Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020

Đặt vấn đề: Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ (Mild Cognitive Impairment: MCI) là biểu hiện của một

trong những tình trạng sức khỏe tàn tật thường gặp nhất ở người cao tuổi và được coi là một chuyển đoạn phân

kỳ giữa chức năng nhận thức bình thường và sa sút trí tuệ. Suy dinh dưỡng (SDD) ở người cao tuổi liên quan

đến một số hội chứng lão khoa bao gồm suy giảm nhận thức. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định mối

quan hệ giữa suy giảm nhận thức với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở

người cao tuổi đến khám ngoại trú tại Bệnh viện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận năm 2020.

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020

Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi đến khám ngoại trú tại một bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Bình Thuận năm 2020
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 95
SUY GIẢM NHẬN THỨC MỨC ĐỘ NHẸ VÀ MỐI LIÊN QUAN 
VỚI TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
ĐẾN KHÁM NGOẠI TRÚ TẠI MỘT BỆNH VIỆN TUYẾN HUYỆN 
CỦA TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2020 
Nguyễn Thị Kim Vệ1, Võ Văn Tâm2, Phạm Thị Lan Anh2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ (Mild Cognitive Impairment: MCI) là biểu hiện của một 
trong những tình trạng sức khỏe tàn tật thường gặp nhất ở người cao tuổi và được coi là một chuyển đoạn phân 
kỳ giữa chức năng nhận thức bình thường và sa sút trí tuệ. Suy dinh dưỡng (SDD) ở người cao tuổi liên quan 
đến một số hội chứng lão khoa bao gồm suy giảm nhận thức. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định mối 
quan hệ giữa suy giảm nhận thức với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy giảm nhận thức mức độ nhẹ và mối liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng ở 
người cao tuổi đến khám ngoại trú tại Bệnh viện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận năm 2020. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang khảo sát từ tháng 01/2020 đến 
tháng 03/2020 trên 236 người cao tuổi đến khám ngoại trú tại bệnh viện Tuy Phong Chúng tôi thu thập thông 
tin bằng cách sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn, qua phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt và tra cứu hồ sơ bệnh án. 
Kết quả: Sử dụng thang điểm MoCA đánh giá nhận thức của người cao tuổi, có 79,7% (188/236) người bị 
suy giảm nhận thức nhẹ. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi là 14,4% (34/236) và 25,9% (61/236) có nguy cơ 
suy dinh dưỡng (theo phương pháp MNA-SF). Những người bị suy giảm nhận thức nhẹ có tình trạng suy dinh 
dưỡng hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng khá cao. 
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy suy giảm nhận thức mức độ nhẹ có mối liên quan với tình trạng suy dinh 
dưỡng. Chính vì thế, việc xác định sớm tình trạng dinh dưỡng trên những người có suy giảm về nhận thức là rất 
quan trọng nhằm cải thiện tình trạng suy giảm nhận thức của họ, từ đó cải thiện sức khoẻ chun. 
Từ khóa: suy giảm nhận thức nhẹ, suy dinh dưỡng, người cao tuổi 
ABSTRACT 
MILD COGNITIVE IMPAIRMENT AMONG THE ELDERLY AND ITS ASSOCIATION 
WITH MALNUTRITIONAL STATUS AT OUTPATIENT CLINIC IN A DISTRICT HOSPITAL 
IN BINH THUAN PROVINCE 2020 
Nguyen Thi Kim Ve, Vo Van Tam, Pham Thi Lan Anh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 95 - 102 
Background: Mild cognitive impairment (Mild Cognitive Impairment, MCI) is one of the most 
disabling health conditions in the elderly. MCI is a divergence between normal cognitive function and 
dementia. Malnutrition in the elderly has been linked to a number of geriatric syndromes, including 
cognitive impairment. The purpose of this study is to examine the relationship between cognitive impairment 
and malnutrition in the elderly. 
Objectives: To determine cognitive impairment status and its association with the malnutrition status 
among the eldely who visited the out-patient clinic in Tuy Phong Hospital - Binh Thuan province, 2020 
1Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
2Bộ môn Dinh dưỡng – Thực phẩm, Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Võ Văn Tâm ĐT: 0376545712 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 96
Method: A cross-sectional study was conducted in 236 the elderly people in Tuy Phong hospital from 
January to March 2020. We used a questionnaire and interviewed face-to-face to collect data and noted 
demographic data from medical records. 
Results: The proportion of MCI was 79.7% (188/236) (using MoCA). There was 14.4% (34/236) 
malnutrition (using MNA-SF) and 25.9% (61/236) at risk malnutrition. The elderly with MCI were at higher 
risk of malnitriton or higher malnutrition status by MNA-SF. 
Conclusion: Our study suggests that MCI is associated with the risk of malnutrition. It is important to 
detect malnutritional status early in people with cognitive impairment. 
Keywords: mild cognitive impairment, malnutrition, the elder 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dân số thế giưới đang già đi nhanh chóng, 
cùng với đó tỉ lệ suy giảm nhận thức ở người cao 
tuổi ngày càng tăng nhanh, hơn 16 triệu người 
Hoa Kỳ hiện đang sống với suy giảm nhận 
thức(1). Suy giảm nhận thức mức độ nhẹ (MCI) là 
biểu hiện của một trong những tình trạng sức 
khỏe tàn tật nhất ở người cao tuổi (NCT). Các 
nghiên cứu gần đây trên thế giới đã ước tính tỉ lệ 
suy giảm nhận thức nhẹ ở người cao tuổi từ 10 
đến 20%. Trong đó, có 32% mắc suy giảm nhận 
thức nhẹ tiến triển thành mất trí nhớ trong vòng 
5 năm(2). Và suy dinh dưỡng (SDD) là một vấn 
đề thường gặp ở những người lớn tuổi, dẫn đến 
những biến chứng nặng như suy giảm hệ miễn 
dịch, mất cơ bắp, mất tính độc lập và tỉ lệ tử 
vong tăng lên(3). Có một số nghiên cứu cho thấy 
tình trạng dinh dưỡng, cụ thể là sự hiện diện suy 
dinh dưỡng hoặc nguy cơ suy dinh dưỡng có 
liên quan đến nhận thức kém ở người cao tuổi 
trong nhiều cơ sở khác nhau(4). 
Đánh giá nhận thức qua thang điểm MoCA 
là một bài kiểm tra 30 câu hỏi ngắn, tương đối 
đơn giản, với độ nhạy và độ đặc hiệu cao lần 
lượt là 100%, 78%. MoCA giúp các chuyên gia y 
tế xác định nhanh chóng liệu một người có chức 
năng nhận thức bất thường hay không và có thể 
giúp dự đoán chứng mất trí ở những người bị 
suy giảm nhận thức nhẹ (MCI)(5). 
Trên Thế giới đã có nhiều nghiên cứu cho 
thấy có mối liên quan giữa suy giảm nhận thức 
nhẹ với tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao 
tuổi. Bằng chứng từ một nghiên cứu tổng hợp 
cho thấy, can thiệp dinh dưỡng bao gồm bổ 
sung dinh dưỡng đường uống có thể giúp cải 
thiện tình trạng dinh dưỡng, ảnh hưởng tích 
cực đến hoạt động nhận thức(3). Chính vì lí do 
đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Suy giảm 
nhận thức và mối liên quan với tình trạng dinh 
dưỡng ở người cao tuổi đến khám tại một 
bệnh viện tuyến huyện, tỉnh Bình Thuận năm 
2020” để từ đó đưa ra các can thiệp dinh 
dưỡng có thể tập trung vào những người cao 
tuổi có nhận thức suy giảm nhằm cải thiện 
hiệu quả điều trị và chi phí. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tại phòng khám Nội khoa bệnh viện Tuy 
Phong, tỉnh Bình Thuận, chúng tôi trực tiếp 
phỏng vấn những bệnh nhân từ đủ 60 tuổi trở 
lên đến khám ngoại trú tại bệnh viện trong 
khoảng từ tháng 01/2020 đến tháng 03/2020. Bộ 
câu hỏi được chúng tôi chuẩn bị sẵn và chúng tôi 
sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện. 
Tiêu chí đưa vào 
Tất cả những người từ đủ 60 tuổi trở lên có 
hộ khẩu hoặc sinh sống tại huyện Tuy Phong, 
tỉnh Bình Thuận tối thiểu 6 tháng, đến khám tại 
bệnh viện Tuy Phong, thị trấn Liên Hương, 
huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. 
Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại ra 
Những người có bệnh lý tâm thần, thiểu 
năng trí tuệ không đủ khả năng trả lời. 
Những người khiếm thính, khiếm thị, không 
nói được. 
Những người bị các khuyết tật trên cơ thể 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 97
không thuận lợi cho đối tượng để tiến hành đo 
chỉ số nhân trắc. Các trường hợp đi đứng khó 
khăn hay không đi đứng được. 
Những người trả lời không đầy đủ các câu 
hỏi của hai thang đo MNA-SF và MoCA. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Công cụ và kỹ thuật thu thập dữ liệu 
Sau khi được giải thích và hiểu rõ mục tiêu 
nghiên cứu, đối tượng đồng ý tham gia ký tên 
vào văn bản đồng ý nghiên cứu (không ghi rõ họ 
tên) và được phỏng vấn trực tiếp qua bộ câu hỏi 
soạn sẵn. 
Bộ câu hỏi bao gồm 6 phần 
Phần A (A1- A3): số đo nhân trắc học của đối 
tượng nghiên cứu gồm: cân nặng (kg), chiều cao 
(m), BMI (kg/m2). 
Phần B (B1- B6): câu hỏi về đặc điểm dân số- 
xã hội của đối tượng nghiên cứu gồm: tuổi, giới, 
tôn giáo, trình độ học vấn, đối tượng chung sống, 
mức sống hiện tại. 
Phần C (C1- C8): câu hỏi về lối sống- thói 
quen gồm: hút thuốc lá, sử dụng rượu bia gồm 2 
câu hỏi, lượng nước uống mỗi ngày, thói quen 
ăn uống gồm 4 câu hỏi. 
Phần D (D1- D6): câu hỏi về tình trạng sức 
khỏe- bệnh lý gồm: hiện tại có đang mắc bệnh, 
liệt kê bệnh lý hiện mắc, hiện có sử dụng thuốc 
và số loại thuốc uống/ngày, chứng khó nuốt, vấn 
đề răng miệng. 
Phần E (E1- E6): câu hỏi trong bảng đánh giá 
dinh dưỡng đơn giản MNA-SF (Mini Nutrition 
Assessment- Short Form). 
Phần F (F1- F19): câu hỏi đánh giá suy giảm 
nhận thức nhẹ qua thang điểm MoCA (Montreal 
Cognitive Assessment). 
Đánh giá dinh dưỡng đơn giản MNA-SF (Mini 
Nutrition Assessment- Short Form) 
MNA-SF là một công cụ sàng lọc được sử 
dụng rộng rãi miễn phí, có độ nhạy 98%, độ đặc 
hiệu 100%, độ chính xác là 99% và đã được dịch 
sang 35 ngôn ngữ khác nhau và thang đo cũng 
đã được phiên dịch sang Tiếng Việt(6). Quá trình 
sàng lọc bao gồm 6 câu hỏi (Bảng 1). 
Bảng 1: Bảng câu hỏi 
Trong 3 tháng qua, ông/bà có ăn ít hơn vì ăn không 
ngon, khó tiêu, khó nhai hay khó nuốt? 
Ăn ít hơn nhiều 
Ăn ít hơn vừa phải 
Ăn uống bình thường (không giảm) 
0 điểm 
1 điểm 
2 điểm 
Trong 3 tháng qua, ông/bà có giảm cân không? 
Sụt cân nhiều hơn 3kg 
Không biết 
Sụt cân từ 1- 3kg 
Không giảm cân 
0 điểm 
1 điểm 
2 điểm 
3 điểm 
Vận động? 
Chỉ nằm sinh hoạt trên giường hoặc ghế (liệt giường) 
Có thể ra khỏi giường/ghế nhưng không ra khỏi nhà 
Có thể đi ra khỏi nhà (đi ra ngoài) 
0 điểm 
1 điểm 
2 điểm 
Trong 3 tháng qua, ông/bà có bị căng thẳng tâm lý hay 
bệnh cấp tính không? 
Có 
Không 
0 điểm 
2 điểm 
Ông/bà có đang bị các vấn đề thần kinh tâm thần 
không? 
Sa sút trí tuệ trầm trọng hoặc trầm cảm 
Sa sút trí tuệ nhẹ 
Không có vấn đề tâm lý 
0 điểm 
1 điểm 
2 điểm 
Chỉ số khối cơ thể (BMI)= trọng lượng (kg) / bình 
phương chiều cao (m
2
) 
BMI dưới 19 
BMI trong khoảng 19- dưới 21 
BMI trong khoảng 21- 23 
BMI hơn 23 
0 điểm 
1 điểm 
2 điểm 
3 điểm 
Chu vi bắp chân của ông/bà (đo ở chỗ rộng nhất sau 
khi cởi tất và ống quần) 
Chu vi nhỏ hơn 31cm 
Chu vi lớn hơn 31 cm 
0 điểm 
3 điểm 
Sau đó mã hóa thành biến số thứ tự, gồm 3 
giá trị: 
Từ 12- 14 điểm: tình trạng DD bình thường, 
Từ 8- 11 điểm: có nguy cơ suy dinh dưỡng, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 98
Dưới 8 điểm: bị suy dinh dưỡng. 
Đánh giá suy giảm nhận thức mức độ nhẹ qua thang 
điểm MoCA (Montreal Cognitive Assessment) 
MoCA được xem là một biện pháp sàng lọc 
được sử dụng rộng rãi miễn phí và đã được dịch 
sang 55 ngôn ngữ khác nhau và thang đo cũng 
đã được phiên dịch sang Tiếng Việt. Quá trình 
đánh giá bao gồm 30 câu hỏi ngắn, đo lường các 
khả năng trong tám lĩnh vực (7): 
Định hướng: Quản trị viên kiểm tra yêu cầu 
bạn nêu ngày, tháng, năm, ngày, địa điểm và 
thành phố. 
Bộ nhớ ngắn hạn/Nhớ lại bị trì hoãn: Năm từ 
được đọc, người làm bài kiểm tra được đọc lại và 
được yêu cầu lặp lại năm từ. 
Chức năng điều hành/Khả năng trực giác: 
Hai khả năng này được đánh giá thông qua bài 
kiểm tra Trails B, yêu cầu bạn vẽ một đường 
thẳng để sắp xếp chính xác các chữ cái và số 
xen kẽ (1-A, 2-B, v.v.) và thông qua một nhiệm 
vụ yêu cầu bạn để vẽ một bản sao của một 
hình khối. 
Khả năng ngôn ngữ: Nhiệm vụ này bao gồm 
lặp lại hai câu một cách chính xác và sau đó liệt 
kê tất cả các từ có thể được gọi lại bắt đầu bằng 
chữ "L". 
Trừu tượng: Bạn được yêu cầu giải thích hai 
món đồ giống nhau như xe lửa và xe đạp. 
Đặt tên động vật: Ba hình ảnh của động vật 
được hiển thị và cá nhân được yêu cầu đặt tên 
cho mỗi người. 
Chú ý: Người kiểm tra được yêu cầu lặp lại 
một loạt các số về phía trước và sau đó là một 
chuỗi khác nhau để đánh giá sự chú ý. 
Kiểm tra bản vẽ đồng hồ: yêu cầu người 
được đánh giá vẽ một chiếc đồng hồ đọc mười 
một giờ mười một. 
Tổng điểm MoCA (tối đa 30 điểm) là 
Từ 26 điểm trở lên: nhận thức bình thường. 
Dưới 26 điểm: suy giảm nhận thức nhẹ. 
Phương pháp phân tích số liệu 
Với các biến số định danh, chúng tôi sử dụng 
các số thống kê như tần số và tỉ lệ phần trăm để 
mô tả. Mối liên quan giữa tỷ lệ suy giảm nhận 
thức nhẹ theo MoCA với các đặc điểm là biến số 
nhị giá, danh định được kiểm định bằng phép 
kiểm chi bình phương/Fisher’s và mối liên quan 
với biến số thứ tự được kiểm định bằng phép 
kiểm chi bình phương khuynh hướng, với 
ngưỡng ý nghĩa p <0,05. 
Để kiểm tra mối liên quan giữa suy giảm 
nhận thức nhẹ với các biến định lượng rời rạc 
như: tuổi, số ly nước uống mỗi ngày, tổng số 
bệnh lý, số loại thuốc uống mỗi ngàychúng tôi 
sử dụng phép kiểm hồi quy logistic. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM số 77/HĐĐĐ, ngày 
16/01/2020. 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi đã phỏng vấn trực tiếp 236 đối 
tượng là người cao tuổi. 
Bảng 2: Đặc điểm dân số - xã hội (n=236) 
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) 
Tuổi 
69,2±7,9 
*GTNN: 60; 
GTLN: 98 
Nhóm tuổi 
60- 69 
70- 79 
≥ 80 
135 
75 
26 
57,2 
31,8 
11,0 
Giới tính 
Nam 
Nữ 
109 
127 
46,2 
53,8 
Tôn giáo 
Không tôn giáo 
Phật giáo 
Đạo Bà Ni 
Đạo Bà La Môn 
Thiên Chúa giáo 
145 
73 
9 
6 
3 
61,5 
30,9 
3,8 
2,5 
1,3 
Trình độ học vấn 
Dưới cấp 1 
Cấp 1 
Cấp 2 
Cấp 3 
Trên cấp 3 
47 
125 
40 
20 
4 
19,9 
53,0 
17,0 
8,4 
1,7 
Đối tượng sống chung 
Sống chung với vợ/ chồng và con cháu 
Sống chung với con cháu 
90 
71 
38,1 
30,1 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 99
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) 
Sống với vợ/chồng 
Sống một mình 
Sống chung với người khác 
52 
21 
2 
22,0 
8,9 
0,9 
Mức sống hiện tại 
Nghèo, cận nghèo 
Trung bình 
Giàu, khá 
23 
179 
34 
9,7 
75,9 
14,4 
*GTNN: Giá trị nhỏ nhất, GTLN: giá trị lớn nhất 
Tuổi trung bình của đối tượng là 69,2±7,9 
tuổi, trong đó nhóm tuổi 60-69 tuổi chiếm phần 
lớn với 57,2% (Bảng 2). Tỉ lệ nữ giới (53,8%) tham 
gia nhiều hơn nam giới (46,2%). Tình trạng 
không tôn giáo chiếm 61,5%. Trình độ học vấn 
dưới cấp 2 chiếm gần ¾ dân số tham gia. Trong 
số những người tham gia nghiên cứu, chỉ có 
8,9% NCT đang sống một mình. Về tình trạng 
kinh tế, đa số NCT có mức sống trung bình, 
chiếm 75,9%. Tuy nhiên, có gần 10% NCT có 
mức sống nghèo và cận nghèo. 
Bảng 3: Đặc điểm lối sống, thói quen- bệnh lý (n=236) 
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) 
Hút thuốc lá 
Đang HTL 
Đã từng HTL 
Không HTL 
44 
57 
135 
18,6 
24,2 
57,2 
Sử dụng rượu/bia 
Có 
Không 
44 
192 
18,6 
81,4 
Số ly nước uống mỗi ngày (1 ly= 200ml) 7,5±3,3 
Thói quen ăn uống 
Tốt 
Khá tốt 
Chưa tốt 
142 
81 
13 
60,2 
34,3 
5,5 
Trung bình số bệnh đồng mắc* 2,8 ±1,1 
Số loại thuốc uống trong ngày 4,5 ± 1,6 
Chứng khó nuốt 
Có 
Không 
4 
232 
1,7 
98,3 
Vấn đề sức khỏe răng miệng 
Có 
Không 
188 
48 
79,7 
20,3 
*: Là tổng số bệnh mà người cao tuổi hiện đang mắc được 
chẩn đoán bởi bác sĩ 
Trong số những người tham gia nghiên cứu, 
nhiều người đã từng hút thuốc và đang hút 
thuốc lá (Bảng 3). Tuy nhiên, có 81,4% hiện tại 
không có sử dụng rượu, bia. Về dinh dưỡng, 
trung bình mỗi ngày NCT uống khoảng 1,5 lít 
nước. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định 
được một tỉ lệ cao về những người có thói quan 
ăn uống “tốt” và “khá tốt”. Cụ thể là thói quen 
ăn uống được đo lường bằng một chỉ số gồm 
bốn câu hỏi (thói quen ăn một mình, thói quen 
bỏ bữa ăn, sự đầy đủ của buổi ăn sáng và sự đa 
dạng các loại thực phẩm ăn được). Mỗi câu hỏi 
dùng để đánh giá một thói quen được xác định 
bởi các nhà nghiên cứu khác nhau là một yếu tố 
ảnh hưởng đến chất lượng ăn uống và là một 
trong những yếu tố để đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng. Đánh giá thói quen ăn uống dựa trên 
tổng điểm của 4 câu hỏi trên, tối đa 10 điểm: thói 
quen ăn uống tốt (8-10 điểm), thói quen ăn uống 
khá tốt (5-7 điểm), thói quen ăn uống chưa tốt (0-
4 điểm)(8). 
Trung bình mỗi NCT có 3 bệnh đồng mắc. 
Trong đó, có khoảng 60% NCT có từ 3 bệnh 
đồng mắc trở lên và hơn ¼ NCT có từ 4 bệnh 
đồng mắc và trung bình mỗi ngày một NCT 
uống 4,5±1,6 loại thuốc. Chỉ có khoảng 2% NCT 
có chứng khó nuốt. Tuy nhiên, tỉ lệ NCT có vấn 
đề về sức khỏe răng miệng chiếm khá cao với 
79,7% như: gãy răng, mang răng giả hay đau 
buốt khi ăn. 
Bảng 4: Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo MNA-
SF (n=236) 
Đặc điểm 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
(%) 
MNA-SF 
DD bình thường (MNA-SF từ 12- 14 điểm) 
Có nguy cơ SDD (MNA-SF từ 8- 11 điểm) 
SDD (MNA-SF dưới 8 điểm) 
141 
61 
34 
59,7 
25,9 
14,4 
Kết quả từ Bảng 4 cho thấy tỉ lệ NCT có tình 
trạng suy dinh dưỡng chiếm 14,4% (34/236) và 
có 25,9% (61/236) NCT có nguy cơ suy dinh 
dưỡng theo phương pháp MNA-SF. 
Bảng 5: Phân loại tình trạng suy giảm nhận thức 
theo MoCA (n=236) 
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) 
Suy giảm nhận thức (MoCA) 
Nhận thức bình thường 
Suy giảm nhận thức nhẹ 
48 
188 
20,3 
79,7 
Bảng 5 cho thấy có gần 80% (188/236) NCT 
tham gia có suy giảm nhận thức (SGNT) nhẹ và 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 100 
khoảng 20% NCT có nhận thức bình thường 
theo đánh giá tình trạng suy giảm nhận thức 
bằng phương pháp MoCA. Kết quả này cho thấy 
tình trạng suy giảm nhận thức ở NCT khá phổ 
biến, cứ khoảng 5 NCT thì có 4 người có tình 
trạng nhận thức suy giảm nhẹ. 
Bảng 6: Mối liên quan giữa suy giảm nhận thức nhẹ với đặc điểm dân số- xã hội và lối sống - thói quen (n=236) 
Đặc điểm 
Suy giảm nhận thức nhẹ (MoCA) 
Giá trị p 
PR 
KTC 95% Có SGNT nhẹ Không SGNT nhẹ 
Nhóm tuổi 
60 - 69 
70 - 79 
≥ 80 
93 (68,9) 
4 (94,7) 
2 (92,3) 
42 (31,1) 
4 (5,3) 
2 (7,7) 
<0,001 
<0,001 
1 
1,37 (1,21-1,56) 
1,34 (1,14-1,57) 
Giới tính 
Nữ 
Nam 
118 (92,9) 
70 (64,2) 
9 (7,1) 
39 (35,8) 
<0,001 
1,45 (1,25-1,68) 
Tôn giáo 
Có 
Không 
81 (89,0) 
107 (73,8) 
10 (11,0) 
38 (26,2) 
0,005 
1,21 (1,07-1,36) 
Trình độ học vấn 
Dưới cấp 1 
Cấp 1 
Cấp 2 
Cấp 3 
Trên cấp 3 
46 (97,9) 
113 (90,4) 
23 (57,5) 
5 (25,0) 
1 (25,0) 
1 (2,1) 
12 (9,6) 
14 (42,5) 
15 (75,0) 
3 (75,0) 
0,029 
<0,001 
<0,001 
0,116 
1 
0,92 (0,86-0,99) 
0,59 (0,45-0,77) 
0,26 (0,12-0,55) 
0,26 (0,05-1,40) 
Đối tượng sống chung 
Sống một mình 
Sống với người khác 
17 (81,0) 
171 (79,5) 
4 (19,0) 
44 (20,5) 
0,88 
1,02 (0,82-1,27) 
Mức sống hiện tại 
Nghèo, cận nghèo 
Trung bình 
Giàu, khá 
23 (100,0) 
150 (83,8) 
15 (44,1) 
0 (0,0) 
29 (16,2) 
19 (55,9) 
<0,001 
<0,001 
1 
0,84 (0,79 -0,89) 
0,44 (0,30-0,64) 
Hút thuốc lá (HTL) 
Đang HTL 
Đã từng HTL 
Không HTL 
26 (59,1) 
39 (68,4) 
123 (91,1) 
18 (40,9) 
18 (31,6) 
12(8,9) 
0,343 
0,001 
1 
1,16 (0,86-1,57) 
1,54 (1,20-1,98) 
Sử dụng rượu, bia 
Có 
Không 
36 (58,1) 
152 (87,4) 
26 (41,9) 
22 (12,6) 
<0,001 
0,66 (0,53-0,83) 
Thói quen ăn uống 
Chưa tốt 
Khá tốt 
Tốt 
12 (92,3) 
69 (85,2) 
107 (75,4) 
1 (7,8) 
12 (14,8) 
35 (24,6) 
0,386 
0,030 
1 
0,92 (0,77-1,11) 
0,82 (0,68-0,98) 
TB số ly nước/ngày 
(1 ly= 200ml) 
7,3±3,2 8,4±3,8 0,04 0,91 (0,83-0,99) 
Trung bình số bệnh đồng mắc 2,8±1,1 2,8±1,1 0,91 0,98 (0,73-1,32) 
Trung bình số loại thuốc uống mỗi ngày 4,5±1,5 4,4±1,7 0,84 1,02 (0,83-1,25) 
Chứng khó nuốt 
Có 
Không 
4 (100,0) 
184 (79,3) 
0 (0) 
48 (20,7) 
0,40* 
1,26 (1,18-1,35) 
Vấn đề SKRM 
Có 
Không 
154 (81,9) 
34 (70,8) 
34 (18,1) 
14 (29,2) 
0,07 0,86 (0,71-1,05) 
*: Kiểm định Fisher’s 
Bảng 6 cho thấy có mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa tình trạng suy giảm nhận 
thức nhẹ ở NCT với các đặc điểm dân số- xã 
hội như tuổi, nhóm tuổi, giới tính, tôn giáo, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 101 
trình độ học vấn và mức sống hiện tại 
(p <0,05). Cụ thể, khi tuổi càng tăng NCT càng 
dễ mắc MCI, NCT là nữ giới có nguy cơ mắc 
MCI gấp 1,45 lần so với nam giới. NCT có 
Trình độ học vấn càng thấp và mức sống càng 
thấp thì càng có nguy cơ mắc MCI cao. Ngoài 
ra, chúng tôi tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa suy giảm nhận thức nhẹ với các 
đặc tính như hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, 
trung bình số ly nước uống mỗi ngàyvà tình 
trạng sức khỏe- bệnh lý ở NCT, với p >0,05. 
NCT đang hút thuốc lá (HTL) có nguy cơ mắc 
MCI cao gấp 1,54 lần so với NCT chưa từng 
HTL bao giờ và NCT hiện đang có uống rượu, 
bia có nguy cơ mắc MCI cao gấp 0,66 lần so 
với người không uống. Ngoài ra, NCT có thói 
quen ăn uống chưa tốt có nguy cơ mắc MCI 
cao gấp 1,2 lần so với người có thói quen ăn 
uống tốt. 
Qua kết quả từ Bảng 7, chúng tôi thấy có 
mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p=0,013) 
giữa suy giảm nhận thức nhẹ với tình trạng 
dinh dưỡng theo MNA-SF. NCT có tình trạng 
suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ suy dinh 
dưỡng thì có nguy cơ bị suy giảm nhận thức 
nhẹ gấp 1,2 lần so với NCT có tình trạng dinh 
dưỡng bình thường. 
Bảng 7: Mối liên quan giữa suy giảm nhận thức nhẹ với tình trạng sức khỏe- bệnh lý (n=236) 
Đặc điểm 
Suy giảm nhận thức nhẹ (MoCA) 
Giá trị p 
PR 
KTC 95% Có SGNT nhẹ Không SGNT nhẹ 
MNA-SF 
SDD (MNA-SF dưới 8 điểm) 
Có nguy cơ SDD (MNA-SF từ 8- 11 điểm) 
Dinh dưỡng bình thường (MNA-SF từ 12- 14 điểm) 
30 (88,2) 
54 (88,5) 
104 (73,8) 
4 (11,8) 
7 (11,5) 
37 (26,2) 
0,966 
0,026 
1 
1,00 (0,86-1,17) 
0,84 (0,71 -0,98) 
BÀN LUẬN 
Sử dụng thang đo MNA-SF để đánh giá, 
chúng tôi tìm thấy 14,4% (34/236) NCT có tình 
trạng SDD và 25,9% (61/236) có nguy cơ SDD. 
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi thấp 
hơn nghiên cứu của Orsitto G với 24% SDD và 
58% có nguy cơ SDD. Một lí do có thể là vì sự 
khác biệt về đối tượng nội hoặc ngoại trú. 
Nghiên cứu của tác giả Orsitto G được thực hiện 
trên NCT nằm viện tại khoa Lão tại một bệnh 
viện ở nước Ý. Một số đề xuất từ các nghiên cứu 
trên thế giới cho thấy người nằm viện có tình 
trạng hoặc nguy cơ về dinh dưỡng kém hơn so 
với người khám ngoại trú. Ví dụ có 38% người 
cao tuổi sống trong cộng đồng suy dinh dưỡng 
hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng, trong khi đó có 
đến 65% người cao tuổi nhập viện có thể phải 
đối mặt với tình trạng suy dinh dưỡng(4). 
Khi sử dụng thang điểm MoCA để đánh giá 
nhận thức, chúng tôi thấy có 79,7% (188/236) 
NCT bị suy giảm nhận thức nhẹ. Kết quả này 
cho thấy tình trạng suy giảm nhận thức ở NCT 
khá phổ biến, cứ khoảng 5 NCT thì có 4 người có 
tình trạng nhận thức suy giảm nhẹ. Trong khi 
đó, một nghiên cứu của Jiang C cho thấy chỉ có 
khoảng 14% NCT có suy giảm nhận thức nhẹ(1). 
Chúng tôi phát hiện thấy từ kết quả nghiên 
cứu này, người càng lớn tuổi càng có nguy cơ 
bị suy giảm nhận thức nhẹ. Khi lão hóa, những 
thay đổi trong nhận thức sẽ suy giảm dần dần 
bao gồm sự chú ý, trí nhớ và các hoạt động đòi 
hỏi các chức năng nhận thức phức tạp(9). Kết 
quả cho thấy những NCT mắc suy giảm nhận 
thức nhẹ có khuynh hướng kém lành mạnh và 
sống theo lối sống không lành mạnh. Ví dụ, 
những người tham gia với suy giảm nhận thức 
nhẹ được phát hiện có trình độ học vấn thấp, 
mức sống kinh tế thấp, có thói quen ăn uống 
chưa tốt, hiện tại có làm việc, đang hút thuốc 
lá và có uống rượu, bia. Ngoài ra, chúng tôi 
còn tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống 
kê (p=0,013) giữa suy giảm nhận thức nhẹ với 
tình trạng dinh dưỡng theo MNA-SF. NCT có 
tình trạng suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ 
suy dinh dưỡng thì có nguy cơ bị suy giảm 
nhận thức nhẹ gấp 1,2 lần so với NCT có tình 
trạng dinh dưỡng bình thường. 
Điểm mạnh của nghiên cứu là sử dụng bộ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 102 
câu hỏi với các thang đo đã được chuẩn hóa và 
thu thập dữ kiện từ bệnh nhân thông qua phỏng 
vấn trực tiếp dựa trên bộ câu hỏi cấu trúc soạn 
sẵn, điều này giúp cho thông tin thu thập được 
đầy đủ hơn so với phương pháp để bệnh nhân 
tự điền bộ câu hỏi. Tuy nhiên, vì sử dụng 
phương pháp chọn mẫu thuận tiện, việc lấy mẫu 
diễn ra tại một địa điểm nhất định nên thiếu khả 
năng ngoại suy cho các đối tượng khác, làm hạn 
chế việc khái quát hóa kết quả và có thể chưa 
mang tính đại diện cho toàn dân số. 
KẾT LUẬN 
Sử dụng thang điểm MoCA để đánh giá 
nhận thức, chúng tôi phát hiện thấy có 79,7% 
(188/236) NCT bị suy giảm nhận thức nhẹ. Tỉ lệ 
suy dinh dưỡng ở người cao tuổi theo phương 
pháp MNA-SF là 14,4% (34/236) và 25,9% 
(61/236) có nguy cơ suy dinh dưỡng. NCT có 
tình trạng suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ suy 
dinh dưỡng thì có nguy cơ bị suy giảm nhận 
thức nhẹ gấp 1,2 lần so với NCT có dinh dưỡng 
bình thường (p=0,013). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Jiang C, Xu Y (2014). The association between mild cognitive 
impairment and doing housework. Aging & Mental Health, 
18(2):212-216. 
2. Worldometer (2020). Life Expectancy of the World Population. 
URL: www.worldometers.info/demographics/life-expectancy. 
3. Abbott Nutrition Health Institute (2015). The Connection 
between Malnutrition and Cognitive Decline in Older Adults. 
Abbott Nutrition Health Institute, pp.1-4. 
4. Orsitto G, Fulvio F, Tria D (2009). Nutritional status in 
hospitalized elderly patients with mild cognitive impairment. 
Clinical Nutrition, 28(1):100-102. 
5. Wittich W, Phillips N, Nasreddine Z, Chertkow H (2010). 
Sensitivity and specificity of the Montreal Cognitive 
Assessment modified for individuals who are visually 
impaired. Journal of Visual Impairment & Blindness, 104(6):360-
368. 
6. Guigoz Y, Vellas B, Garry PJ (1996). Assessing the nutritional 
status of the elderly: The Mini Nutritional Assessment as part 
of the geriatric evaluation. Nutrition Reviews, 54(1):S59-S65. 
7. Ziad Nasreddine (2004). Montreal cognitive Assessment 
(MoCA) forms. URL: https://www.mocatest.org. 
8. Rosenbloom CA, Whittington FJ (1993). The effects of 
bereavement on eating behaviors and nutrient intakes in 
elderly widowed persons. Journal of Gerontology, 48(4):223-229. 
9. The U.S. Department of Health and Human Services. (2020). 
Cognitive Impairment in Older Adults: Screening. URL: 
www.uspreventiveservicestaskforce.org/uspstf/. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfsuy_giam_nhan_thuc_muc_do_nhe_va_moi_lien_quan_voi_tinh_tran.pdf