Suy hô hấp sau sanh mổ chủ động chưa chuyển dạ
Giới thiệu
Trong bào thai, phổi ngập dịch, do tế bào biểu mô phổi bài tiết, và khởi động bởi bài tiết Cl- Chủ động. Dịch phổi có chứa nhiều Cl- (> 150 mEq/L) và hầu như không có protein (<0,03g 00ml)="" đóng="" vai="" trò="" đáng="" kể="" trong="" sự="" phát="" triển="" phổi.="" lúc="" sanh,="" dịch="" trong="" phổi="" được="" hấp="" thu="" nhanh="" chóng,="" cho="" phép="" sự="" trao="" đổi="" khí="" sau="" sanh.="" để="" thực="" hiện="" tiến="" trình="" này,="" tế="" bào="" biểu="" mô="" phải="" nhanh="" chóng="" và="" hiệu="" quả="" chuyển="" từ="" việc="" bài="" tiết="" cl-="" sang="" hấp="" thu="" na+.="" tế="" bào="" biểu="" mô="" phổi="" hấp="" thu="" dịch="" qua="" kênh="" sodium="" biểu="" mô="" (epithelial="" sodium="" channels,="" enac).="" suy="" giảm="" tiến="" trình="" hấp="" thu="" này,="" khi="" chuyển="" tiếp="" từ="" cuộc="" sống="" trong="" tử="" cung="" sang="" cuộc="" sống="" ngoài="" tử="" cung="" có="" thể="" gây="" suy="" hô="" hấp="" sơ="" sinh,="" bao="" gồm="" cơn="" thở="" nhanh="" thoáng="" qua="" (transient="" tachypnea="" of="" the="" newborn,="" ttn)="" hay="" bệnh="" màng="" trong="" (respiratory="" distress="" syndrome,="">0,03g>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Suy hô hấp sau sanh mổ chủ động chưa chuyển dạ

53 THÔNG TIN CẬP NHẬT SUY HÔ HẤP SAU SANH MỔ CHỦ ĐỘNG CHƯA CHUYỂN DẠ Cam Ngọc Phượng* TS, BS. * Khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Hạnh Phúc Email: [email protected] Giới thiệu Trong bào thai, phổi ngập dịch, do tế bào biểu mô phổi bài tiết, và khởi động bởi bài tiết Cl- chủ động. Dịch phổi có chứa nhiều Cl- (> 150 mEq/L) và hầu như không có protein (<0,03g/100ml) đóng vai trò đáng kể trong sự phát triển phổi. Lúc sanh, dịch trong phổi được hấp thu nhanh chóng, cho phép sự trao đổi khí sau sanh. Để thực hiện tiến trình này, tế bào biểu mô phải nhanh chóng và hiệu quả chuyển từ việc bài tiết Cl- sang hấp thu Na+. Tế bào biểu mô phổi hấp thu dịch qua kênh sodium biểu mô (Epithelial sodium channels, ENaC). Suy giảm tiến trình hấp thu này, khi chuyển tiếp từ cuộc sống trong tử cung sang cuộc sống ngoài tử cung có thể gây suy hô hấp sơ sinh, bao gồm cơn thở nhanh thoáng qua (Transient tachypnea of the newborn, TTN) hay bệnh màng trong (Respiratory distress syndrome, RDS). Bài tiết dịch phổi bào thai Quan sát đầu tiên dẫn đến sự hiểu biết hiện nay về sản xuất dịch phổi bào thai xảy ra vào năm 1940, khi Jost và Policard1 cho thấy rằng dịch trong phổi bào thai xuất phát từ phổi, và không phải là dịch ối trẻ hít vào, như trước đây người ta đã nghĩ. Năm 1960, Adama2 và cộng sự chứng minh dịch phổi bào thai có nồng độ ion Cl- cao và sự di chuyển dịch vào trong phổi bào thai đang phát triển xảy ra do kết quả của sự vận chuyển các ion chủ động bởi tế bào biểu mô.3,4 Dịch phổi trong và ngay sau sanh Mặc dù sự bài tiết dịch vào trong phổi là cần thiết cho sự phát triển phổi bào thai, lượng dịch này phải được lấy đi sau sanh để giúp trẻ sơ sinh chuyển đổi từ kiểu thở dịch sang kiểu thở khí. Sự bài tiết dịch trong phổi bào thai giảm dần vào vài ngày cuối trước khi chuyển dạ nên lượng dịch trong phổi giảm nhẹ. Vì vậy, hàm lượng nước trong phổi trẻ sanh non tháng nhiều hơn trẻ sanh đủ tháng khoảng 25% và súc vật sanh mổ chưa chuyển dạ có nhiều nước trong phổi hơn súc vật sanh qua ngả âm đạo hoặc sanh mổ có chuyển dạ.5,6 Đo lượng nước trong phổi thỏ con mới sanh, Aherne và Dawkins7 kết luận rằng dịch trong phổi bắt đầu chuyển dịch ngay lập tức sau sanh và hầu như hết sạch sau 2 giờ. Nhận xét sanh mổ làm chậm hấp thu dịch phế nang8 cho thấy chuyển dạ đóng vai trò quan trọng trong tiến trình này. Các dữ liệu hiện nay cho thấy việc hấp thu dịch phổi bào thai là một tiến trình phức tạp chứ không phải đơn thuần do phổi trẻ được “ép” khi trẻ sanh qua ngã âm đạo. Bộ máy tế bào trong vận chuyển Na biểu mô và biểu hiện sau sanh Các kênh ion thấm Na+ cho phép ion đi ngang qua màng lipid bào tương, dòng ion Na+ di chuyển theo khuynh độ nồng độ vào trong tế bào (khuynh độ nồng độ của Na+ ở trong tế bào thấp hơn dịch ngoài tế bào 10 lần: 10 so với 135 mM). Sự vận chuyển có định hướng của Na+ kéo 54 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 theo Cl- và nước di chuyển thụ động qua con đường cạnh tế bào.9 Kênh Na+ biểu mô (Epithelial Na+ channel, ENaC) có vai trò quan trọng trong vận chuyển Na+ tại biểu mô phổi. Hậu quả trên lâm sàng của chậm hấp thu dịch phế nang Chậm hấp thu dịch phổi lúc sanh làm phế nang ngập dịch và gây bất tương xứng tỷ lệ thông khí/tưới máu, cuối cùng dẫn đến suy hô hấp sơ sinh. Sự biểu hiện ENaC được điều hòa theo sự phát triển của trẻ, với biểu hiện đỉnh điểm trong tế bào biểu mô phế nang đạt được ở tuổi thai đủ tháng. Do đó, trẻ sanh non tháng và non tháng muộn có biểu hiện ENaC thấp hơn, vì vậy sẽ dễ bị suy hô hấp. Các nghiên cứu ở người cho thấy cơ chế vận chuyển chưa trưởng thành góp phần gây cơn thở nhanh thoáng qua và bệnh màng trong.10 Cơn thở nhanh thoáng qua Cơn thở nhanh thoáng qua (Transient tachy- pnea of the newborn, TTN) là nguyên nhân gây suy hô hấp sớm thường gặp nhất trong giai đoạn ngay sau sanh ở trẻ sanh non muộn và trẻ gần đủ tháng, do chậm hấp thu dịch phế nang sau sanh. Khoảng 33 đến 50% trẻ sơ sinh suy hô hấp có diễn tiến lâm sàng phù hợp với chẩn đoán TTN. Tần suất TTN sẽ cao hơn nếu trẻ kèm sanh mổ, phái tính nam, tiền căn mẹ bị suyễn, đái tháo đường và tuần tuổi thai thấp.11 Sự hoạt hóa thụ thể β-adrenergic ADRB1 và ADBR2, nằm tại tế bào phế nang loại II, kích thích lấy Na qua biểu mô bằng cách gia tăng biểu hiện của ENaC. Trẻ sanh non muộn có thể bị thiếu surfactant, kết hợp với chậm hấp thu dịch phế nang, dẫn đến suy hô hấp nặng hơn. Trẻ non tháng muộn sanh mổ chủ động và suy hô hấp Suy hô hấp sau sanh mổ chủ động ước tính khoảng 6,2%. Các tác giả đã báo cáo trẻ sanh non muộn (giữa 37 và 39 tuần tuổi thai) kèm tăng tỷ lệ TTN và RDS do non tháng, cao áp phổi tồn tại nặng, cần phải nhập khoa Hồi sức tăng cường sơ sinh, thở máy, thở NO, ECMO 55 THÔNG TIN CẬP NHẬT và tử vong. Mức độ suy hô hấp tỷ lệ nghịch với tuần tuổi thai. Do đó, trì hoãn sanh mổ chủ động đến 39 – 40 tuần giúp giảm tỷ lệ suy hô hấp.12 Người ta đã chứng minh biểu hiện của ENaC giảm thấp ở trẻ sanh mổ chủ động là do thiếu vi môi trường chỉ có được bằng chuyển dạ. 13 Tiếp cận trước và sau sanh để tăng cường hấp thu dịch phổi Glucocorticosteroid làm tăng số kênh Na sẵn có bằng cách giảm thoái biến ENaC. Stutchfield và cộng sự chứng minh rằng hai liều Betamethasone được tiêm 48 giờ trước sanh mổ cải thiện hấp thu dịch phế nang, giúp giảm tỷ lệ suy hô hấp.14 Mặc dù TTN là bệnh cảnh lâm sàng có thể tự giới hạn và chỉ cần hỗ trợ hô hấp đơn giản, nó cũng kèm gia tăng thời gian nằm viện của trẻ, tăng chi phí điều trị và đôi khi dẫn đến các biến chứng nặng (“TTN ác tính”) cần thở máy. Kết luận Dịch phổi quan trọng giúp phổi phát triển nhưng cần được hấp thu sau sanh để cho phép sự chuyển tiếp sang cuộc sống sau sanh. Sự hấp thu dịch phổi thực hiện bởi sự hấp thu Na+ qua ENaC. Sự biểu hiện ENaC suy giảm đưa đến suy hô hấp ở trẻ gần đủ tháng và sanh non muộn. Chuyển dạ đóng vai trò quan trọng trong hấp thu dịch phế nang lúc sanh. Để phòng ngừa suy hô hấp sanh mổ, Hiệp Hội Sản phụ khoa Hoa kỳ đã khuyến cáo sanh mổ chủ động nên dự định thực hiện khi trẻ lớn hơn hoặc bằng 39 tuần, dựa trên ngày kinh chót hoặc chờ đến khi bà mẹ vào chuyển dạ. Tiêm Betamethasone trước sanh mổ chủ động giúp giảm tỷ lệ suy hô hấp trẻ sanh mổ. Tài liệu tham khảo 1. Jost PA, Policard A. Contribution experimentale a L’etude du developpement prenatal du poumon chez le lapin. Arch Anat Microsc Morphol Exp 1948; 37: 323–332. 2. Adams FH, Moss AJ, Fagan L. The tracheal fluid in the fetal lamb. Biol Neonate 1963; 5: 151–158. 3. Adamson TM, Boyd RDH, Platt HS, Strang LB. Composition of alveolar liquid in the foetal lamb. J Physiol (Lond) 1969; 204: 159–168. 4. Olver RE, Strang LB. Ion fluxes across the pulmonary epithelium and the secretion of lung liquid in the fetal lamb. J Physiol (Lond) 1974; 241: 327–357. 5. Bland RD, Bressack MA, McMillan DD. Labor decreases the lung water content of newborn rabbits. Am J Obstet Gynecol 1979; 135: 364–367. 6. Bland RD. Dynamics of pulmonary water before and after birth. Acta Paediatr Scand Suppl 1983; 305: 12–20. 7. Aherne W, Dawkins MJ. The removal of fluid from the pulmonary airways after birth in the rabbit, and the effect of this on prematurity and pre-natal hypoxia. Biol Neonat 1964; 7: 214–229. 8. Adams FH, Yanagisawa M, Kuzela D, Martinek H. The disappearance of fetal lung fluid following birth. J Pediatr 1971; 78(5): 837–843. 9. Matthay MA, Folkesson HG, Clerici C. Lung epithelial fluid transport and the resolution of pulmonary edema. Physiol Rev 2002; 82(3): 569– 600. 10. O’Brodovich H. Immature epithelial Na+ channel expression is one of the pathogenic mechanisms leading to human neonatal respiratory distress syndrome. Proc Assoc Am Physicians 1996; 108(5): 345–355. 11. Guglani L, Lakshminrusimha S, Ryan RM. Transient tachypnea of the newborn. Pediatr Rev 2008; 29(11): e59–e65. 12. Jain L, Eaton DC. Physiology of fetal lung fluid clearance and the effect of labor. Semin Perinatol 2006; 30(1): 34–43. 13. Helve O, Andersson S, Kirjavainen T, Pitkanen OM. Improvement of lung compliance during postnatal adaptation correlates with airway sodium transport. Am J Respir Crit Care Med 2006; 173(4): 448–452. 14. Stutchfield P, Whitaker R, Russell I. Antenatal betamethasone and incidence of neonatal respiratory distress after elective caesarean section: pragmatic randomized trial. Br Med J 2005; 331(7518): 662 56 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 Tổng quan dịch tễ học tiền sản giật Nguyễn Hữu Trung*, Nguyễn Duy Tài*, Võ Minh Tuấn*. * Bộ môn Phụ sản - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Tiền sản giật chiếm 2-8% các thai kỳ và các rối loạn tăng huyết áp do thai kỳ chiếm 5-10% thai kỳ. Các yếu tố nguy cơ và bảo vệ của tiền sản giật được ghi nhận là các yếu tố về tiền sử gia đình,tiếp xúc với tinh trùng, mẹ hút thuốc lá, tình trạng nội khoa trước khi mang thai (như tăng huyết áp, đái tháo đường) và các yếu tố khác như số lần sanh, mẹ lớn tuổi. Epidemiology of preeclampsia Preeclampsia complicates 2-8% of pregnancies. All hypertensive disorders affect about 5 to 10% of pregnancies. The risk and protective factors of preeclampsia are familial factors, sperm exposure, maternal smoking, preexisting medical conditions (such as hypertension, diabetes mellitus), and other factors such as multiparity, advanced maternal age. Đặt vấn đề Tiền sản giật, ngày nay được biết đến như là một tình trạng rối loạn đa cơ quan trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 2-8% ở phương Tây và 5% các trường hợp mang thai lần đầu tiên.1 Mặc dù tiền sản giật và sản giật là vấn đề sức khỏe quan trọng ở các nước phát triển, hậu quả của chúng tại các nước đang phát triển khá nặng nề. Từ 10 đến 15% các ca tử vong mẹ được quy cho tiền sản giật, trong đó 99% các trường hợp này xảy ra ở các nước đang phát triển.2 Mặc dù y học hiện đại đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, nguyên nhân chính xác của tiền sản giật vẫn chưa được xác định. Cách điều trị duy nhất hiện nay vẫn là lấy thai và nhau thai ra khỏi cơ thể người mẹ càng sớm càng tốt. Hiện nay, các nhà lâm sàng vẫn chưa có phương pháp hiệu quả nào để tiên lượng khả năng diễn tiến đến tiền sản giật trên các thai phụ. Việc xác định được nhóm thai phụ nguy cơ cao bị tiền sản giật và các yếu tố làm tăng hay giảm nguy cơ căn bệnh này rất quan trọng trong việc nhận ra các thai kỳ nguy cơ cao và những can thiệp thích hợp trong dự phòng tiền sản giật. Tỷ lệ tiền sản giật Các rối loạn tăng huyết áp thai kỳ chiếm khoảng 5-10% tổng số các trường hợp mang thai.2 Tổ chức Y tế Thế giới đã xác định tăng huyết áp là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ ở các nước công nghiệp phát triển, chiếm 16% các ca tử vong.3 Tại châu Phi và châu Á, tăng huyết áp chiếm 9% tử vong mẹ, trong khi đó, ở châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, con số này là hơn 25%.3 Hàng năm, các rối loạn cao huyết áp trong thai kỳ là nguyên nhân dẫn đến 25.000 ca tử vong mẹ ở châu Phi, 22.000 ca tử vong mẹ ở châu Á, 3.800 ca tử vong mẹ ở Mỹ Latinh và vùng Caribbean và 150 ca tử vong mẹ ở các nước công nghiệp hóa. Do thiếu các tiêu chí chẩn đoán chuẩn hóa trong dữ liệu dân số, rất khó đạt được các ước lượng chính xác về tỷ lệ mắc tiền sản giật.4,5 Tiền sản giật chiếm khoảng 3% các trường hợp có thai tại Mỹ.6,7 Tại Úc, theo 57 THÔNG TIN CẬP NHẬT báo cáo của một nghiên cứu dựa trên dữ liệu dân số từ năm 2000 đến 2008, tỷ lệ này là 3,3%.8 Các báo cáo từ các nước công nghiệp hóa khác cũng cho thấy tỷ lệ này dao động từ 3 đến 5%, theo các nghiên cứu tiến cứu tại Wellington, New Zealand (3,3%)9 và các nghiên cứu dựa trên các dữ liệu đăng ký sinh tại Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy (3,0%, 4,5%, và 3,0%).4,10,11 Riêng tại Việt Nam, năm 2004, tỷ lệ tiền sản giật thay đổi từ 3% đến 5% tùy theo nghiên cứu.12,15 Các yếu tố làm tăng nguy cơ tiền sản giật Sanh con so Yếu tố nguy cơ phổ biến nhất của tiền sản giật là sanh con so, yếu tố này đã được chứng minh làm tăng nguy cơ tiền sản giật gấp 3 lần. Tuy nhiên, hiệu quả bảo vệ của việc đã từng sinh con sẽ bị mất đi, khi người mẹ có thai lần tiếp theo với người phối ngẫu khác, hoặc khi có một khoảng thời gian dài giữa hai lần mang thai. Điều này đã dẫn đến giả thuyết cho rằng việc tiếp xúc với kháng nguyên từ người cha trước đây có vai trò bảo vệ đối với tiền sản giật. Lý thuyết này đã được củng cố bởi một nghiên cứu trên các phụ nữ chưa sinh, trong đó nguy cơ diễn tiến tới tiền sản giật ở những phụ nữ đã từng có con với cùng một người phối ngẫu chỉ bằng một nửa những người phụ nữ sinh con với một đối tác khác. Giảm tiếp xúc với kháng nguyên từ cha, hay tiếp xúc hạn chế với tinh trùng của họ cũng là một yếu tố nguy cơ tiền sản giật. Phụ nữ có thai sau một thời gian ngắn quan hệ tình dục, hoặc bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như bơm tinh trùng không từ người phối ngẫu hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương trứng cũng có nguy cơ cao bị tiền sản giật.16 Béo phì Béo phì là một yếu tố nguy cơ quan trọng khác của tiền sản giật. Tăng chỉ số khối cơ thể hoặc tăng chu vi bụng trước khi mang thai hoặc trong thời kỳ đầu mang thai cũng là các yếu tố nguy cơ đã được chứng minh.17 Nguy cơ mẹ bị tiền sản giật gia tăng theo độ nặng của bệnh béo phì, kết quả này vẫn được duy trì sau khi đã kiểm soát các yếu tố có thể gây nhiễu khác.18 Điều này có thể có liên quan đến trạng thái chuyển hóa thay đổi kết hợp với béo phì chứ không chỉ do béo phì đơn thuần. Béo phì làm thay đổi các giá trị lipid huyết tương, thể hiện qua sự gia tăng nồng độ cholesterol, LDL và giảm nồng độ HDL huyết thanh so với ở phụ nữ mang thai không bị béo phì. Mô hình rối loạn lipid máu giống như “Hội chứng chuyển hóa” được mô tả trong dân số không mang thai.19 Béo phì cũng liên quan với tình trạng viêm mạn tính ở mức độ nhẹ, một tình trạng phổ biến bên cạnh các yếu tố nguy cơ khác của bệnh này. Đái tháo đường Mối liên quan giữa bệnh lý đái tháo đường trước khi mang thai và tiền sản giật đã được công nhận, và phụ nữ có tiền căn đái tháo đường có nguy cơ bị tiền sản giật tăng đến 4 lần so với dân số chung. Cải thiện kiểm soát đường huyết trong giai đoạn sớm của thai kỳ có liên quan với giảm nguy cơ dị tật bẩm sinh và sẩy thai, nhưng nguy cơ bị tiền sản giật có chịu ảnh hưởng tương tự hay không vẫn chưa được xác định. Trong một nghiên cứu được báo cáo năm 2006 trên 290 phụ nữ mang thai bị đái tháo đường týp 1, dựa trên kết quả phân tích đơn biến, tác giả Temple và cộng sự10 đã báo cáo rằng HbA1c, một chỉ số giúp kiểm soát đường huyết lâu dài, ở tuần thứ 12 và tuần 24 có liên quan với tiền sản giật. Tuy nhiên, chăm sóc trước khi mang thai để đạt mục tiêu kiểm soát đ ... ng ảnh hưởng đến sự sản xuất Prostacyclin, có khả năng giúp Nguồn: Theo Duckitt và cộng sự.22 59 THÔNG TIN CẬP NHẬT ngăn ngừa sự hình thành tiền sản giật.23 Hướng dẫn của Viện Quốc gia Vương quốc Anh về sức khỏe và điều trị lâm sàng đề nghị điều trị dự phòng Aspirin từ 12 tuần thai kỳ ở những phụ nữ có nguy cơ cao, những người đang lần lượt được xác định có bệnh tăng huyết áp mạn tính, đái tháo đường, bệnh thận mạn tính và những người có bệnh tự miễn như lupus ban đỏ hệ thống.24 Aspirin dự phòng cũng được khuyến khích ở phụ nữ với 2 hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ trung bình ( con so, tuổi > 40, chỉ số BMI > 35 kg/m², tiền căn gia đình mắc tiền sản giật và song thai). Aspirin được xem là an toàn trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba của thai kỳ25 nhưng độ an toàn của nó trong ba tháng đầu tiên vẫn chưa được rõ. Vì vậy, cần có thêm các nghiên cứu đánh giá sự an toàn của Aspirin trong giai đoạn đầu của thai kỳ do các cơ chế sinh lý bệnh cơ bản được cho là bắt đầu sớm trong ba tháng đầu thai kỳ. Heparin Một phương thức điều trị thay thế đã được nghiên cứu trong dự phòng tiền sản giật là chất kháng đông máu Heparin. Nhau thai trong tiền sản giật thường có các đặc điểm của hiện tượng thiếu máu cục bộ, bao gồm cả nhồi máu màng rụng và hoại tử gai nhai. Thrombophilias, rối loạn đông máu liên quan huyết khối, càng ngày càng được chứng minh là có liên quan với cơ chế bệnh sinh tiền sản giật. Hội chứng kháng phospholipid có liên quan với mức tăng 9 lần nguy cơ tương đối của tiền sản giật.22 Trong một nghiên cứu trên 172 phụ nữ mang thai có tiền căn tiền sản giật, 60 người (35%) đã được tìm thấy có hình thành huyết khối. Những phụ nữ này cũng tăng nguy cơ tái phát tiền sản giật ở lần mang thai tiếp theo (47% so với 26%, p = 0,01).26 Một số ít nghiên cứu đã khảo sát việc sử dụng heparin trong phòng ngừa tiền sản giật. Một nghiên cứu báo cáo rằng trong những phụ nữ có tiền căn tiền sản giật nhưng không có tắc nghẽn mạch máu do huyết khối, nguy cơ tiền sản giật nặng hoặc có kết cục liên quan nhau thai nghiêm trọng (trọng lượng lúc sinh < bách phân vị thứ 5, nhau bong non) giảm từ 24% trong nhóm đối chứng xuống 5,5% ở nhóm dùng heparin.27 Tuy nhiên, khi nghiên cứu về tiền sản giật đơn thuần, kết quả không khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu khác khảo sát sử dụng heparin đơn lẻ hoặc kết hợp với Aspirin còn quá ít để có thể áp dụng kết quả đối với dân số mang thai chung. Bổ sung canxi Tầm quan trọng của các đặc điểm nền trên phụ nữ mang thai đang được nghiên cứu đã được chứng minh sâu hơn nữa trong nghiên cứu thử nghiệm sử dụng canxi để ngăn ngừa tiền sản giật (CPEP).28 Hơn 4500 phụ nữ chưa có con khỏe mạnh, tuổi thai 13-21 tuần, được phân ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm bổ sung 2g canxi hàng ngày hoặc giả dược. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ tiền sản giật giữa 2 nhóm (6,9% ở nhóm Canxi, 7,3% ở nhóm dùng giả dược), tăng huyết áp thai kỳ, trẻ sơ sinh nhỏ so với tuổi thai, sinh non, thai lưu hoặc tử vong sơ sinh. Do đó, người ta vẫn không chắc chắn liệu bổ sung canxi ở những người có một chế độ ăn uống bình thường là có lợi. Một tổng quan hệ thống gần đây của Cục Quản lý thực phẩm và dược Hoa Kỳ (FDA) đã kết luận rằng không có mối liên quan giữa việc bổ sung canxi và tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật.29 Hút thuốc lá Hút thuốc lá đã được chứng minh có ảnh hưởng xấu đến thai kỳ. Hút thuốc lá ảnh hưởng trên bà mẹ qua các mối liên quan với bệnh phổi mạn tính, sinh non và nhau bong non. Đối với thai và nhau thai, hút thuốc lá có liên quan với sự gia tăng nguy cơ thai chết lưu, hạn chế tăng trưởng trong tử cung (IUGR), nhau tiền đạo và sẩy thai tự phát. 60 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 Tuy nhiên, trong những năm qua hút thuốc lá lại luôn được chứng minh có liên quan với giảm nguy cơ tiền sản giật. Trong một nghiên cứu hồi cứu tổng quan hệ thống, những người hút thuốc có tỷ lệ tiền sản giật thấp hơn 32% so với người không hút thuốc.30 Hội Di truyền học Tiền sản giật (GOPEC Genetics of Pre-eclampsia) đã phân tích trên 1000 phụ nữ bị tiền sản giật vừa và nặng trong một nghiên cứu đa trung tâm, và thực hiện một phân tích phụ để phân tích mối quan hệ giữa hút thuốc lá và tiền sản giật. 9% phụ nữ bị tiền sản giật thừa nhận là vẫn hút thuốc, so với tỷ lệ hút thuốc trong tổng dân số mang thai ở Anh là 27%. Ở phụ nữ bị tiền sản giật, hút thuốc lá gây tăng gấp 2 lần nguy cơ sinh non ở tuổi thai nhỏ hơn 34 tuần, sinh con với cân nặng lúc sinh dưới bách phân vị thứ 3, hoặc của bất kỳ kết cục bất lợi nào. Ngoài ra nguy cơ diễn tiến đến sản giật tăng gấp năm lần ở người hút thuốc so với người không hút thuốc. Những dữ liệu này gợi ý rằng những người hút thuốc ít có khả năng bị tiền sản giật hơn người không hút thuốc, nhưng nếu diễn tiến đến tiền sản giật, họ sẽ ở dạng nặng hơn của bệnh. Câu hỏi vẫn còn, tại sao người hút thuốc ít có khả năng bị tiền sản giật hơn người không hút thuốc? Một giả thuyết do GOPEC đề xuất là nhu cầu của thai nhi trong giai đoạn sau thai kỳ kích hoạt sự khởi phát của tiền sản giật, và do người hút thuốc có xu hướng sinh con nhẹ cân, nhau thai ít bị tăng gánh nên làm giảm nguy cơ tiền sản giật.31 Lối sống Một nghiên cứu hồi cứu năm 2003 trên 201 phụ nữ bị tiền sản giật và 383 phụ nữ mang thai với huyết áp bình thường. Phụ nữ đã được hỏi theo bảng câu hỏi cấu trúc về loại hình, thời gian, tần số và cường độ tập thể dục cả trong khi mang thai và trong năm trước khi mang thai. Các tác giả đã báo cáo rằng nguy cơ bị tiền sản giật ở phụ nữ chăm tập thể dục thường xuyên trong vòng 20 tuần đầu của thai kỳ giảm 35% (95% CI 0,43-0,99) so với phụ nữ không tập luyện. Độ giảm nguy cơ này vẫn có ý nghĩa thống kê khi hiệu chỉnh về độ tuổi, chỉ số BMI, số lần mang thai và sinh nở, hút thuốc và chủng tộc. Nguy cơ tiền sản giật tỷ lệ nghịch với tần số và cường độ tập thể dục. Một phát hiện nữa là phụ nữ có tập thể dục thường xuyên trong các năm trước khi mang thai cũng giảm nguy cơ tiền sản giật tương tự những người tập luyện trong khi mang thai (OR 0.67, 95% CI 0,42- 1,08).32 Theo kết quả của việc hồi cứu tổng quan y văn, ACOG khuyến nghị rằng trong trường hợp không có biến chứng y khoa hoặc sản khoa, phụ nữ mang thai có thể tham gia tập thể dục vừa phải khoảng 30 phút mỗi ngày.33 Tương tự như vậy, các hướng dẫn của NICE khuyến cáo “bắt đầu hoặc tiếp tục một khóa học tập thể dục mức độ vừa phải không có liên quan với những kết cục bất lợi”.34 Các nghiên cứu tiến cứu có quy mô lớn hơn khảo sát cả kết cục trên mẹ lẫn thai nhi cần được tiến hành trước khi bác sĩ có thể đưa ra hướng dẫn rõ ràng về loại hình cũng như thời gian tập thể dục tối ưu trong khi mang thai. Kết luận Tiền sản giật chiếm khoảng 2-8% thai kỳ, trong khi tất cả các rối loạn tăng huyết áp khác chiếm tỷ lệ 5-10% thai kỳ. Sự gia tăng tình trạng tăng huyết áp mạn, tăng huyết áp đơn thuần trong thai kỳ và tiền sản giật theo thời gian là kết quả của những thay đổi về đặc điểm của mẹ như tuổi của mẹ và cân nặng trước khi mang thai, trong khi tỷ lệ sản giật giảm xuống nhờ chương trình chăm sóc tiền sản được phổ biến rộng rãi và sử dụng các biện pháp điều trị dự phòng (ví dụ Magnesium sulphate). Các yếu tố quyết định đến tỷ lệ tiền sản giật bao gồm các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ, chẳng hạn như các yếu tố gia đình, tiếp xúc với tinh trùng, hút thuốc lá, tiền căn y khoa, số lượng thai, mẹ lớn tuổi và béo phì. 61 THÔNG TIN CẬP NHẬT Tài liệu tham khảo 1. R. A. North, L. M. McCowan, G. A. Dekker, L. Poston, E. H. Chan, A. W. Stewart, M. A. Black, R. S. Taylor, J. J. Walker, P. N. Baker, L. C. Kenny (2011) “Clinical risk prediction for pre-eclampsia in nulliparous women: development of model in international prospective cohort”. BMJ, 342, d1875. 2. L. Duley (2009) “The global impact of pre-eclampsia and eclampsia”. Semin Perinatol, 33, (3), 130-7. 3. K. S. Khan, D. Wojdyla, L. Say, A. M. Gulmezoglu, P. F. Van Look (2006) “WHO analysis of causes of maternal death: a systematic review”. Lancet, 367, (9516), 1066-74. 4. M. T. Lydon-Rochelle, V. L. Holt, V. Cardenas, J. C. Nelson, T. R. Easterling, (2005) “The reporting of pre-existing maternal medical conditions and complications of pregnancy on birth certificates and in hospital discharge data”. Am J Obstet Gynecol, 193, (1), 125-34. 5. A. K. Klemmensen, S. F. Olsen, C. M. Wengel, A. Tabor (2005) “Diagnostic criteria and reporting procedures for pre-eclampsia: a national survey among obstetrical departments in Denmark”. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 123, (1), 41-5. 6. E. V. Kuklina, C. Ayala, W. M. Callaghan (2009) “Hypertensive disorders and severe obstetric morbidity in the United States”. Obstet Gynecol, 113, (6), 1299-306. 7. A. B. Wallis, A. F. Saftlas, J. Hsia, H. K. Atrash (2008) “Secular trends in the rates of preeclampsia, eclampsia, and gestational hypertension, United States, 1987-2004”. Am J Hypertens, 21, (5), 521- 6. 8. C. Thornton, H. Dahlen, A. Korda, A. Hennessy (2013) “The incidence of preeclampsia and eclampsia and associated maternal mortality in Australia from population-linked datasets: 2000- 2008”. Am J Obstet Gynecol, 208, (6), 476 e1-5. 9. P. Stone, D. Cook, J. Hutton, G. Purdie, H. Murray, L. Harcourt (1995) “Measurements of blood pressure, oedema and proteinuria in a pregnant population of New Zealand”. Aust N Z J Obstet Gynaecol, 35, (1), 32-7. 10. B. L. Dahlstrom, M. E. Engh, G. Bukholm, P. Oian (2006) “Changes in the prevalence of pre-eclampsia in Akershus County and the rest of Norway during the past 35 years”. Acta Obstet Gynecol Scand, 85, (8), 916-21. 11. S. Hernandez-Diaz, S. Toh, S. Cnattingius (2009) “Risk of pre-eclampsia in first and subsequent pregnancies: prospective cohort study”. BMJ, 338, b2255. 12. Dương Thị Bế (2004) Nghiên cứu sự tác động của một số các yếu tố cận lâm sàng và lâm sàng trong nhiễm độc thai nghén tại Bệnh Viện Phụ Sản Trung ương trong 2 năm 2003 -2004. Trường đại học Y Hà Nội. 13. Lê Thị Mai (2004) Nghiên cứu tình hình sản phụ bị nhiễm độc thai nghén tại BVPSTW trong năm 2003. Trường Đại Học Y Hà Nội. 14. Ngô Văn Tài (2001) Một số yếu tố tiên lượng trong nhiễm độc thai nghén. Trường Đại học Y Hà Nội. 15. Nguyễn Cận, Phan Trường Duyệt (1990) Nhận xét về ảnh hưởng của một số yếu tố ngoại lai đến rối loạn tăng huyết áp trong thời kỳ có thai. Viện BVBMTSS. 16. L. C. Chappell, P. Seed, S. Enye, A. L. Briley, L. Poston, A. H. Shennan (2010) “Clinical and geographical variation in prophylactic and therapeutic treatments for pre-eclampsia in the UK”. BJOG, 117, (6), 695-700. 17. S. A. Hopkins, J. C. Baldi, W. S. Cutfield, L. McCowan, P. L. Hofman (2010) “Exercise training in pregnancy reduces offspring size without changes in maternal insulin sensitivity”. J Clin Endocrinol Metab, 95, (5), 2080-8. 18. D. M. Jensen, P. Damm, P. Ovesen, L. Molsted- Pedersen, H. Beck-Nielsen, J. G. Westergaard, M. Moeller, (2010) “Micro-albuminuria, preeclampsia, and preterm delivery in pregnant women with type 1 diabetes: results from a nationwide Danish study”. Diabetes Care, 33, (1), 90-4. 19. K. Joseph, S. Liu, K. Demissie, S. W. Wen, R. W. Platt, C. V. Ananth, S. Dzakpasu, R. Sauve, A. C. Allen, M. S. Kramer (2003) “A parsimonious explanation for intersecting perinatal mortality curves: understanding the effect of plurality and of parity”. BMC Pregnancy Childbirth, 3, (1), 3. 20. R. C. Temple, V. Aldridge, K. Stanley, H. R. Murphy (2006) “Glycaemic control throughout pregnancy and risk of pre-eclampsia in women with type I diabetes”. BJOG, 113, (11), 1329-32. 21. K. S. Joseph (2009) “Commentary: exegesis of effect modification - biological or spurious?”. Paediatr Perinat Epidemiol, 23, (5), 417-20; author reply 421-3. 22. K. Duckitt, D. Harrington (2005) “Risk factors for pre-eclampsia at antenatal booking: systematic review of controlled studies”. BMJ, 330, (7491), 565. 23. A. P. MacKay, C. J. Berg, H. K. Atrash (2001) “Pregnancy-related mortality from preeclampsia and eclampsia”. Obstet Gynecol, 97, (4), 533-8. 24. C. Visintin, M. A. Mugglestone, M. Q. Almerie, L. M. Nherera, D. James, S. Walkinshaw (2010) “Management of hypertensive disorders during pregnancy: summary of NICE guidance”. BMJ, 341, c2207. 62 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014 25. G. A. Dekker, B. M. Sibai (1993) “Low-dose aspirin in the prevention of preeclampsia and fetal growth retardation: rationale, mechanisms, and clinical trials”. Am J Obstet Gynecol, 168, (1 Pt 1), 214-27. 26. F. Facchinetti, L. Marozio, T. Frusca, E. Grandone, P. Venturini, G. L. Tiscia, S. Zatti, C. Benedetto (2009) “Maternal thrombophilia and the risk of recurrence of preeclampsia”. Am J Obstet Gynecol, 200, (1), 46 e1-5. 27. E. Rey, P. Garneau, M. David, R. Gauthier, L. Leduc, N. Michon, F. Morin, C. Demers, S. R. Kahn, L. A. Magee, (2009) “Dalteparin for the prevention of recurrence of placental-mediated complications of pregnancy in women without thrombophilia: a pilot randomized controlled trial”. J Thromb Haemost, 7, (1), 58-64. 28. Richard J Levine, Joy R Esterlitz, Elizabeth G Raymond, Rebecca DerSimonian, John C Hauth, L Ben Curet, Baha M Sibai, Patrick M Catalano, Cynthia D Morris, John D Clemens (1996) “Trial of Calcium for Preeclampsia Prevention (CPEP): rationale, design, and methods”. Controlled clinical trials, 17, (5), 442-469.a 29. P. R. Trumbo, K. C. Ellwood (2007) “Supplemental calcium and risk reduction of hypertension, pregnancy-induced hypertension, and preeclampsia: an evidence-based review by the US Food and Drug Administration”. Nutr Rev, 65, (2), 78-87. 30. A. Conde-Agudelo, F. Althabe, J. M. Belizan, A. C. Kafury-Goeta (1999) “Cigarette smoking during pregnancy and risk of preeclampsia: a systematic review”. Am J Obstet Gynecol, 181, (4), 1026-35. 31. F. B. Pipkin (2008) “Smoking in moderate/ severe preeclampsia worsens pregnancy outcome, but smoking cessation limits the damage”. Hypertension, 51, (4), 1042-6. 32. T. K. Sorensen, M. A. Williams, I. M. Lee, E. E. Dashow, M. L. Thompson, D. A. Luthy (2003) “Recreational physical activity during pregnancy and risk of preeclampsia”. Hypertension, 41, (6), 1273-80. 33. ACOG Committee Obstetric Practice (2002) “ACOG Committee opinion. Number 267, January 2002: exercise during pregnancy and the postpartum period”. Obstet Gynecol, 99, (1), 171- 3. 34. Sara Kenyon, Roz Ullman, Rintaro Mori, Martin Whittle (2007) “Care of healthy women and their babies during childbirth: summary of NICE guidance”. BMJ, 335, (7621), 667-668.
File đính kèm:
suy_ho_hap_sau_sanh_mo_chu_dong_chua_chuyen_da.pdf