, cá vỡ (ha) 
5.828 14.490 55.691 9.819 17.765 57.199 9.424 28.481 
Tàu, thuyền chìm mất 
(chiếc) 
26 183 383 1.151 266 226 683 164 
.       
Tổng thiệt hại 
(tỷ đồng) 
 1.471 725 86 
Tỷ lệ thiệt hại/ 
GTSXNN (%) 
 0,75 0,31 0,025 
Nguồn: Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, năm 2010 
Chỉ tính riêng trong năm 2010, nước 
ta đã chịu ảnh hưởng của 11 cơn bão 
và nhiều đợt lũ lụt lớn, gây thiệt hại 
nặng nề về người và tài sản. Các hiện 
tượng bão, lũ quét, lốc đã gây thiệt hại 
nặng nề đến ngành trồng trọt(2). 
Mặt khác, theo tính toán từ kịch 
bản biến đổi khí hậu (BĐKH) của Bộ 
Tài Nguyên và Môi trường (TN&MT) 
năm 2009, nếu nước biển dâng 1m, 
có tới 38,29% diện tích đất tự nhiên 
và 32,16% diện tích đất nông nghiệp 
bị ngập trong nước biển tại 10 tỉnh 
ngập nặng nhất vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long (ĐBSCL) và Thành phố Hồ 
Chí Minh (Bảng 2).(2) 
(2) Thống kê của Văn phòng Ban chỉ đạo phòng 
chống lụt bão Trung ương (2010). 
T¹p chÝ Khoa häc x· héi ViÖt Nam, sè 5 (66) - 2013 
 14 
Bảng 2. Dự báo thiệt hại sản lượng lúa theo kịch bản 
về nước biển dâng 1m tại ĐBSCL 
Tỉnh 
Diện tích đất 
tự nhiên 
(1000ha) 
Đất tự nhiên 
bị ngập 
(1000 ha) 
Ước tính đất 
NN bị ngập 
(1000 ha) 
Năng suất 
lúa TB 
(tấn/ha/vụ) 
Số vụ/ 
năm 
Sản 
lượng 
bị mất 
(1000 tấn) 
Giá trị bị 
mất (1000 
tỷ đồng)* 
Bến Tre 231,5 113,1 81,7 4,06 2,0 663,7 2.522,0 
Long An 449,2 216,9 160,0 4,08 2,0 1.305,3 4.960,3 
Trà Vinh 222,6 102,1 83,5 4,43 2,0 739,9 2.811,7 
Sóc Trăng 322,3 142,5 116,6 4,93 2,0 1.150,1 4.370,2 
TP. HCM 209,5 86,2 39,2 3,17 2,0 248,6 944,6 
Vĩnh Long 147,5 60,6 49,2 4,77 2,0 468,9 1.782,0 
Bạc Liêu 252,1 96,2 80,4 4,66 2,0 749,0 2.846,3 
Tiền Giang 236,7 78,3 60,1 4,90 2,0 588,5 2.236,3 
Kiên Giang 626,9 175,7 112,8 4,61 2,0 1.040,5 3.953,7 
Cần Thơ 298,6 75,8 64,6 5,18 2,0 669,6 2.544,5 
Cộng 2.996,8 1.147,4 848,1 44,79 2,0 7.597,4 28.870,2 
Cơ cấu - 38,29 32.16 - - 40,52 40,52 
Ghi chú: (*) Giá lúa được tính là 3.800 đ/kg tại thời điểm tháng 12/2009 
Nguồn: Jeremy Carew - Ried - Trung tâm Quốc tế về quản lý môi trường (ICEM), 2007 và 
MONRE, 2009. 
Bảng trên cho thấy, đến năm 2010 
nếu nước biển dâng 1m, vựa lúa 
ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh có nguy 
cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm, tương 
đương với 40,52% tổng sản lượng lúa 
của cả vùng. Như vậy, nếu kịch bản của 
Bộ TN&MT về BĐKH và nước biển 
dâng diễn ra theo đúng như dự đoán, 
T¸c ®éng cña biÕn ®æi khÝ hËu ®Õn n«ng nghiÖp, n«ng th«n ViÖt Nam... 
 15 
Việt Nam sẽ có nguy cơ đối mặt với 
việc thiếu lương thực trầm trọng vào 
năm 2010, vì mất đi khoảng 21,39% 
sản lượng lúa (mới tính riêng cho vùng 
ĐBSCL). 
1.2. Tác động của biến đổi khí hậu 
đến nuôi trồng thuỷ sản 
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, 
diện tích vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 
triệu km2. Đây là các điều kiện tiềm 
năng để phát triển khai thác thủy, hải 
sản. Có thể nói, trong số những lợi ích 
mà biển mang lại, thì nguồn lợi thuỷ, hải 
sản chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. 
Trong thời gian qua, BĐKH đã gây ảnh 
hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh 
tế ở các vùng ven biển Việt Nam, trong 
đó có ngành nuôi trồng thuỷ sản: 
Thứ nhất, sự tăng nhiệt độ đã ảnh 
hưởng xấu đến nuôi trồng thuỷ sản. 
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong 
quá trình sinh trưởng và phát triển của 
sinh vật nói chung và các loài nuôi 
trồng thủy sản nói riêng. Ở các tỉnh 
miền Trung, hiện tượng nắng nóng đã 
làm cho nhiệt độ nước tăng lên quá 
mức chịu đựng của nhiều loài sinh vật. 
Mặt khác, thay đổi nhiệt độ còn là điều 
kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh 
xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng 
cao làm cho sức khỏe của các loài nuôi 
bị xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho 
sự phát triển của các loài vi sinh vật 
gây hại. 
Thứ hai, bão, lũ lụt và áp thấp nhiệt 
đới hình thành trên Biển Đông đã gây 
thiệt hại nặng nề cho hoạt động đánh bắt 
thuỷ sản. Có thể nói, trong số những lợi 
ích mà biển mang lại, kinh tế thuỷ sản 
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, đan xen 
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. 
Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong 
việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho 
các cộng đồng dân cư sống ở các vùng 
nông thôn ven biển và hải đảo (58% dân 
cư vùng ven biển chủ yếu dựa vào nông 
nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 
480.000 người trực tiếp đánh bắt hải 
sản, khoảng 10.000 người làm nghề chế 
biến hải sản và 2.140.000 người cung 
cấp các dịch vụ liên quan đến nghề 
cá)(3). BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp 
đến nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản ở 
vùng ven biển Việt Nam. 
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu 
phức tạp. Tất cả các cơn bão, áp thấp 
nhiệt đới hoạt động ở Biển Đông đều có 
ảnh hưởng trực tiếp đến thời tiết Việt 
Nam (Hộp 1). Đặc biệt, là các cơn bão, 
áp thấp nhiệt đới khi đổ bộ vào vùng 
biển gần bờ thường có tốc độ và hướng 
di chuyển không ổn định, phạm vi ảnh 
hưởng rộng, gây nên những đợt mưa 
lớn, gây úng ngập nhiều vùng dân cư và 
đồng ruộng. 
(3) Tổng Cục Thuỷ sản (2011). 
T¹p chÝ Khoa häc x· héi ViÖt Nam, sè 5 (66) - 2013 
 16 
Hộp 1: Một số thiệt hại do bão những năm qua 
- Tháng 8/1996, cơn áp thấp nhiệt đới trên vùng biển Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa đã làm 113 ngư dân bị 
thiệt mạng, hàng chục tàu thuyền bị chìm. 
- Tháng 11/1997, cơn bão Linđa đổ bộ vào bán đảo Cà Mau, Kiên Giang đã làm chết và mất tích trên 
3.000 người, trên 3.600 tàu thuyền đánh cá của ngư dân bị chìm đắm và hư hỏng. 
- Năm 1998, các cơn áp thấp nhiệt đới và bão số 4, 6, 8 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung đã làm 100 ngư dân 
bị chết và mất tích, 450 tàu thuyền bị chìm đắm và hư hỏng. 
- Năm 1999, đợt lũ quét cuối tháng 7 tại Bình Thuận làm 70 tàu bị chìm và bị trôi, 50 ngư dân bị chết. 
Đầu tháng 11 và tháng 12/1999 áp thấp nhiệt đới gây mưa to, lũ lớn ở 7 tỉnh miền Trung đã làm 1.282 tàu 
thuyền bị chìm và bị trôi, 50 ngư dân bị chết. 
- Năm 2001, cơn bão số 8 đổ bộ vào 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên làm 32 ngư dân bị chết, 
853 tàu thuyền bị chìm đắm và hư hỏng. 
- Năm 2006, 10 cơn bão với cường độ mạnh kết hợp với các đợt gió mùa Đông Bắc kéo dài và các hiện 
tượng bất thường khác đã tác động đáng kể đến hoạt động thủy sản, gây thiệt hại cho người và tàu cá hoạt 
động trên biển; đặc biệt, cơn bão số 1 Chan Chu đã làm chìm 18 tàu cá, 266 ngư dân bị chết và mất tích. 
- Cơn bão số 6 (Xangsane) đã làm cho 7 ngư dân bị chết và mất tích, gần 1.000 tàu cá bị chìm, hơn 
7.000 ha nuôi trồng thủy sản bị lụt, 700 lồng bè nuôi bị trôi. 
- Cơn bão số 9 (Durian) cũng gây thiệt hại đáng kể về người và vật chất đối với cộng đồng ngư dân. 
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả 
Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực của hiện 
tượng xâm ngập mặn đối với nuôi trồng 
thuỷ sản. Hiện tượng nước biển dâng và 
ngập mặn gia tăng đã làm mất nơi sinh 
sống thích hợp của một số loài thủy sản 
nước ngọt, từ đó làm giảm năng lực nuôi 
trồng thủy sản nước ngọt trên đất liền 
các vùng ĐBSCL và đồng bằng Sông 
Hồng (ĐBSH). Biến đổi khí hậu cũng 
gây ra nhiều tác động tiêu cực tới trữ 
lượng các bãi cá và nghề đánh cá trên 
các vùng biển nước ta. 
Thứ tư, lượng mưa lớn và bất thường 
ảnh hưởng xấu đến nuôi trồng thuỷ sản. 
Cường độ mưa lớn làm cho nồng độ 
muối giảm đi trong một thời gian ngắn, 
dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc 
biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, 
sò...) bị chết hàng loạt do không chống 
chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Các 
loại cá nhiệt đới kém giá trị tăng lên, các 
loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế 
cao bị giảm đi hoặc mất hẳn. Thay đổi 
nhiệt độ còn làm phát sinh nhiều loại 
dịch bệnh cho các loài nuôi. Với cơ chế 
tác động như vậy, BĐKH đã gây ra thiệt 
hại không nhỏ về kinh tế cho ngành ngư 
nghiệp và do đó nó cũng đã và đang gây 
ra những thay đổi bất lợi cho lao động 
và việc làm của ngành (Hộp 2). 
Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam... 
 17 
Hộp 2: Tác động của BĐKH đến việc làm và thu nhập 
của các hộ gia đình đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản 
Kết quả khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) năm 2011 cho thấy, ở các 
địa phương khảo sát đều có tỷ lệ lao động đang làm trong lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản khá cao, từ trên 
50% đến 90% lực lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực này. Đối với những địa bàn sát biển như 
huyện Năm Căn (Cà Mau), diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm trên 90% tổng diện tích canh tác của toàn 
huyện, với xấp xỉ 90% lao động gắn liền với sinh kế này. Do hạn chế về vốn đầu tư và kiến thức/kỹ thuật 
nên quá trình sản xuất của người dân địa phương hầu như phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, thời tiết,... 
Do tác động của BĐKH, thiệt hại trong nuôi trồng thủy sản có xu hướng gia tăng trong những năm gần 
đây. Ngày càng có nhiều diện tích nuôi trồng thủy hải sản bị nước biển dâng cao, phá hủy hoặc làm hư 
hỏng,... Bên cạnh đó, do hiện tượng khô hạn, xâm nhập mặn, mưa lũ trái mùa,... làm thay đổi môi trường 
nước (thay đổi nhiệt độ, thay đổi độ mặn), nên nhiều diện tích nuôi cá tra, tôm, ngao,... bị giảm năng suất, 
bị dịch bệnh, chết hàng loạt. Tổn thất do BĐKH đối với hộ gia đình và người lao động nuôi trồng thủy sản 
ngày càng nghiêm trọng. Tỷ lệ thiệt hại ở một số diện tích nuôi trồng thủy sản ở Bạc Liêu, Bến Tre, Cà 
Mau đã tăng tới 30-40%/năm. Các hộ gia đình ở vùng chịu ảnh hưởng nặng phải bỏ ao, “treo ao”, sản xuất 
cầm chừng. Lao động nuôi trồng thủy sản bị thiếu việc làm nhiều tháng trong năm hoặc phải kiếm sinh kế 
khác như đi làm thuê, chuyển sang sản xuất muối, đi biển... 
Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát địa phương của Bộ LĐTB&XH, năm 2011. 
1.3. Tác động của biến đổi khí hậu 
tới hạ tầng nông thôn 
Biến đổi khí hậu làm cho mực nước 
biển dâng cao dẫn đến nguy cơ vỡ đê 
trong các trận bão lớn. Do mực nước 
biển dâng cao cho nên chế độ lực của 
sóng và dòng chảy ven bờ có những thay 
đổi; điều đó cũng gây xói lở bờ. Mực 
nước biển dâng cao làm giảm khả năng 
tiêu thoát nước ra biển, làm cho mực 
nước các con sông trong nội địa dâng 
lên. Khi có sự gia tăng dòng chảy lũ từ 
thượng nguồn do hậu quả của các hiện 
tượng thời tiết cực đoan thì mực nước 
biển dâng cao sẽ làm cho đỉnh lũ tăng 
lên, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê 
sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ 
bao tại các tỉnh phía Nam. Các hệ thống 
tiêu nước vùng ven biển hiện nay hầu hết 
đều là các hệ thống tiêu tự chảy. Mực 
nước biển dâng lên làm cho việc tiêu tự 
chảy khó khăn, đặc biệt vào lúc triều 
cường, gây ngập úng tại nhiều khu vực. 
Mực nước biển dâng còn làm cho mặn 
xâm nhập sâu vào nội địa, vào các tầng 
nước dưới đất vùng ven biển, gây khó 
khăn cho việc lấy nước phục vụ sản xuất. 
Số liệu của Văn phòng Ban chỉ đạo 
phòng chống lụt bão Trung ương cho 
thấy, biến đổi khí hậu mà biểu hiện rõ 
nhất là thiên tai đã ảnh hưởng nặng nề 
đến hạ tầng nông thôn. Riêng năm 2010, 
mưa, lũ, bão số 9 đã làm hư hỏng khoảng 
155.700 m3 kênh mương, 50.000 m3 đê 
điều, hơn 322 công trình thủy lợi lớn nhỏ 
các loại (Bảng 3). 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 18 
Bảng 3: Thống kê thiệt hại thiên tai năm 2010 
Hạng mục Đơn vị Mưa lũ Lốc, mưa đá 
Lũ 
quét 
Bão số 9 Bão số 11 
Khối lượng đất sạt, trôi, bồi lấp m3 223.320 0 16.988 2.070.708 355.619 
Kênh mương, hồ đập m3 155.700 0 0 0 0 
Đê nuôi trồng thuỷ sản m3 50.000 0 0 0 0 
Đá sạt, trôi m3 450 0 0 381.845 10.210 
Đê bị sạt m 10.000 0 0 36.276 16.104 
Kè sạt m 0 0 312 100,400 2,250 
Kênh mương sạt lở, hư hại m 0 1.400 5.396 174.605 121.974 
Số lượng cầu máng, cống vỡ, trôi Cái 3 0 2 15 0 
Số C.T thuỷ lợi nhỏ vỡ, trôi Cái 0 0 16 332 0 
Số C.T thuỷ lợi nhỏ bị hư hại Cái 4 0 392 1,259 179 
Số phao tạm bị trôi Cái 1 3 330 0 0 
Số trạm, máy bơm ngập Cái 0 0 0 9 0 
Ước tính thành tiền Triệu đồng 18.000 - - - - 
Nguồn: Thống kê của Văn phòng Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, năm 2010. 
2. Một số giải pháp nhằm ứng phó 
với tác động BĐKH tới nông nghiệp, 
nông thôn 
Nông nghiệp, nông thôn là ngành và 
khu vực chịu thiệt hại mạnh nhất bởi 
BĐKH. Do đó, các hoạt động ứng phó 
với tác động của BĐKH đến nông 
nghiệp, nông thôn của ngành có tầm 
quan trọng quyết định trong Chiến lược 
ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Để tiến 
hành các hoạt động thích ứng và giảm 
thiểu BĐKH một cách có hiệu quả, cần 
có thực hiện các giải pháp chính sau: 
2.1. Xây dựng chương trình ứng phó 
với tác động của biến đổi khí hậu đến 
nông nghiệp, nông thôn 
- Thứ nhất, trong lĩnh vực nông 
nghiệp cần phải: 
· Nghiên cứu quy hoạch các loại đất 
nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa trong điều 
kiện BĐKH, trong đó cần quan tâm đến 
việc đánh giá toàn diện về khả năng thích 
ứng, dự báo khả năng suy giảm năng suất 
cây trồng theo các kịch bản của BĐKH; 
· Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ 
cấu mùa vụ và cơ cấu giống phù hợp với 
BĐKH của các vùng sinh thái; 
· Nghiên cứu, chọn tạo và đưa vào 
sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi 
thích ứng với BĐKH; 
Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam... 
 19 
· Xây dựng kế hoạch áp dụng công 
nghệ tiên tiến trong xử lý rác hữu cơ 
làm phân bón, thuốc trừ sâu, sử dụng 
nước tiết kiệm; 
· Bảo tồn và giữ gìn các giống cây 
trồng địa phương, thành lập các ngân 
hàng giống. 
- Thứ hai, trong lĩnh vực thuỷ sản 
cần phải: 
· Nghiên cứu cải tiến những công 
nghệ nuôi, đối tượng nuôi mới, công nghệ 
khai thác phù hợp với sự biến đổi khí hậu; 
chọn tạo được giống nuôi mới có khả 
năng thích ứng với điều kiện thời tiết khắc 
nghiệt, khả năng kháng bệnh cao; 
· Nghiên cứu chính sách hỗ trợ, phát 
triển và bảo hiểm ngành thuỷ sản trong 
điều kiện BĐKH (hỗ trợ tài chính, thành 
lập Quỹ tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, chuyển 
đổi cơ cấu ngành nghề khai thác thuỷ sản 
ở các vùng nước ven bờ và xa bờ); 
· Áp dụng tiêu chuẩn nuôi trồng thủy 
sản sạch trong thuỷ sản để nâng cao hệ số 
sử dụng thức ăn, giảm chi phí xử lý chất 
thải hữu cơ, giảm chi phí trong khai thác; 
· Xây dựng cơ sở hạ tầng, bến bãi, 
neo đậu thuyền có tính đến mực nước 
biển dâng và nhiệt độ tăng; 
· Xây dựng hệ thống phòng tránh bão 
dọc bờ biển cũng như các tuyến đảo. 
- Thứ ba, đối với hệ thống thuỷ lợi, 
hạ tầng nông thôn cần phải: 
· Kiện toàn hệ thống ban chỉ đạo, chỉ 
huy hộ đê, phòng chống lụt bão và giảm 
nhẹ thiên tai; 
· Nâng cao năng lực và trình độ 
KHCN về quy hoạch, thiết kế, xây dựng 
công trình thuỷ lợi; xây dựng các giải 
pháp tưới tiêu, quy trình quản lý, vận 
hành điều tiết hệ thống công trình thuỷ 
lợi, nhằm hạn chế các thiệt hại do thiên 
tai, BĐKH gây ra; 
· Quy hoạch và nâng cấp, xây dựng 
các công trình ngăn mặn, công trình 
cấp nước, tiêu nước, đặc biệt đối với 
ĐBSH, ĐBSCL; 
· Xây dựng phương án hỗ trợ đặc 
biệt cho cộng đồng dân cư ở các vùng 
thường xảy ra lũ, lụt, bão để người dân 
có nơi cư trú an toàn, nhất là ở ĐBSCL, 
miền Trung; 
· Lồng ghép các vấn đề BĐKH vào 
quy hoạch xây dựng hệ thống thuỷ lợi, 
công trình giao thông nông thôn. 
2.2. Phòng ngừa, giảm thiểu và khắc 
phục rủi ro thiên tai 
Tác động tiêu cực của BĐKH là một 
hình thức rủi ro do thiên nhiên đem lại. 
Do vậy, các hoạt động ứng phó với tác 
động tiêu cực của BĐKH cần phải gắn 
với Chiến lược an sinh xã hội của Việt 
Nam với ba nhóm hoạt động chính là 
phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và 
khắc phục rủi ro. Cụ thể, cần phải: 
- Hỗ trợ nông dân mua bảo hiểm hưu 
trí; xác định đối tượng ưu tiên và mức hỗ 
trợ dựa trên các tiêu chuẩn về độ tuổi, 
khả năng chi trả, mức sống tối thiểu; làm 
cho mọi người dân có thể sống bằng 
nguồn thu nhập của chính mình. 
- Hỗ trợ nông dân mua bảo hiểm cây 
trồng, vật nuôi; thử nghiệm, tiến tới mở 
rộng đề án hỗ trợ nông dân mua bảo 
hiểm nông nghiệp do Bộ Tài chính đang 
thực hiện để khi rủi ro xảy ra, thì đời 
sống của người dân vẫn được đảm bảo 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 20 
và họ có khả năng tái sản xuất; xây dựng 
bộ chỉ tiêu để ưu tiên hỗ trợ chính sách. 
- Hỗ trợ xây dựng các khu định cư ổn 
định để di chuyển người dân ra khỏi 
những địa bàn bị rủi ro cao nhất do hiện 
tượng nước biển dâng, mà trước hết là 
những địa bàn chịu ảnh hưởng lớn do 
triều cường. 
- Xây dựng một bộ chỉ tiêu xác định 
đối tượng thụ hưởng trợ giúp đột xuất 
do thiên tai nói chung và do nước biển 
dâng nói riêng dẫn đến mất nguồn sinh 
kế; dần dần mở rộng đối tượng thụ 
hưởng và mức hỗ trợ; lấy mức sống tối 
thiểu làm cơ sở để xác định mức hỗ trợ. 
- Hỗ trợ xây dựng các quỹ cứu trợ đột 
xuất tại xã/phường, thôn/bản để người 
dân và địa phương chủ động linh hoạt 
đối phó với những rủi ro gây ra do tình 
trạng nước biển dâng. 
2.3. Tăng cường năng lực tự ứng 
phó với BĐKH cho cán bộ các cấp và 
người dân 
Việc xử lý các rủi ro do tác động của 
thiên tai đến nay tuy đã được thực hiện 
khá tốt ở các cấp, qua đó đã đảm bảo 
những điều kiện sống tối thiểu cho dân 
cư, nhưng nhìn chung chỉ dừng lại ở 
những hoạt động nhất thời và do Nhà 
nước thực hiện. Yêu cầu đặt ra là người 
dân phải có đủ năng lực tự ứng phó khi 
rủi ro xảy ra. Vì vậy, cần phải: 
- Tăng cường công tác truyền thông 
nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho người 
dân và các cấp cơ sở về những nguy cơ có 
thể xảy ra trong dài hạn ở những địa bàn 
chịu tác động của nước biển dâng, thông 
tin về các chính sách của Nhà nước để 
người dân chủ động tiếp cận. 
- Xây dựng các tài liệu và đào tạo 
giảng viên, hướng dẫn tạo sinh kế trên 
cơ sở phát huy năng lực nội sinh của 
người dân và năng lực của cộng đồng 
dân cư để họ chủ động phòng ngừa và 
khắc phục những rủi ro do tác động của 
nước biển dâng. 
Tài liệu tham khảo 
1. Chiến lược Quốc gia phòng, chống và 
giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 (được Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 
172/2007/QĐ-TTg ngày 16/11/2007). 
2. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó 
với biến đổi khí hậu (được Thủ tướng Chính 
phủ phê duyệt tại Quyết định số 158/2008/QĐ-
TTg ngày 02/12/2008). 
3. Khung chương trình hành động thích ứng 
với Biến đổi khí hậu của ngành nông nghiệp 
và phát triển nông thôn, giai đoạn 2008-2020 
(được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn phê duyệt tại Quyết định số 
2730/QĐ-BNN-KHCN ngày 05/9/2008). 
4. Báo cáo phát triển con người, năm 
2007/2008 của UNDP- Cuộc chiến chống biến 
đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế 
giới phân cách. 
5. Báo cáo về ảnh hưởng của nước biển dâng 
đến ngập lụt và xâm nhập mặn đối với đồng 
bằng sông Cửu Long, năm 2008 (Viện Quy 
hoạch Thuỷ lợi miền Nam). 
6. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó 
với biến đổi khí hậu (được Thủ tướng Chính 
phủ phê duyệt tại quyết định số 158/2008/QĐ-
TTg ngày 02/12/2008). 
Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp, nông thôn Việt Nam... 
 21 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_bien_doi_khi_hau_den_nong_nghiep_nong_thon_viet.pdf