Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam

Nghiên cứu đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến

hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam.

Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết quả cho thấy hệ thống ngân

hàng phát triển có thể thay thế các tổ chức tài chính vi mô chính thức trong

việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, các tổ chức này trở nên kém

bền vững hơn, chi phí hoạt động cao hơn và khả năng sinh lời thấp hơn khi

hệ thống ngân hàng phát triển. Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển sẽ

tạo ra những kỹ thuật mới lan tỏa sang lĩnh vực tài chính vi mô, làm cho các

tổ chức này hoạt động an toàn hơn, tỷ lệ dư nợ có rủi ro giảm.

Từ khóa: Hiệu quả tài chính; Tổ chức tài chính vi mô chính thức; Sự phát

triển của khu vực ngân hàng.

pdf 13 trang phuongnguyen 400
Bạn đang xem tài liệu "Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam

Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam
52
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 217- Tháng 6. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả 
tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại 
Việt Nam
Phan Thị Hồng Thảo
Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh
Ngày nhận: 14/09/2019 Ngày nhận bản sửa: 06/04/2020 Ngày duyệt đăng: 17/04/2020
Nghiên cứu đánh giá tác động sự phát triển của khu vực ngân hàng đến 
hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam. 
Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết quả cho thấy hệ thống ngân 
hàng phát triển có thể thay thế các tổ chức tài chính vi mô chính thức trong 
việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, các tổ chức này trở nên kém 
bền vững hơn, chi phí hoạt động cao hơn và khả năng sinh lời thấp hơn khi 
hệ thống ngân hàng phát triển. Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển sẽ 
tạo ra những kỹ thuật mới lan tỏa sang lĩnh vực tài chính vi mô, làm cho các 
tổ chức này hoạt động an toàn hơn, tỷ lệ dư nợ có rủi ro giảm. 
Từ khóa: Hiệu quả tài chính; Tổ chức tài chính vi mô chính thức; Sự phát 
triển của khu vực ngân hàng.
The development of banking sector and financial efficiency of formal microfinance institution: the 
case of Vietnam 
Abstract: This paper analyzes the impacts of the development of banking sector on financial efficiency of 
formal microfinance institutions in Vietnam. Using data panel regression model, this study shows that the 
development of the banking sector can substitute the formal microfinance institutions in providing services 
to custormes. Therefore, these organizations become less sustainable, higher operating costs and lower 
profitability when the banking system grows. On the other hand, the developed banking system will create new 
techniques that spread to the microfinance sector, making these organizations safer, portfolio at risk decreases.
Keywords: Development of banking, financial efficiency, formal microfinance institution
Thao Thi Hong Phan
Email: thaopth@hvnh.edu.vn
Banking Academy of Vietnam - Bacninh Campus
1. Đặt vấn đề
Tài chính vi mô (TCVM) đóng một vai 
trò rất quan trọng đối với phát triển kinh 
tế- xã hội, đặc biệt là công cuộc giảm 
nghèo và phát triển xã hội tại các quốc gia 
đang phát triển (Nguyễn Kim Anh và cộng 
sự, 2014). Tại Việt Nam, sau một chặng 
PHAN THỊ HỒNG THẢO
53Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
đường dài (hơn 3 thập kỷ), hoạt động 
TCVM đã tỏ rõ vai trò quan trọng trong 
việc gia tăng mức độ tiếp cận dịch vụ tài 
chính cho người nghèo/người có thu nhập 
thấp (Nguyễn Kinh Anh & cộng sự, 2014). 
Thông qua việc tiếp vốn cho sản xuất 
kinh doanh, TCVM giúp người nghèo tạo 
thu nhập, cải thiện cuộc sống, đồng thời 
giảm thiểu các ảnh hưởng của khu vực phi 
chính thức đắt đỏ. Bằng cách này, TCVM 
đã có những đóng góp tích cực trong công 
cuộc xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an 
sinh xã hội và thúc đẩy sự phát triển của 
nền kinh tế. Chương trình TCVM du nhập 
vào Việt Nam từ năm 1987 và chứng kiến 
sự phát triển nhanh chóng trong khoảng 
thời gian từ cuối thập niên 80 đến cuối 
thập niên 90. Trong khoảng thời gian này, 
chương trình TCVM nhận được sự hỗ trợ 
chủ yếu về vốn và kỹ thuật từ các tổ chức 
phi chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, đến 
những năm đầu của thế kỷ XXI, hoạt động 
TCVM gặp nhiều khó khăn. Trong khi 
nhiều chương trình, dự án lần lượt đóng 
cửa thì cũng có nhiều tổ chức nỗ lực tìm 
cách tồn tại và phát triển. 
Cùng với sự thay đổi các qui định pháp 
lý về TCVM, làn sóng chính thức hóa đã 
diễn ra, đầu tiên là tổ chức TCVM trách 
nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên 
Tình Thương (TYM) vào năm 2010. Tiếp 
đó, nhiều tổ chức khác, cũng lên kế hoạch 
chuyển đổi thành tổ chức chính thức. Tính 
đến thời điểm hiện tại, 4 tổ chức TCVM 
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
(NHNN) cấp phép gồm: TYM, tổ chức 
TCVM TNHH M7 (M7MFI), tổ chức 
TCVM TNHH Thanh Hóa (Thanh Hóa 
MFI) và tổ chức TCVM TNHH một thành 
viên cho người lao động nghèo tự tạo việc 
làm (CEP). 
Trong thời gian triển khai hoạt động, các 
tổ chức TCVM chính thức đã đạt được 
nhiều thành quả đáng kể về hiệu quả tài 
chính như: quy mô hoạt động ngày càng 
mở rộng, khả năng sinh lời và độ tự vững 
được duy trì ở mức cao, tỷ lệ chi phí hoạt 
động có xu hướng giảm, tỷ lệ dư nợ có rủi 
ro ở mức thấp. Tuy nhiên, bên cạnh những 
thành quả đó, hiệu quả tài chính của các 
tổ chức này còn bộc lộ một số hạn chế 
như quy mô và tốc độ tăng trưởng chưa 
ổn định và đồng đều, độ tự vững chưa ổn 
định, hoạt động vẫn tiềm ẩn rủi ro (Phan 
Thị Hồng Thảo, 2019). Những tồn tại này 
tác động tiêu cực và đáng kể đến vai trò, 
sứ mệnh của tổ chức. Vì vậy, để đảm bảo 
phát triển bền vững, đòi hỏi phải có sự 
nghiên cứu, đánh giá về các nhân tố ảnh 
hưởng đến hiệu quả tài chính của các tổ 
chức TCVM chính thức.
Hiệu quả tài chính chịu sự chi phối bởi 
nhiều nhân tố, cả về phía môi trường, 
cũng như các nhân tố bên trong tổ chức. 
Các nhân tố môi trường gồm: sự thay đổi 
của các qui định pháp lý, sự thay đổi của 
các yếu tố trong môi trường kinh tế, sự 
phát triển của các ngân hàng ở khu vực 
chính thức Trong đó, sự phát triển của 
hệ thống ngân hàng chính thức là nhân tố 
quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của 
tổ chức TCVM (Vanrosee & D’Espallier, 
2009). Thực tế hiện nay, thị trường TCVM 
Việt Nam có sự tham gia rất tích cực của 
các ngân hàng thương mại (Ngân hàng 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt 
Nam- Agribank, Ngân hàng Liên Việt, 
Ngân hàng Cộng đồng hiện đã được sáp 
nhập vào ngân hàng bán lẻ của Maritime 
Bank), Ngân hàng Chính sách xã hội 
Việt Nam- VBSP, Ngân hàng Hợp tác- 
Coopbank và hệ thống Quỹ tín dụng nhân 
dân- PCF. Ba tổ chức dẫn đầu thị trường 
TCVM Việt Nam về qui mô và số lượng 
khách hàng là VBSP, Agribank, Coopbank 
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
và PCF. Trong đó, Agribank và VBSP thu 
hút tới 79% số lượng khách hàng và dư 
nợ tín dụng (Nhóm công tác TCVM Việt 
Nam, 2016). So với các tổ chức TCVM 
chính thức, đây là những tổ chức có lợi thế 
về quy mô, mạng lưới hoạt động, cán bộ 
cũng như sự ưu đãi lớn từ Chính phủ và 
trở thành đối thủ cạnh tranh đáng kể của 
các tổ chức TCVM chính thức. 
Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá 
tác động sự phát triển của hệ thống ngân 
hàng ở khu vực chính thức đến hiệu quả 
tài chính của các tổ chức TCVM chính 
thức ở Việt Nam. Với ý nghĩa đó, nghiên 
cứu này tập trung đánh giá tác động sự 
phát triển của khu vực ngân hàng đến 
hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM 
chính thức tại Việt Nam. Phần còn lại của 
bài báo được cấu trúc như sau: Tổng quan 
nghiên cứu (phần 2), mô hình và phương 
pháp nghiên cứu (phần 3), kết quả và thảo 
luận (phần 4), kết luận (phần 5).
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Tổ chức tài chính vi mô chính thức
TCVM ra đời đã thu hút sự quan tâm của 
rất nhiều nhà nghiên cứu. Các khái niệm 
về TCVM rất đa dạng. Theo Ledgerwood 
(1999), “TCVM là một phương pháp phát 
triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho 
dân cư có thu nhập thấp Cùng với trung 
gian tài chính, nhiều tổ chức TCVM cung 
cấp các dịch vụ trung gian xã hội”. Như 
vậy, theo quan niệm này, TCVM không 
phải là một hoạt động từ thiện, TCVM là 
một phương pháp để phát triển kinh tế. 
Theo đó, TCVM không chỉ đơn thuần là 
tín dụng vi mô mà còn bao gồm nhiều dịch 
vụ tài chính và phi tài chính khác. Trong 
khi đó, ADB (2000) cho rằng TCVM 
chỉ tập trung đề cập đến các dịch vụ tài 
chính cho người nghèo, bao gồm tiền gửi, 
cho vay, thanh toán, chuyển tiền và bảo 
hiểm. Cũng theo quan điểm này, “Tổ chức 
TCVM là tổ chức có hoạt động kinh doanh 
chính là cung cấp dịch vụ TCVM”, các tổ 
chức này có thể ở khu vực chính thức hoặc 
bán chính thức. Ở khu vực chính thức, bao 
gồm các tổ chức hoạt động trên cơ sở giấy 
phép của Ngân hàng Trung ương (NHTW) 
cấp, chịu sự quản lý và giám sát của 
NHTW. Các tổ chức TCVM chính thức 
được đề cập tới trong nghiên cứu này là 
những tổ chức TCVM nhận tiền gửi được 
NHNN cấp phép và quản lý trên cơ sở 
chuyển đổi từ các tổ chức phi chính phủ.
2.2. Hiệu quả tài chính của các tổ chức 
tài chính vi mô chính thức
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng 
rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, 
kỹ thuật và xã hội. Trong lĩnh vực kinh 
tế, hiệu quả là mối tương quan giữa yếu 
tố đầu vào khan hiếm với đầu ra hàng 
hóa dịch vụ (Nguyễn Khắc Minh, 2004). 
Phân tích hiệu quả là cần thiết để đánh 
giá hoạt động của trung gian tài chính 
nói chung và tổ chức TCVM chính thức 
nói riêng. Vì vậy, nghiên cứu về hiệu quả 
đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà 
nghiên cứu. Đối với tổ chức TCVM, hiệu 
quả là cần thiết để thúc đẩy sự bền vững, 
đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gia 
tăng (Masawe, 2013). Đồng thời Masawe 
(2013) cho rằng: “Hiệu quả trong TCVM 
là một câu hỏi về việc tổ chức TCVM 
phân bổ đầu vào như thế nào (chẳng hạn 
như tài sản, nhân viên, trợ cấp) để tạo ra 
sản lượng tối đa (như số lượng khoản vay, 
tự vững tài chính và tiếp cận đói nghèo)”. 
Rose & Hudgins (2008) đề xuất thước 
đo phản ánh rõ nhất hiệu quả trong hoạt 
động của tổ chức tài chính là tỷ lệ hiệu 
PHAN THỊ HỒNG THẢO
55Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
quả hoạt động, được xác định bằng tỷ lệ 
giữa tổng chi phí hoạt động với tổng thu 
từ hoạt động. Đối với một tổ chức, hiệu 
quả được đề cập tới bao gồm hiệu quả 
tài chính (hiệu quả hạch toán kinh tế), 
là hiệu quả được xem xét trong phạm vi 
một chủ thể và hiệu quả kinh tế xã hội, là 
hiệu quả được đánh giá trên phạm vi toàn 
bộ nền kinh tế (Trương Thị Hoài Linh, 
2012). Cũng như các tổ chức khác, hiệu 
quả của tổ chức TCVM bao gồm hiệu quả 
tài chính và hiệu quả xã hội. Trong thời 
kỳ đầu, tổ chức TCVM hoạt động chủ 
yếu dựa vào các nguồn tài trợ, vì vậy vấn 
đề hiệu quả xã hội liên quan đến tiếp cận 
cộng đồng và tác động của TCVM được 
quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, khi TCVM 
ngày càng phát triển, số lượng các tổ chức 
TCVM ngày càng gia tăng trong điều kiện 
các nguồn tài trợ ngày càng eo hẹp, đòi 
hỏi các tổ chức TCVM phải huy động các 
nguồn lực bên ngoài thông qua con đường 
chính thức hóa. Sự thay đổi về hình thức 
pháp lý này làm cho tổ chức TCVM trở 
thành một trung gian tài chính thực sự, huy 
động vốn và cho vay. Do đó, để bù đắp 
được các khoản chi phí, đặc biệt là chi phí 
huy động, nhằm đảm bảo cung cấp dịch 
vụ phù hợp cho người nghèo một cách bền 
vững thì hiệu quả tài chính lại trở nên quan 
trọng hơn so với mục tiêu, tôn chỉ ban đầu. 
Hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM là 
một khái niệm rộng, được xem xét dưới 
nhiều góc độ như độ tự vững, lợi nhuận, 
chi phí và rủi ro. Vanrosee & cộng sự 
(2009) đã sử dụng chỉ tiêu tự vững hoạt 
động (OSS), tỷ suất sinh lời của tài sản 
(ROA) và tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở 
hữu (ROE) để đánh giá hiệu quả của các 
tổ chức TCVM. Masawe (2013) đã đề xuất 
11 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của 
tổ chức TCVM trên khía cạnh về chi phí, 
lợi nhuận, rủi ro và hiệu suất nguồn nhân 
lực. Trong khi đó El-Maksoud (2016) lại 
tập trung vào khía cạnh lợi nhuận để đánh 
giá hoạt động của tổ chức TCVM thông 
qua chỉ tiêu OSS, tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 
ngày, tỷ lệ mất vốn, lãi suất cho vay bình 
quân, chi phí bình quân, lợi nhuận gộp, 
chi phí cho mỗi người vay và chi phí trên 
mỗi đồng đô la cho vay. Trong nghiên cứu 
này, tác giả đánh giá hiệu quả tài chính 
của các tổ chức TCVM chính thức trên các 
khía cạnh độ tự vững, chi phí, lợi nhuận 
và mức độ an toàn thông qua các chỉ tiêu: 
tự vững hoạt động (OSS), tỷ lệ chi phí 
hoạt động (OER), tỷ suất sinh lời trên tài 
sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ 
sở hữu (ROE) và tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 
ngày (PAR30).
2.3. Sự phát triển của khu vực ngân hàng
Sự phát triển của khu vực ngân hàng đề 
cập đến những thay đổi về đặc điểm của 
hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Hầu 
hết các nghiên cứu trước đây đã sử dụng 
các chỉ số truyền thống về phát triển tài 
chính để đánh giá sự phát triển của khu 
vực ngân hàng chính thức (El-Maksoud, 
2016). Các chỉ số thường được sử dụng 
gồm tỷ lệ M2/GDP và tỷ lệ tín dụng tư 
nhân trên GDP. Tuy nhiên, hạn chế của 
các chỉ số này là không phản ánh được 
mức độ trung gian của ngân hàng cũng 
như không kiểm soát được các khoản nợ 
xấu. Hơn nữa, các chỉ tiêu về hiệu quả và 
qui mô của ngành ngân hàng chính thức 
hầu như không có ảnh hưởng đáng kể đến 
hoạt động của tổ chức TCVM. Vì vậy, các 
chỉ số về thâm nhập ngân hàng là phép đo 
tốt hơn về sự phát triển của khu vực ngân 
hàng (Beck, Demirguc-Kunt & Martinez 
Peria, 2007). Các chỉ số thâm nhập ngân 
hàng gồm chỉ số thâm nhập về địa lý (số 
chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2, số 
lượng ATM ngân hàng trên 1.000 km2) 
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
và chỉ số thâm nhập về nhân khẩu học (số 
lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 
người, số lượng ATM trên 100.000 người) 
(Beck & cộng sự, 2007). Vanrosee và 
cộng sự (2009) đã sử dụng tỷ lệ tín dụng 
trên GDP (độ sâu tài chính) và số ATM 
có sẵn trên 1 triệu dân (tiếp cận) để phản 
ánh sự phát triển của ngành tài chính. Tác 
giả El-Maksoud (2016) đã sử dụng cả chỉ 
số truyền thống (tỷ lệ tín dụng đối với khu 
vực tư nhân trên GDP và tỷ lệ nợ phải trả 
trên GDP) và các chỉ số thâm nhập ngân 
hàng (số lượng chi nhánh ngân hàng trên 
100.000 người trưởng thành và số lượng 
ATM trên 100.000 người trưởng thành) để 
đánh giá sự phát triển của hệ thống ngân 
hàng chính thức. Trong nghiên cứu này, 
tác giả đánh giá sự phát triển của hệ thống 
ngân hàng Việt Nam thông qua chỉ số 
thâm nhập ngân hàng (số lượng chi nhánh 
ngân hàng trên 100.000 người trưởng 
thành- Commercial bank branches (per 
100,000 adults)).
2.4. Mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính 
của các tổ chức tài chính vi mô với sự 
phát triển của khu vực ngân hàng
Hiện nay, có hai quan điểm đối lập về mối 
quan hệ giữa hiệu quả tài chính của tổ 
chức TCVM và sự phát triển của khu vực 
ngân hàng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, 
khu vực ngân hàng phát triển sẽ góp phần 
cải thiện hiệu quả tài chính của các tổ 
chức TCVM. Bởi khi hệ thống ngân hàng 
phát triển sẽ cung cấp một môi trường 
cạnh tranh hơn, từ đó kích thích các tổ 
chức TCVM giảm chi phí, nâng cao hiệu 
quả tài chính bằng cách đa dạng hóa và cải 
thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Hơn 
nữa, sự phát triển của hệ thống tài chính 
và khu vực ngân hàng có thể tạo ra những 
kỹ thuật ngân hàng và sáng kiến tài chính 
mới có thể gây ra hiệu ứng lan tỏa sang thị 
trường TCVM. Thêm vào đó, cạnh tranh 
còn giúp các tổ chức TCVM nâng cao 
hiệu quả tài chính thông qua cải thiện kỹ 
năng của cán bộ cho vay cũng như cán bộ 
quản lý. Qu ... hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
Kết quả hồi quy theo mô hình OLS cho 
biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển 
của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu 
cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan 
hệ tích cực với biến OER. Mô hình không 
tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê 
giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng 
với biến ROE.
4.2.2. Kết quả hồi quy theo mô hình FEM
Kết quả hồi quy theo mô hình FEM cho 
biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển 
của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu 
cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan hệ 
tích cực với biến OER. Riêng mô hình với 
biến phụ thuộc ROE không phù hợp bởi 
giá trị Prob> 0,05.
4.2.3. Kết quả hồi quy theo mô hình REM
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan
OSS OER ROA ROE PAR30 BP log_size
OSS 1
OER -0,4861 1
ROA 0,7664 -0,2532 1
ROE 0,3522 -0,2205 0,6095 1
PAR30 0,2496 -0,1938 0,3539 0,2437 1
BP -0,56 0,1135 -0,4127 -0,1077 -0,0806 1
log_size 0,1293 -0,4364 0,1983 0,2487 0,4789 0,3334 1
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Bảng 4. Kết quả hồi quy theo mô hình OLS
Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30
BP -64,06077*** 2,825007* -5,94489*** -0,4590686 -0.2188933*
log_size 6,071801** -0,9359982*** 0,7544486** 0,187837*** 0,0833861***
Hằng số 288,8093*** 14,14968*** 16,57445*** 2,097836* -0,110009
Prob 0,0000 0,0033 0,0015 0,0196 0,0016
R2 42,59 26,59 29,73 19,16 29,43
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Bảng 5. Kết quả hồi quy theo mô hình FEM
 Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30
BP -50,10072*** 3,387747** -4,010736** -0,4432564 -0,2159522**
log_size -1,592163 -1,245006** -0.3043822 0,1785606 0,0825924***
Hằng số 355,2246*** 16,02156*** 22,96912*** 2,157676 -0,1104876
Prob 0,0001 0,0314 0,0103 0,2569 0,0246
R2 25,15 26,51 7,46 10,16 29,43
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
PHAN THỊ HỒNG THẢO
61Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Kết quả hồi quy theo mô hình REM cho 
biết, với giá trị Prob< 0,05, sự phát triển 
của hệ thống ngân hàng có quan hệ tiêu 
cực với OSS, ROA, PAR30; và có quan 
hệ tích cực với biến OER. Mô hình không 
tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê 
giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng 
với biến ROE.
4.2.4. Chọn mô hình hồi quy
Trước hết, tác giả sử dụng kiểm định 
Hausman để lựa chọn mô hình FEM hay 
REM. Tiếp theo, để lựa chọn mô hình REM 
Bảng 6. Kết quả hồi quy theo mô hình REM
 Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30
BP -64,06077*** 2,825007* -5,944489*** -0,449279 -0,2161361**
log_size 6,071801*** -0,9359982*** 0,7544486** 0,1820381** 0,082542***
Hằng số 288,8093*** 14,14968*** 16,57445*** 2,139194* -0,1139128
Prob 0,0000 0,0012 0,0004 0,0951 0,0051
R2 42,59 26,59 29,73 19,16 29.43
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Bảng 7. Kết quả kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier
 OSS OER ROA ROE PAR30
Kiểm định Hausman
Prob> Chi2 0,0289 0,7286 0,0200 0,9987 0,7921
Kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier
Thống kê Chi2 0,00 0,07 18,28
Prob>Chi2 1,00 0,3932 0,0000
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Bảng 8. Kết quả hồi quy cuối cùng
Tên biến OSS OER ROA ROE PAR30
BP -50,0072*** 2,825007* -4,010736** -0,4590686 -0,2161361**
log_size -1,592163 -0,9359982*** -0,3043822 0,187837*** 0,082542***
Hằng số 355,2246*** 14,14968*** 22,96912*** 2,097836* -0,1139128
Prob 0,0001 0,0033 0,0103 0,0196 0,0051
R2 25,15 26,59 7,46 19,16 29.43
Mô hình FEM OLS FEM OLS REM
Kiểm định phương 
sai sai số thay đổi
Prob> Chi 2= 
0,4521
Prob> Chi 2= 
0,0699
Prob> Chi 2= 
0,0462
Prob> Chi 2 = 
0,0000
Prob> Chi 2= 
0,0000
Kiểm định đa cộng 
tuyến 1,13 1,13 1,13 1,13 1.41
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
hay OLS, tác giả sử dụng kiểm định Breusch-
Pagan Lagrange multiplier (Bảng 7).
Kết quả kiểm định cho thấy, biến phụ 
thuộc OSS và ROA có giá trị Prob< 0,05 
nên lựa chọn mô hình FEM. Với biến phụ 
thuộc PAR30 có giá trị Prob< 0,05 nên 
quyết định chọn mô hình REM; hai biến 
phụ thuộc còn lại có giá trị Prob> 0,05 nên 
quyết định chọn mô hình OLS.
Để kiểm định sự phù hợp của mô hình được 
chọn, tác giả sử dụng các kiểm định sau:
Với các mô hình OLS, tác giả sử dụng kiểm 
định Breusch-Pagan để kiểm tra hiện tượng 
phương sai sai số thay đổi. Với mô hình 
hồi quy biến OER, kết quả kiểm định cho 
thấy các giá trị Prob> Chi2> 0,05 chứng tỏ 
không có hiện tượng phương sai sai số thay 
đổi. Với biến ROE, giá trị Pbob> Chi2= 
0,0000 chứng tỏ có hiện tượng phương sai 
sai số thay đổi. Vì vậy, để khắc phục hiện 
tượng này, tác giả sử dụng mô hình sai số 
chuẩn mạch. Kết quả ước lượng theo mô 
hình sai số chuẩn mạch thể hiện trong Bảng 
9. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định VIF 
để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết 
quả kiểm định cho thấy, các giá trị VIF đều 
nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng 
đa cộng tuyến.
Với mô hình FEM, tác giả sử dụng kiểm 
định Wald để kiểm tra hiện tượng phương 
sai sai số thay đổi. Với mô hình hồi quy 
biến phụ thuộc OSS, kết quả kiểm định 
cho thấy giá trị Prob> Chi2= 0,4521> 
0,05; chứng tỏ không có hiện tượng 
phương sai sai số thay đổi. Với mô hình 
hồi quy biến phụ thuộc ROA, kết quả cho 
thấy giá trị Prob> Chi2= 0,0462< 0,05 
chứng tỏ có hiện tượng phương sai sai số 
thay đổi. Vì vậy, để khắc phục hiện tượng 
này, tác giả sử dụng mô hình sai số chuẩn 
mạch. Kết quả ước lượng theo mô hình 
sai số chuẩn mạch thể hiện trong Bảng 9. 
Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định VIF 
để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. 
Kết quả kiểm định cho thấy các giá trị VIF 
đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện 
tượng đa cộng tuyến.
Với mô hình REM, tác giả sử dụng kiểm 
định Breusch and Pagan Lagrangian để kiểm 
tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi. 
Kết quả kiểm định cho thấy giá trị Prob> 
Chi2= 0,0000< 0,05, chứng tỏ có hiện tượng 
phương sai sai số thay đổi. Vì vậy, để khắc 
phục hiện tượng này, tác giả sử dụng mô 
hình sai số chuẩn mạch. Kết quả ước lượng 
theo mô hình sai số chuẩn mạch thể hiện 
trong Bảng 9. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm 
định VIF để kiểm định hiện tượng đa cộng 
tuyến. Kết quả kiểm định cho thấy các giá trị 
VIF đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ không có hiện 
tượng đa cộng tuyến.
Kết quả hồi quy cuối cùng cho biết, sự 
phát triển của khu vực ngân hàng tác động 
tiêu cực đến hiệu quả tài chính của các 
tổ chức TCVM chính thức thông qua các 
biến OSS, OER và ROA. Cụ thể, khi hệ 
thống ngân hàng phát triển thì khả năng tự 
vững và sinh lời của các tổ chức TCVM 
chính thức giảm, đồng thời, tỷ lệ chi phí 
hoạt động tăng. Kết quả này phù hợp với 
kỳ vọng của mô hình và nghiên cứu của 
Vanrosee & cộng sự (2009), El-Maksoud 
(2016). Điều này được lý giải bởi sự phát 
triển của hệ thống ngân hàng ở khu vực 
chính thức đã tạo áp lực cạnh tranh ngày 
càng gia tăng. Về lĩnh vực huy động vốn, 
trong điều kiện các khoản vốn tài trợ và 
vay ưu đãi ngày càng eo hẹp, thì các tổ 
chức TCVM chính thức sẽ phải cạnh tranh 
với các ngân hàng về lãi suất cũng như sự 
thuận tiện của các khoản tiền gửi. Sự cạnh 
tranh này làm tăng chi phí tài chính cũng 
PHAN THỊ HỒNG THẢO
63Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
như chi phí hoạt động của tổ chức TCVM. 
Hơn nữa, về lĩnh vực cho vay, tổ chức 
TCVM chính thức cũng gặp phải những 
khó khăn trong cạnh tranh về lãi suất cho 
vay, vì vậy doanh thu giảm, lợi nhuận 
giảm. Kết quả là, độ tự vững và khả năng 
sinh lời của tổ chức TCVM chính thức 
giảm, trong khi tỷ lệ chi phí hoạt động tăng. 
Bên cạnh đó, mô hình cũng tìm thấy mối 
quan hệ tích cực giữa sự phát triển của 
khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính 
của các tổ chức TCVM chính thức thông 
qua biến PAR 30. Cụ thể, khi hệ thống 
ngân hàng càng phát triển thì tỷ lệ dư nợ 
rủi ro trên 30 ngày của các tổ chức TCVM 
chính thức càng giảm, tại mức ý nghĩa 
thống kê 1%. Kết quả này ngược lại với 
kỳ vọng của mô hình và là phát hiện mới 
của nghiên cứu. Mối quan hệ này được lý 
giải bởi hệ thống ngân hàng phát triển sẽ 
tạo ra những kỹ thuật và sáng kiến mới lan 
tỏa sang lĩnh vực TCVM. Với những kỹ 
thuật và sáng kiến mới này sẽ giúp nâng 
cao mức độ an toàn trong hoạt động của tổ 
chức TCVM chính thức.
Tương tự, nghiên cứu cũng tìm thấy tồn 
tại mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô và 
hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM 
chính thức qua chỉ số PAR30. Cụ thể, khi 
quy mô tổ chức tăng thì tỷ lệ dư 
nợ rủi ro tăng tại mức ý nghĩa 
1%. Kết quả này ngược lại với 
kỳ vọng của mô hình và nghiên 
cứu của El-Maksoud (2016). 
Điều này được lý giải bởi, nếu 
tổ chức chú trọng mở rộng quy 
mô tài sản mà không đi kèm với 
các biện pháp tăng cường đảm 
bảo an toàn thì rủi ro sẽ gia tăng 
và qua đó tác động tiêu cực đến 
hiệu quả tài chính của tổ chức. 
Ở một khía cạnh khác, quy mô 
của tổ chức lại có tác động tích cực đến 
hiệu quả tài chính. Cụ thể, quy mô của tổ 
chức tăng làm giảm tỷ lệ chi phí hoạt động 
tại mức ý nghĩa 1% và tăng ROE tại mức 
ý nghĩa 5%. Kết quả này phù với kỳ vọng 
của mô hình và nghiên cứu của tác giả El-
Maksoud (2016). Đây là một minh chứng 
thực tế bổ sung cho quy luật hiệu quả kinh 
tế theo quy mô. 
5. Kết luận 
Trên cơ sở bộ dữ liệu bảng thu thập trong 
10 năm từ 4 tổ chức TCVM được NHNN 
cấp phép, nghiên cứu tiến hành đánh giá 
tác động sự phát triển của khu vực ngân 
hàng đến hiệu quả tài chính của các tổ 
chức TCVM chính thức. Với phương pháp 
hồi quy dữ liệu bảng theo mô hình OLS, 
FEM và REM kết hợp với các kiểm định 
cần thiết để lựa chọn mô hình phù hợp 
nhất. Kết quả cuối cùng cho thấy sự phát 
triển của khu vực ngân hàng tác động đa 
chiều đến hiệu quả tài chính của tổ chức 
TCVM chính thức tại Việt Nam. Tùy 
thuộc vào từng khía cạnh cụ thể của hiệu 
quả tài chính được xem xét mà sự phát 
triển của khu vực ngân hàng tác động tích 
cực hay tiêu cực: Trên khía cạnh tự vững, 
chi phí và lợi nhuận, sự phát triển của khu 
vực ngân hàng tác động ngược chiều với 
Bảng 9. Kết quả hồi quy biến phụ thuộc theo mô hình 
sai số chuẩn mạch
Tên biến ROA ROE PAR30
BP -4,010736** -0,4590686 -0,2161361***
log_size -3,043822 0,187837** 0,082542***
Hằng số 22,96912*** 2,097836 -0,1139128
Prob 0,0000 0,0561 0,0001
R2 7,46 19,16 29.43
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 
1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua phần mềm Stata
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và hiệu quả tài chính của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM 
chính thức. Kết quả này làm rõ thêm luận 
điểm của Vanrosee & cộng sự (2009) và 
El-Maksoud (2016). Đồng thời, kết quả 
này làm rõ thêm luận điểm rằng, tổ chức 
TCVM chính thức phục vụ một thị trường 
ngách khác và phát triển hơn nơi ngành 
ngân hàng chính thức thất bại. Do đó, tổ 
chức TCVM chính thức có thể được coi 
là phương thức hỗ trợ khu vực tài chính 
chính thức phát triển. Ngược lại, trên khía 
cạnh rủi ro, sự phát triển của hệ thống 
ngân hàng lại có tác động tích cực đến 
hiệu quả tài chính của các tổ chức TCVM 
chính thức. Đây là phát hiện mới của mô 
hình so với El-Maksoud (2016). Kết quả 
này chỉ ra rằng để đảm bảo hiệu quả tài 
chính của các tổ chức TCVM chính thức 
cần thiết phải có một ngưỡng tối thiểu 
nhất định cho sự phát triển của ngành ngân 
hàng trước khi tổ chức TCVM chính thức 
có thể hoạt động. 
Bên cạnh đó, kết quả mô hình cho biết, 
quy mô tổ chức tác động tích cực đến hiệu 
quả tài chính trên khía cạnh chi phí và lợi 
nhuận; trong khi đó lại có tác động tiêu 
cực trên khía cạnh rủi ro. Kết luận này 
hàm ý rằng, để gia tăng hiệu quả tài chính, 
các tổ chức TCVM chính thức có thể tiến 
hành mở rộng quy mô hoạt động song 
song với thực thi quản lý rủi ro hiệu quả. 
Nghiên cứu này chưa đánh giá được tác 
động sự phát triển của khu vực ngân hàng 
đến hiệu quả xã hội, cũng như chưa đánh giá 
được mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và 
hiệu quả xã hội. Đây là hướng có thể phát 
triển cho các nghiên cứu tiếp theo ■
Tài liệu tham khảo
1. ADB (2000), Finance for the Poor: Microfinance Development Strategy, retrieved on September 16th 2018, from 
2. Beck, Demirguc-Kunt & Martinez Peria (2007), ‘Reaching out: Access to and Use of Banking Services Across 
Countries’, Journal of Financial Economics, No 85(1), pp. 234–26
3. Đặng Thế Tùng (2017), ‘Vai trò của Fintech trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam’, Kỷ yếu Hội thảo 
Quốc tế Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam, Nhà Xuất bản Lao động – Xã hội, Tập 1, Trang 343-366 
4. El-Maksoud (2016), ‘Performance of Microfinance Institutions’, A Doctor of Philosophy, Cardiff School of 
Management
5. Hermes, Lensink & Meesters (2009), ‘Financial Development and the Efficiency of Microfinance Institutions’, 
Electronic copy available at: ,from 
6. Ledgerwood (1999), Microfinance Hand Book: Institutional and financial Perspective, Washington D.C. the World 
Bank
7. Masawe (2013), ‘The Impact of Microfinance Efficiency on Sustainability of Microfinance Institutions in Tazania’, 
the Degree of Masters of Science in Accounting and Finance, Mzumbe University
8. Nguyễn Kim Anh, Lê Thanh Tâm, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Văn Thuyết, Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), ‘Tài 
chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách’, Nhóm Công tác Tài chính Vi mô Việt Nam
9. Nguyễn Khắc Minh (2004), Từ điển Toán kinh tế, Thống kê, Kinh tế lượng Anh – Việt, Nhà xuất bản Khoa học kỹ 
thuật, Hà Nội
10. Nhóm Công tác Tài chính vi mô Việt Nam, Danh bạ Tài chính vi mô hàng năm
11. Rose S.P. & Hudgins C.S. (2008), Bank Management & Financial Services, Seventh Edition, The McGraw-Hill 
Companies, Singapo
12. Trương Thị Hoài Linh (2012), ‘Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam’, Luận án Tiến sĩ 
kinh tế, Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội
13. Vanroose & D’Espallier (2009), ‘Microfinance and Financial Sector Development’, CEB Working Paper, N° 
09/040, retrieved on September 14th 2018, from <https://www.researchgate.net/publication/46465804_Microfinance_
and_Financial_Sector_Development/download>.
14. Phan Thị Hồng Thảo (2019), ‘Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam’, Tạp chí thị 
trường tài chính tiền tệ , Số 6(519), Tháng 3/2019, Trang 21-24

File đính kèm:

  • pdfsu_phat_trien_cua_khu_vuc_ngan_hang_va_hieu_qua_tai_chinh_cu.pdf