Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam
Nghiên cứu đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến
hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam.
Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết quả cho thấy hệ thống ngân
hàng phát triển có thể thay thế các tổ chức tài chính vi mô chính thức trong
việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, các tổ chức này trở nên kém
bền vững hơn, chi phí hoạt động cao hơn và khả năng sinh lời thấp hơn khi
hệ thống ngân hàng phát triển. Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển sẽ
tạo ra những kỹ thuật mới lan tỏa sang lĩnh vực tài chính vi mô, làm cho các
tổ chức này hoạt động an toàn hơn, tỷ lệ dư nợ có rủi ro giảm.
Từ khóa: Hiệu quả tài chính; Tổ chức tài chính vi mô chính thức; Sự phát
triển của khu vực ngân hàng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam
52 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 217- Tháng 6. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam Phan Thị Hồng Thảo Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh Ngày nhận: 14/09/2019 Ngày nhận bản sửa: 06/04/2020 Ngày duyệt đăng: 17/04/2020 Nghiên cứu đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam. Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết quả cho thấy hệ thống ngân hàng phát triển có thể thay thế các tổ chức tài chính vi mô chính thức trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, các tổ chức này trở nên kém bền vững hơn, chi phí hoạt động cao hơn và khả năng sinh lời thấp hơn khi hệ thống ngân hàng phát triển. Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển sẽ tạo ra những kỹ thuật mới lan tỏa sang lĩnh vực tài chính vi mô, làm cho các tổ chức này hoạt động an toàn hơn, tỷ lệ dư nợ có rủi ro giảm. Từ khóa: Hiệu quả tài chính; Tổ chức tài chính vi mô chính thức; Sự phát triển của khu vực ngân hàng. The development of banking sector and financial efficiency of formal microfinance institution: the case of Vietnam Abstract: This paper analyzes the impacts of the development of banking sector on financial efficiency of formal microfinance institutions in Vietnam. Using data panel regression model, this study shows that the development of the banking sector can substitute the formal microfinance institutions in providing services to custormes. Therefore, these organizations become less sustainable, higher operating costs and lower profitability when the banking system grows. On the other hand, the developed banking system will create new techniques that spread to the microfinance sector, making these organizations safer, portfolio at risk decreases. Keywords: Development of banking, financial efficiency, formal microfinance institution Thao Thi Hong Phan Email: thaopth@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam - Bacninh Campus 1. Đặt vấn đề Tài chính vi mô (TCVM) đóng một vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là công cuộc giảm nghèo và phát triển xã hội tại các quốc gia đang phát triển (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2014). Tại Việt Nam, sau một chặng PHAN THỊ HỒNG THẢO 53Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đường dài (hơn 3 thập kỷ), hoạt động TCVM đã tỏ rõ vai trò quan trọng trong việc gia tăng mức độ tiếp cận dịch vụ tài chính cho người nghèo/người có thu nhập thấp (Nguyễn Kinh Anh & cộng sự, 2014). Thông qua việc tiếp vốn cho sản xuất kinh doanh, TCVM giúp người nghèo tạo thu nhập, cải thiện cuộc sống, đồng thời giảm thiểu các ảnh hưởng của khu vực phi chính thức đắt đỏ. Bằng cách này, TCVM đã có những đóng góp tích cực trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Chương trình TCVM du nhập vào Việt Nam từ năm 1987 và chứng kiến sự phát triển nhanh chóng trong khoảng thời gian từ cuối thập niên 80 đến cuối thập niên 90. Trong khoảng thời gian này, chương trình TCVM nhận được sự hỗ trợ chủ yếu về vốn và kỹ thuật từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, đến những năm đầu của thế kỷ XXI, hoạt động TCVM gặp nhiều khó khăn. Trong khi nhiều chương trình, dự án lần lượt đóng cửa thì cũng có nhiều tổ chức nỗ lực tìm cách tồn tại và phát triển. Cùng với sự thay đổi các qui định pháp lý về TCVM, làn sóng chính thức hóa đã diễn ra, đầu tiên là tổ chức TCVM trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên Tình Thương (TYM) vào năm 2010. Tiếp đó, nhiều tổ chức khác, cũng lên kế hoạch chuyển đổi thành tổ chức chính thức. Tính đến thời điểm hiện tại, 4 tổ chức TCVM được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp phép gồm: TYM, tổ chức TCVM TNHH M7 (M7MFI), tổ chức TCVM TNHH Thanh Hóa (Thanh Hóa MFI) và tổ chức TCVM TNHH một thành viên cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP). Trong thời gian triển khai hoạt động, các tổ chức TCVM chính thức đã đạt được nhiều thành quả đáng kể về hiệu quả tài chính như: quy mô hoạt động ngày càng mở rộng, khả năng sinh lời và độ tự vững được duy trì ở mức cao, tỷ lệ chi phí hoạt động có xu hướng giảm, tỷ lệ dư nợ có rủi ro ở mức thấp. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đó, hiệu quả tài chính của các tổ chức này còn bộc lộ một số hạn chế như quy mô và tốc độ tăng trưởng chưa ổn định và đồng đều, độ tự vững chưa ổn định, hoạt động vẫn tiềm ẩn rủi ro (Phan Thị Hồng Thảo, 2019). Những tồn tại này tác động tiêu cực và đáng kể đến vai trò, sứ mệnh của tổ chức. Vì vậy, để đảm bảo phát triển bền vững, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức. Hiệu quả tài chính chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố, cả về phía môi trường, cũng như các nhân tố bên trong tổ chức. Các nhân tố môi trường gồm: sự thay đổi của các qui định pháp lý, sự thay đổi của các yếu tố trong môi trường kinh tế, sự phát triển của các ngân hàng ở khu vực chính thức Trong đó, sự phát triển của hệ thống ngân hàng chính thức là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức TCVM (Vanrosee & D’Espallier, 2009). Thực tế hiện nay, thị trường TCVM Việt Nam có sự tham gia rất tích cực của các ngân hàng thương mại (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam- Agribank, Ngân hàng Liên Việt, Ngân hàng Cộng đồng hiện đã được sáp nhập vào ngân hàng bán lẻ của Maritime Bank), Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam- VBSP, Ngân hàng Hợp tác- Coopbank và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân- PCF. Ba tổ chức dẫn đầu thị trường TCVM Việt Nam về qui mô và số lượng khách hàng là VBSP, Agribank, Coopbank Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam 54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020 và PCF. Trong đó, Agribank và VBSP thu hút tới 79% số lượng khách hàng và dư nợ tín dụng (Nhóm công tác TCVM Việt Nam, 2016). So với các tổ chức TCVM chính thức, đây là những tổ chức có lợi thế về quy mô, mạng lưới hoạt động, cán bộ cũng như sự ưu đãi lớn từ Chính phủ và trở thành đối thủ cạnh tranh đáng kể của các tổ chức TCVM chính thức. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá tác động sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở khu vực chính thức đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức ở Việt Nam. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu này tập trung đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức tại Việt Nam. Phần còn lại của bài báo được cấu trúc như sau: Tổng quan nghiên cứu (phần 2), mô hình và phương pháp nghiên cứu (phần 3), kết quả và thảo luận (phần 4), kết luận (phần 5). 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Tổ chức tài chính vi mô chính thức TCVM ra đời đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Các khái niệm về TCVM rất đa dạng. Theo Ledgerwood (1999), “TCVM là một phương pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho dân cư có thu nhập thấp Cùng với trung gian tài chính, nhiều tổ chức TCVM cung cấp các dịch vụ trung gian xã hội”. Như vậy, theo quan niệm này, TCVM không phải là một hoạt động từ thiện, TCVM là một phương pháp để phát triển kinh tế. Theo đó, TCVM không chỉ đơn thuần là tín dụng vi mô mà còn bao gồm nhiều dịch vụ tài chính và phi tài chính khác. Trong khi đó, ADB (2000) cho rằng TCVM chỉ tập trung đề cập đến các dịch vụ tài chính cho người nghèo, bao gồm tiền gửi, cho vay, thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm. Cũng theo quan điểm này, “Tổ chức TCVM là tổ chức có hoạt động kinh doanh chính là cung cấp dịch vụ TCVM”, các tổ chức này có thể ở khu vực chính thức hoặc bán chính thức. Ở khu vực chính thức, bao gồm các tổ chức hoạt động trên cơ sở giấy phép của Ngân hàng Trung ương (NHTW) cấp, chịu sự quản lý và giám sát của NHTW. Các tổ chức TCVM chính thức được đề cập tới trong nghiên cứu này là những tổ chức TCVM nhận tiền gửi được NHNN cấp phép và quản lý trên cơ sở chuyển đổi từ các tổ chức phi chính phủ. 2.2. Hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, hiệu quả là mối tương quan giữa yếu tố đầu vào khan hiếm với đầu ra hàng hóa dịch vụ (Nguyễn Khắc Minh, 2004). Phân tích hiệu quả là cần thiết để đánh giá hoạt động của trung gian tài chính nói chung và tổ chức TCVM chính thức nói riêng. Vì vậy, nghiên cứu về hiệu quả đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Đối với tổ chức TCVM, hiệu quả là cần thiết để thúc đẩy sự bền vững, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gia tăng (Masawe, 2013). Đồng thời Masawe (2013) cho rằng: “Hiệu quả trong TCVM là một câu hỏi về việc tổ chức TCVM phân bổ đầu vào như thế nào (chẳng hạn như tài sản, nhân viên, trợ cấp) để tạo ra sản lượng tối đa (như số lượng khoản vay, tự vững tài chính và tiếp cận đói nghèo)”. Rose & Hudgins (2008) đề xuất thước đo phản ánh rõ nhất hiệu quả trong hoạt động của tổ chức tài chính là tỷ lệ hiệu PHAN THỊ HỒNG THẢO 55Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng quả hoạt động, được xác định bằng tỷ lệ giữa tổng chi phí hoạt động với tổng thu từ hoạt động. Đối với một tổ chức, hiệu quả được đề cập tới bao gồm hiệu quả tài chính (hiệu quả hạch toán kinh tế), là hiệu quả được xem xét trong phạm vi một chủ thể và hiệu quả kinh tế xã hội, là hiệu quả được đánh giá trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế (Trương Thị Hoài Linh, 2012). Cũng như các tổ chức khác, hiệu quả của tổ chức TCVM bao gồm hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Trong thời kỳ đầu, tổ chức TCVM hoạt động chủ yếu dựa vào các nguồn tài trợ, vì vậy vấn đề hiệu quả xã hội liên quan đến tiếp cận cộng đồng và tác động của TCVM được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, khi TCVM ngày càng phát triển, số lượng các tổ chức TCVM ngày càng gia tăng trong điều kiện các nguồn tài trợ ngày càng eo hẹp, đòi hỏi các tổ chức TCVM phải huy động các nguồn lực bên ngoài thông qua con đường chính thức hóa. Sự thay đổi về hình thức pháp lý này làm cho tổ chức TCVM trở thành một trung gian tài chính thực sự, huy động vốn và cho vay. Do đó, để bù đắp được các khoản chi phí, đặc biệt là chi phí huy động, nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ phù hợp cho người nghèo một cách bền vững thì hiệu quả tài chính lại trở nên quan trọng hơn so với mục tiêu, tôn chỉ ban đầu. Hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM là một khái niệm rộng, được xem xét dưới nhiều góc độ như độ tự vững, lợi nhuận, chi phí và rủi ro. Vanrosee & cộng sự (2009) đã sử dụng chỉ tiêu tự vững hoạt động (OSS), tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) để đánh giá hiệu quả của các tổ chức TCVM. Masawe (2013) đã đề xuất 11 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM trên khía cạnh về chi phí, lợi nhuận, rủi ro và hiệu suất nguồn nhân lực. Trong khi đó El-Maksoud (2016) lại tập trung vào khía cạnh lợi nhuận để đánh giá hoạt động của tổ chức TCVM thông qua chỉ tiêu OSS, tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 ngày, tỷ lệ mất vốn, lãi suất cho vay bình quân, chi phí bình quân, lợi nhuận gộp, chi phí cho mỗi người vay và chi phí trên mỗi đồng đô la cho vay. Trong nghiên cứu này, tác giả đánh giá hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức trên các khía cạnh độ tự vững, chi phí, lợi nhuận và mức độ an toàn thông qua các chỉ tiêu: tự vững hoạt động (OSS), tỷ lệ chi phí hoạt động (OER), tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 ngày (PAR30). 2.3. Sự phát triển của khu vực ngân hàng Sự phát triển của khu vực ngân hàng đề cập đến những thay đổi về đặc điểm của hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các chỉ số truyền thống về phát triển tài chính để đánh giá sự phát triển của khu vực ngân hàng chính thức (El-Maksoud, 2016). Các chỉ số thường được sử dụng gồm tỷ lệ M2/GDP và tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP. Tuy nhiên, hạn chế của các chỉ số này là không phản ánh được mức độ trung gian của ngân hàng cũng như không kiểm soát được các khoản nợ xấu. Hơn nữa, các chỉ tiêu về hiệu quả và qui mô của ngành ngân hàng chính thức hầu như không có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của tổ chức TCVM. Vì vậy, các chỉ số về thâm nhập ngân hàng là phép đo tốt hơn về sự phát triển của khu vực ngân hàng (Beck, Demirguc-Kunt & Martinez Peria, 2007). Các chỉ số thâm nhập ngân hàng gồm chỉ số thâm nhập về địa lý (số chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2, số lượng ATM ngân hàng trên 1.000 km2) Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam 56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020 và chỉ số thâm nhập về nhân khẩu học (số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người, số lượng ATM trên 100.000 người) (Beck & cộng sự, 2007). Vanrosee và cộng sự (2009) đã sử dụng tỷ lệ tín dụng trên GDP (độ sâu tài chính) và số ATM có sẵn trên 1 triệu dân (tiếp cận) để phản ánh sự phát triển của ngành tài chính. Tác giả El-Maksoud (2016) đã sử dụng cả chỉ số truyền thống (tỷ lệ tín dụng đối với khu vực tư nhân trên GDP và tỷ lệ nợ phải trả trên GDP) và các chỉ số thâm nhập ngân hàng (số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành và số lượng ATM trên 100.000 người trưởng thành) để đánh giá sự phát triển của hệ thống ngân hàng chính thức. Trong nghiên cứu này, tác giả đánh giá sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua chỉ số thâm nhập ngân hàng (số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành- Commercial bank branches (per 100,000 adults)). 2.4. Mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô với sự phát triển của khu vực ngân hàng Hiện nay, có hai quan điểm đối lập về mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM và sự phát triển của khu vực ngân hàng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, khu vực ngân hàng phát triển sẽ góp phần cải thiện hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM. Bởi khi hệ thống ngân hàng phát triển sẽ cung cấp một môi trường cạnh tranh hơn, từ đó kích thích các tổ chức TCVM giảm chi phí, nâng cao hiệu quả tài chính bằng cách đa dạng hóa và cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, sự phát triển của hệ thống tài chính và khu vực ngân hàng có thể tạo ra những kỹ thuật ngân hàng và sáng kiến tài chính mới có thể gây ra hiệu ứng lan tỏa sang thị trường TCVM. Thêm vào đó, cạnh tranh còn giúp các tổ chức TCVM nâng cao hiệu quả tài chính thông qua cải thiện kỹ năng của cán bộ cho vay cũng như cán bộ quản lý. Qu ... hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam 60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020 Kết quả hồi quy theo mô hình OLS cho biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan hệ tích cực với biến OER. Mô hình không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng với biến ROE. 4.2.2. Kết quả hồi quy theo mô hình FEM Kết quả hồi quy theo mô hình FEM cho biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan hệ tích cực với biến OER. Riêng mô hình với biến phụ thuộc ROE không phù hợp bởi giá trị Prob> 0,05. 4.2.3. Kết quả hồi quy theo mô hình REM Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan OSS OER ROA ROE PAR30 BP log_size OSS 1 OER -0,4861 1 ROA 0,7664 -0,2532 1 ROE 0,3522 -0,2205 0,6095 1 PAR30 0,2496 -0,1938 0,3539 0,2437 1 BP -0,56 0,1135 -0,4127 -0,1077 -0,0806 1 log_size 0,1293 -0,4364 0,1983 0,2487 0,4789 0,3334 1 Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Bảng 4. Kết quả hồi quy theo mô hình OLS Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30 BP -64,06077*** 2,825007* -5,94489*** -0,4590686 -0.2188933* log_size 6,071801** -0,9359982*** 0,7544486** 0,187837*** 0,0833861*** Hằng số 288,8093*** 14,14968*** 16,57445*** 2,097836* -0,110009 Prob 0,0000 0,0033 0,0015 0,0196 0,0016 R2 42,59 26,59 29,73 19,16 29,43 Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10% Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Bảng 5. Kết quả hồi quy theo mô hình FEM Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30 BP -50,10072*** 3,387747** -4,010736** -0,4432564 -0,2159522** log_size -1,592163 -1,245006** -0.3043822 0,1785606 0,0825924*** Hằng số 355,2246*** 16,02156*** 22,96912*** 2,157676 -0,1104876 Prob 0,0001 0,0314 0,0103 0,2569 0,0246 R2 25,15 26,51 7,46 10,16 29,43 Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10% Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata PHAN THỊ HỒNG THẢO 61Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Kết quả hồi quy theo mô hình REM cho biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan hệ tích cực với biến OER. Mô hình không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng với biến ROE. 4.2.4. Chọn mô hình hồi quy Trước hết, tác giả sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình FEM hay REM. Tiếp theo, để lựa chọn mô hình REM Bảng 6. Kết quả hồi quy theo mô hình REM Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30 BP -64,06077*** 2,825007* -5,944489*** -0,449279 -0,2161361** log_size 6,071801*** -0,9359982*** 0,7544486** 0,1820381** 0,082542*** Hằng số 288,8093*** 14,14968*** 16,57445*** 2,139194* -0,1139128 Prob 0,0000 0,0012 0,0004 0,0951 0,0051 R2 42,59 26,59 29,73 19,16 29.43 Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10% Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Bảng 7. Kết quả kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier OSS OER ROA ROE PAR30 Kiểm định Hausman Prob> Chi2 0,0289 0,7286 0,0200 0,9987 0,7921 Kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier Thống kê Chi2 0,00 0,07 18,28 Prob>Chi2 1,00 0,3932 0,0000 Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Bảng 8. Kết quả hồi quy cuối cùng Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30 BP -50,0072*** 2,825007* -4,010736** -0,4590686 -0,2161361** log_size -1,592163 -0,9359982*** -0,3043822 0,187837*** 0,082542*** Hằng số 355,2246*** 14,14968*** 22,96912*** 2,097836* -0,1139128 Prob 0,0001 0,0033 0,0103 0,0196 0,0051 R2 25,15 26,59 7,46 19,16 29.43 Mô hình FEM OLS FEM OLS REM Kiểm định phương sai sai số thay đổi Prob> Chi 2= 0,4521 Prob> Chi 2= 0,0699 Prob> Chi 2= 0,0462 Prob> Chi 2 = 0,0000 Prob> Chi 2= 0,0000 Kiểm định đa cộng tuyến 1,13 1,13 1,13 1,13 1.41 Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10% Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam 62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020 hay OLS, tác giả sử dụng kiểm định Breusch- Pagan Lagrange multiplier (Bảng 7). Kết quả kiểm định cho thấy, biến phụ thuộc OSS và ROA có giá trị Prob< 0,05 nên lựa chọn mô hình FEM. Với biến phụ thuộc PAR30 có giá trị Prob< 0,05 nên quyết định chọn mô hình REM; hai biến phụ thuộc còn lại có giá trị Prob> 0,05 nên quyết định chọn mô hình OLS. Để kiểm định sự phù hợp của mô hình được chọn, tác giả sử dụng các kiểm định sau: Với các mô hình OLS, tác giả sử dụng kiểm định Breusch-Pagan để kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Với mô hình hồi quy biến OER, kết quả kiểm định cho thấy các giá trị Prob> Chi2> 0,05 chứng tỏ không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Với biến ROE, giá trị Pbob> Chi2= 0,0000 chứng tỏ có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Vì vậy, để khắc phục hiện tượng này, tác giả sử dụng mô hình sai số chuẩn mạch. Kết quả ước lượng theo mô hình sai số chuẩn mạch thể hiện trong Bảng 9. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định VIF để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả kiểm định cho thấy, các giá trị VIF đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến. Với mô hình FEM, tác giả sử dụng kiểm định Wald để kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Với mô hình hồi quy biến phụ thuộc OSS, kết quả kiểm định cho thấy giá trị Prob> Chi2= 0,4521> 0,05; chứng tỏ không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Với mô hình hồi quy biến phụ thuộc ROA, kết quả cho thấy giá trị Prob> Chi2= 0,0462< 0,05 chứng tỏ có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Vì vậy, để khắc phục hiện tượng này, tác giả sử dụng mô hình sai số chuẩn mạch. Kết quả ước lượng theo mô hình sai số chuẩn mạch thể hiện trong Bảng 9. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định VIF để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả kiểm định cho thấy các giá trị VIF đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến. Với mô hình REM, tác giả sử dụng kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian để kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Kết quả kiểm định cho thấy giá trị Prob> Chi2= 0,0000< 0,05, chứng tỏ có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Vì vậy, để khắc phục hiện tượng này, tác giả sử dụng mô hình sai số chuẩn mạch. Kết quả ước lượng theo mô hình sai số chuẩn mạch thể hiện trong Bảng 9. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định VIF để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả kiểm định cho thấy các giá trị VIF đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả hồi quy cuối cùng cho biết, sự phát triển của khu vực ngân hàng tác động tiêu cực đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức thông qua các biến OSS, OER và ROA. Cụ thể, khi hệ thống ngân hàng phát triển thì khả năng tự vững và sinh lời của các tổ chức TCVM chính thức giảm, đồng thời, tỷ lệ chi phí hoạt động tăng. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng của mô hình và nghiên cứu của Vanrosee & cộng sự (2009), El-Maksoud (2016). Điều này được lý giải bởi sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở khu vực chính thức đã tạo áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng. Về lĩnh vực huy động vốn, trong điều kiện các khoản vốn tài trợ và vay ưu đãi ngày càng eo hẹp, thì các tổ chức TCVM chính thức sẽ phải cạnh tranh với các ngân hàng về lãi suất cũng như sự thuận tiện của các khoản tiền gửi. Sự cạnh tranh này làm tăng chi phí tài chính cũng PHAN THỊ HỒNG THẢO 63Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng như chi phí hoạt động của tổ chức TCVM. Hơn nữa, về lĩnh vực cho vay, tổ chức TCVM chính thức cũng gặp phải những khó khăn trong cạnh tranh về lãi suất cho vay, vì vậy doanh thu giảm, lợi nhuận giảm. Kết quả là, độ tự vững và khả năng sinh lời của tổ chức TCVM chính thức giảm, trong khi tỷ lệ chi phí hoạt động tăng. Bên cạnh đó, mô hình cũng tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức thông qua biến PAR 30. Cụ thể, khi hệ thống ngân hàng càng phát triển thì tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 ngày của các tổ chức TCVM chính thức càng giảm, tại mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả này ngược lại với kỳ vọng của mô hình và là phát hiện mới của nghiên cứu. Mối quan hệ này được lý giải bởi hệ thống ngân hàng phát triển sẽ tạo ra những kỹ thuật và sáng kiến mới lan tỏa sang lĩnh vực TCVM. Với những kỹ thuật và sáng kiến mới này sẽ giúp nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động của tổ chức TCVM chính thức. Tương tự, nghiên cứu cũng tìm thấy tồn tại mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô và hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM chính thức qua chỉ số PAR30. Cụ thể, khi quy mô tổ chức tăng thì tỷ lệ dư nợ rủi ro tăng tại mức ý nghĩa 1%. Kết quả này ngược lại với kỳ vọng của mô hình và nghiên cứu của El-Maksoud (2016). Điều này được lý giải bởi, nếu tổ chức chú trọng mở rộng quy mô tài sản mà không đi kèm với các biện pháp tăng cường đảm bảo an toàn thì rủi ro sẽ gia tăng và qua đó tác động tiêu cực đến hiệu quả tài chính của tổ chức. Ở một khía cạnh khác, quy mô của tổ chức lại có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính. Cụ thể, quy mô của tổ chức tăng làm giảm tỷ lệ chi phí hoạt động tại mức ý nghĩa 1% và tăng ROE tại mức ý nghĩa 5%. Kết quả này phù với kỳ vọng của mô hình và nghiên cứu của tác giả El- Maksoud (2016). Đây là một minh chứng thực tế bổ sung cho quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô. 5. Kết luận Trên cơ sở bộ dữ liệu bảng thu thập trong 10 năm từ 4 tổ chức TCVM được NHNN cấp phép, nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức. Với phương pháp hồi quy dữ liệu bảng theo mô hình OLS, FEM và REM kết hợp với các kiểm định cần thiết để lựa chọn mô hình phù hợp nhất. Kết quả cuối cùng cho thấy sự phát triển của khu vực ngân hàng tác động đa chiều đến hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM chính thức tại Việt Nam. Tùy thuộc vào từng khía cạnh cụ thể của hiệu quả tài chính được xem xét mà sự phát triển của khu vực ngân hàng tác động tích cực hay tiêu cực: Trên khía cạnh tự vững, chi phí và lợi nhuận, sự phát triển của khu vực ngân hàng tác động ngược chiều với Bảng 9. Kết quả hồi quy biến phụ thuộc theo mô hình sai số chuẩn mạch Tên biến ROA ROE PAR30 BP -4,010736** -0,4590686 -0,2161361*** log_size -3,043822 0,187837** 0,082542*** Hằng số 22,96912*** 2,097836 -0,1139128 Prob 0,0000 0,0561 0,0001 R2 7,46 19,16 29.43 Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10% Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam 64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020 hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức. Kết quả này làm rõ thêm luận điểm của Vanrosee & cộng sự (2009) và El-Maksoud (2016). Đồng thời, kết quả này làm rõ thêm luận điểm rằng, tổ chức TCVM chính thức phục vụ một thị trường ngách khác và phát triển hơn nơi ngành ngân hàng chính thức thất bại. Do đó, tổ chức TCVM chính thức có thể được coi là phương thức hỗ trợ khu vực tài chính chính thức phát triển. Ngược lại, trên khía cạnh rủi ro, sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức. Đây là phát hiện mới của mô hình so với El-Maksoud (2016). Kết quả này chỉ ra rằng để đảm bảo hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM chính thức cần thiết phải có một ngưỡng tối thiểu nhất định cho sự phát triển của ngành ngân hàng trước khi tổ chức TCVM chính thức có thể hoạt động. Bên cạnh đó, kết quả mô hình cho biết, quy mô tổ chức tác động tích cực đến hiệu quả tài chính trên khía cạnh chi phí và lợi nhuận; trong khi đó lại có tác động tiêu cực trên khía cạnh rủi ro. Kết luận này hàm ý rằng, để gia tăng hiệu quả tài chính, các tổ chức TCVM chính thức có thể tiến hành mở rộng quy mô hoạt động song song với thực thi quản lý rủi ro hiệu quả. Nghiên cứu này chưa đánh giá được tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến hiệu quả xã hội, cũng như chưa đánh giá được mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Đây là hướng có thể phát triển cho các nghiên cứu tiếp theo ■ Tài liệu tham khảo 1. ADB (2000), Finance for the Poor: Microfinance Development Strategy, retrieved on September 16th 2018, from 2. Beck, Demirguc-Kunt & Martinez Peria (2007), ‘Reaching out: Access to and Use of Banking Services Across Countries’, Journal of Financial Economics, No 85(1), pp. 234–26 3. Đặng Thế Tùng (2017), ‘Vai trò của Fintech trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam’, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam, Nhà Xuất bản Lao động – Xã hội, Tập 1, Trang 343-366 4. El-Maksoud (2016), ‘Performance of Microfinance Institutions’, A Doctor of Philosophy, Cardiff School of Management 5. Hermes, Lensink & Meesters (2009), ‘Financial Development and the Efficiency of Microfinance Institutions’, Electronic copy available at: ,from 6. Ledgerwood (1999), Microfinance Hand Book: Institutional and financial Perspective, Washington D.C. the World Bank 7. Masawe (2013), ‘The Impact of Microfinance Efficiency on Sustainability of Microfinance Institutions in Tazania’, the Degree of Masters of Science in Accounting and Finance, Mzumbe University 8. Nguyễn Kim Anh, Lê Thanh Tâm, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Văn Thuyết, Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), ‘Tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách’, Nhóm Công tác Tài chính Vi mô Việt Nam 9. Nguyễn Khắc Minh (2004), Từ điển Toán kinh tế, Thống kê, Kinh tế lượng Anh – Việt, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội 10. Nhóm Công tác Tài chính vi mô Việt Nam, Danh bạ Tài chính vi mô hàng năm 11. Rose S.P. & Hudgins C.S. (2008), Bank Management & Financial Services, Seventh Edition, The McGraw-Hill Companies, Singapo 12. Trương Thị Hoài Linh (2012), ‘Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam’, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội 13. Vanroose & D’Espallier (2009), ‘Microfinance and Financial Sector Development’, CEB Working Paper, N° 09/040, retrieved on September 14th 2018, from <https://www.researchgate.net/publication/46465804_Microfinance_ and_Financial_Sector_Development/download>. 14. Phan Thị Hồng Thảo (2019), ‘Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam’, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ , Số 6(519), Tháng 3/2019, Trang 21-24
File đính kèm:
- su_phat_trien_cua_khu_vuc_ngan_hang_va_hieu_qua_tai_chinh_cu.pdf