Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính tại Việt Nam

Các doanh nghiệp bảo hiểm thường được cho là một phân khúc tương đối

ổn định của hệ thống tài chính, do bảng cân đối tài sản của các doanh

nghiệp này bao gồm các khoản nợ ít tính thanh khoản. Bên cạnh đó, các

doanh nghiệp bảo hiểm còn góp phần ổn định thị trường tài chính thông

qua việc phân bổ rủi ro, bảo hiểm cho doanh nghiệp và hộ gia đình. Tuy

nhiên, với quy mô tài sản ngày càng tăng và sự đa dạng về các hàng hóa

bảo hiểm, cùng với sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa doanh nghiệp bảo

hiểm với ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp này có nguy cơ trở

thành nguồn lan truyền sự bất ổn tài chính từ khu vực này sang khu vực

khác

pdf 14 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính tại Việt Nam

Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính tại Việt Nam
106
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số Xuân 212+213- Tháng 1&2. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và 
những tác động đến ổn định tài chính tại Việt Nam
 Trương Hoàng Diệp Hương Phạm Mỹ Linh
Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 17/06/2019 Ngày nhận bản sửa: 06/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019
Các doanh nghiệp bảo hiểm thường được cho là một phân khúc tương đối 
ổn định của hệ thống tài chính, do bảng cân đối tài sản của các doanh 
nghiệp này bao gồm các khoản nợ ít tính thanh khoản. Bên cạnh đó, các 
doanh nghiệp bảo hiểm còn góp phần ổn định thị trường tài chính thông 
qua việc phân bổ rủi ro, bảo hiểm cho doanh nghiệp và hộ gia đình. Tuy 
nhiên, với quy mô tài sản ngày càng tăng và sự đa dạng về các hàng hóa 
bảo hiểm, cùng với sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa doanh nghiệp bảo 
hiểm với ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp này có nguy cơ trở 
thành nguồn lan truyền sự bất ổn tài chính từ khu vực này sang khu vực 
khác. Dựa trên số liệu báo cáo từ Cục Quản lý giám sát bảo hiểm- Bộ Tài 
chính, bài viết phân tích thực trạng phát triển của các doanh nghiệp bảo 
hiểm tại Việt Nam, từ đó đánh giá vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm 
tới sự ổn định tài chính tại Việt Nam qua quy mô đầu tư và mối quan hệ 
The development of insurance enterprises and their impacts on financial stability in Vietnam 
Insurance companies are often viewed as a relatively stable segment of the financial system, since the 
balance sheet of these companies includes low liquidity debts. In addition, insurance companies contribute 
to stabilizing the financial market through reallocating risks and insurance for businesses and households. 
However, with the increasing scale of assets and the diversity of insurance products, along with the increasingly 
close linkage between insurance companies and commercial banks, these businesses are at risk of becoming a 
source of contaging financial instability from one region to another. This paper analyzes the role of insurance 
businesses to financial stability in Vietnam, thereby drawing some policy implications. Based on data reported 
by the Department of Insurance Supervision- Ministry of Finance, the article analyzes the development of 
insurance companies in Vietnam, thereby assessing the role of insurance businesses to financial stability in 
Vietnam through the scale of investment and the relationship between these businesses and the banking 
system. Finally, the article draws some suggestions to enhance the effectiveness of macro prudential policies 
for insurance companies in Vietnam.
Keywords: insurance companies, financial stability
Huong Hoang Diep Truong
Email: huongthd@hvnh.edu.vn
Linh My Pham
Email: linhpm@hvnh.edu.vn
Organization of all: Institute of Banking Research, Banking Academy
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
107Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
giữa các doanh nghiệp này với hệ thống ngân hàng. Cuối cùng, bài viết rút 
ra một số gợi ý nhằm tăng cường hiệu quả của các chính sách an toàn vĩ 
mô đối với doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam.
Từ khóa: doanh nghiệp bảo hiểm, ổn định tài chính
1. Thực trạng phát triển của các doanh 
nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam
1.1. Sự phát triển về quy mô
Hoạt động bảo hiểm ở nước ta đã có sự 
phát triển mạnh, tính tới tháng 9/2018, 
cả nước có 64 doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực bảo hiểm, trong số đó có 
30 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 
18 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 02 
doanh nghiệp tái bảo hiểm và 14 doanh 
nghiệp môi giới bảo hiểm (Bộ Tài chính, 
2019). Nếu so sánh với thời điểm 15 năm 
trước (2003), thì số doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực bảo hiểm đã tăng gần 
3 lần, với các doanh nghiệp bảo hiểm phi 
nhân thọ và nhân thọ chiếm chủ yếu. 
Cùng với sự tăng lên về số lượng doanh 
nghiệp bảo hiểm, tổng doanh thu phí bảo 
hiểm cũng tăng mạnh từ mức 39,14 nghìn 
tỷ đồng năm 2010 lên mức 132,37 nghìn 
tỷ đồng năm 2017, với tốc độ tăng trưởng 
bình quân là 19%/năm (cao gấp 3,1 lần 
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân). Một 
điểm dễ nhận thấy là cơ cấu đóng góp của 
các loại hình bảo hiểm trong tổng doanh 
thu cũng có sự thay đổi theo biến động của 
các điều kiện kinh tế. Nếu trong giai đoạn 
2008- 2013 khi nền kinh tế gặp nhiều rủi 
ro, người dân quan tâm hơn tới các dịch 
vụ bảo hiểm phi nhân thọ; thì kể từ 2014 
trở lại đây, trong điều kiện thu nhập bình 
quân đầu người tăng, giá dịch vụ y tế tăng, 
và quỹ hưu trí giảm xuống, thì doanh thu 
ngành bảo hiểm chủ yếu tới từ dịch vụ 
bảo hiểm nhân thọ. Tính tới tháng 9/2018, 
doanh thu từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ 
cao gấp 2,65 lần doanh thu từ hoạt động 
bảo hiểm phi nhân thọ. Bên cạnh hoạt 
động bảo hiểm, thì hoạt động tái đầu tư 
cũng đem lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho 
các doanh nghiệp bảo hiểm, năm 2017, 
doanh thu tái đầu tư đạt mức 24,54 nghìn 
tỷ đồng, đóng góp 18,5% tổng doanh thu 
và tăng gần 3 lần so với năm 2010.
Sự lớn mạnh của doanh nghiệp bảo hiểm 
còn thể hiện ở năng lực tài chính. Với mức 
tăng trưởng bình quân là 18,09%/năm và 
18,67%/năm, tổng tài sản của các doanh 
nghiệp bảo hiểm đã tăng từ 99 nghìn tỷ 
đồng năm 2010 lên mức 370 nghìn tỷ 
đồng 9/2018, trong khi tổng dự phòng 
nghiệp vụ tăng từ mức 55 nghìn tỷ đồng 
lên mức 234 nghìn tỷ đồng, tương ứng. 
Xét riêng về tổng tài sản, thì kể từ 2013, 
các doanh nghiệp bảo hiểm đã vượt qua 
các công ty chứng khoán và công ty tài 
chính, trở thành tổ chức tài chính đứng thứ 
2, chỉ xếp sau các NHTM trong tổng số 
các tổ chức tài chính tại Việt Nam. Tương 
quan khác biệt giữa tổng tài sản của các 
NHTM với các doanh nghiệp bảo hiểm 
cũng không còn lớn như 6 năm trước (40,8 
lần năm 2011 so với 30,4 lần năm 2017).
Thị trường bảo hiểm cũng thể hiện sự 
cạnh tranh lớn, với mức độ tập trung cao 
vào một số doanh nghiệp chủ chốt. Tại 
phân khúc bảo hiểm phi nhân thọ, 7 doanh 
nghiệp bảo hiểm hàng đầu là Bảo Việt, 
PVI, Bảo Minh, PTI, Pijco, VASS, và 
BIC chiếm tới 68% thị phần, trong khi 23 
doanh nghiệp còn lại chia nhau 32% thị 
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính 
tại Việt Nam
108 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020
phần. Trong đó, Bảo Việt là doanh nghiệp 
bảo hiểm phi nhân thọ lớn nhất, chiếm 
19 % thị phần, theo sau là PVI (16% thị 
phần). Tại phân khúc bảo hiểm nhân thọ, 
5 doanh nghiệp lớn nhất là Bảo Việt Life 
(26%), Prudential (25%), Manulife (12%), 
Daiichi (12%), và AIA (9,5%), 13 doanh 
nghiệp còn lại chia nhau 15,5% thị phần. 
Theo nhận định của SSI (2018), chính sự 
cạnh tranh khốc liệt và các quy định ngày 
càng chặt chẽ về vốn pháp định là những 
rào cản gia nhập thị trường bảo hiểm tại 
Việt Nam.
So với các quốc gia trên thế giới, thị 
trường bảo hiểm Việt Nam vẫn còn nhiều 
tiềm năng phát triển. Hình dưới cho thấy 
các quốc gia phát triển có mật độ bảo hiểm 
(doanh thu phí bảo hiểm trên đầu người) 
và mức độ thâm nhập của thị trường bảo 
hiểm (doanh thu phí bảo hiểm trên GDP) 
đều ở mức cao (trung bình 3.517 USD và 
7,8%); trong khi đó, các quốc gia mới nổi 
có mật độ bảo hiểm và mức độ thâm nhập 
thị trường bảo hiểm ở mức thấp hơn (166 
USD và 3,3%, tương ứng) (Swiss re sigma 
8, 2018). Có thể nhận thấy, quy mô của 
thị trường bảo hiểm tỷ lệ thuận với mức 
độ phát triển kinh tế. Nói cách khác, khi 
thu nhập đầu người tăng lên, người dân 
có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho dịch 
vụ bảo hiểm nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi 
của mình trước những rủi ro có thể xảy 
đến. Nếu xét thị trường bảo hiểm tại Việt 
Nam năm 2017, mức độ bảo hiểm mới 
đạt 50 USD, trong khi mức độ thâm nhập 
Hình 1. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Hình 2. Quy mô thị trường bảo hiểm
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
109Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
mới đạt 2,2%, thấp hơn nhiều so với mức 
trung bình chung của thế giới (650 USD 
và 6,1%, tương ứng). Điều này cho thấy 
dư địa phát triển của ngành Bảo hiểm Việt 
Nam vẫn còn rất lớn.
1.2. Sự phát triển về sản phẩm
Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đẩy mạnh 
phát triển sản phẩm mới theo hướng ngày 
càng hoàn thiện và đa dạng hóa, trên cả 
hai phân khúc thị trường bảo hiểm phi 
nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ.
1.2.1. Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ
Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, quy 
mô phát triển của các nghiệp vụ bảo hiểm 
đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, từ mức 
13,8 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên mức 
41,59 nghìn tỷ đồng năm 2017. Trong đó, 
mức tăng trưởng lớn nhất thuộc về nghiệp 
vụ bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính 
(22,47 lần), tiếp đó là bảo hiểm thiệt hại 
kinh doanh (13,36 lần) và bảo hiểm sức 
khỏe (4,89 lần). Điều này cho thấy sức 
khỏe của nền kinh tế đã được phản ánh 
vào thị trường bảo hiểm. Khi nền kinh tế 
gặp vấn đề ở khâu nào thì mức độ người 
dân và doanh nghiệp tham gia bảo hiểm ở 
khâu đó sẽ tăng lên. 
Hình 3. Tổng tài sản và tổng dự phòng nghiệp vụ của các công ty bảo hiểm
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
 Thị trường phi nhân thọ Thị trường nhân thọ
Hình 4. Thị phần doanh thu phí bảo hiểm năm 2017
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính 
tại Việt Nam
110 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020
Về mặt sản phẩm, số lượng sản phẩm bảo 
hiểm phi nhân thọ tăng từ 200 sản phẩm 
năm 1999 lên hơn 1000 sản phẩm năm 
2019 (Bảo Việt Securities, 2019). Đặc 
biệt, kể từ năm 2014 đã xuất hiện thêm 
nghiệp vụ bảo hiểm bảo lãnh. Đây là 
nghiệp vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ 
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo 
lãnh nếu khi đến thời hạn mà bên được 
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện 
không đúng nghĩa vụ của mình. Sự tăng 
mạnh về số lượng và sự đa dạng về loại 
hình bảo hiểm đã đặt ra những thách thức 
nhất định trong công tác quản lý thị trường 
bảo hiểm phi nhân thọ.
Về mặt cơ cấu, qua 7 năm, bảo hiểm xe 
cơ giới vẫn là nghiệp vụ đem lại doanh 
thu cao nhất cho các doanh nghiệp bảo 
hiểm phi nhân thọ (chiếm 1/3 doanh thu). 
Tuy nhiên, cơ cấu doanh thu đã có sự thay 
đổi, sự đóng góp của nghiệp vụ bảo hiểm 
sức khỏe đã tăng từ mức 14% năm 2010 
lên mức 26% năm 2017, ngược lại sự 
đóng góp của bảo hiểm tài sản và thiệt hại 
giảm từ 22% xuống còn 15%, tương ứng. 
Ô nhiễm môi trường, nguy cơ mắc bệnh 
hiểm nghèo và chi phí dịch vụ y tế tăng 
lên là các nguyên nhân dẫn đến việc người 
dân quan tâm hơn đến dịch vụ bảo hiểm 
sức khỏe. Chỉ tính riêng nghiệp vụ này, 
theo thống kê của the banker (2019), đã có 
đến 61 loại sản phẩm bảo hiểm khác nhau, 
đa dạng về đối tượng thụ hưởng, phí bảo 
hiểm, thời gian bảo hiểm, các loại bệnh 
được bảo hiểm đến đơn vị cung cấp. 
1.2.2. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, quy 
mô phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm còn 
tăng lên nhiều hơn thị trường bảo hiểm phi 
nhân thọ. Với mức tăng 4,8 lần trong vòng 
7 năm, tổng doanh thu các nghiệp vụ bảo 
hiểm nhân thọ tăng từ mức 13,77 nghìn tỷ 
đồng lên mức 66,23 nghìn tỷ đồng. Trong 
đó, loại trừ các nghiệp vụ mới phát sinh, 
thì mức tăng nhiều nhất thuộc về nghiệp vụ 
bảo hiểm trả tiền định kỳ (14,8 lần), tiếp đó 
là nghiệp vụ liên kết đầu tư (13,08 lần). 
Về mặt sản phẩm, số lượng sản phẩm bảo 
hiểm nhân thọ đã tăng từ 100 sản phẩm 
năm 2009 lên 350 sản phẩm năm 2016 
Hình 5. Quy mô phát triển của thị trường bảo hiểm của Việt Nam so với thế giới
Nguồn: Swiss re sigma 5/2018, 2018
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
111Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
(Bảo Việt Securities, 2019); đặc biệt là sự 
xuất hiện của 3 nghiệp vụ mới là nghiệp 
vụ bảo hiểm nhóm phát sinh từ 2016, bảo 
hiểm nhân thọ kèm bảo hiểm sức khỏe 
phát sinh từ 2016, và bảo hiểm hưu trí 
phát sinh từ 2014. Trong đó, bảo hiểm 
nhóm là việc bảo hiểm cho một nhóm 
người tham gia bảo hiểm đồng nhất nhằm 
áp dụng quy luật số đông, thay vì bảo 
hiểm cho 1 người hoặc người trong cùng 1 
gia đình như trước đây. Bảo hiểm hưu trí 
là bảo hiểm mà người tham gia đóng góp 
tiền tiết kiệm định kỳ vào các sản phẩm 
hưu trí và sẽ được nhận chi trả từ quỹ khi 
đến tuổi nghỉ hưu, còn bảo hiểm nhân thọ 
sức khỏe là sản phẩm bảo hiểm kết hợp 
đặc điểm của cả bảo hiểm nhân thọ và bảo 
hiểm sức khỏe. Như vậy, các sản phẩm 
bảo hiểm nhân thọ đã có sự đa dạng và 
phức tạp hơn nhiều so với giai đoạn trước. 
Điều này khiến việc quản lý thị trường bảo 
hiểm nhân thọ gặp nhiều khó khăn.
Hình 6. Quy mô phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Hình 7. Cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ gốc theo nghiệp vụ 
 2010 2017
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính 
tại Việt Nam
112 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020
Về mặt cơ cấu, bảo hiểm hỗn hợp tiếp tục 
là loại hình bảo hiểm nhân thọ được ưa 
chuộng nhất. Tuy nhiên, cùng với sự ra 
đời của các sản phẩm bảo hiểm mới, mức 
độ đóng góp của bảo hiểm hỗn hợp trong 
tổng doanh thu phí bảo hiểm đã giảm từ 
76% năm 2010 xuống còn 45% năm 2017. 
Ngược lại, loại hình bảo hiểm nhân thọ 
phổ biến thứ 2, bảo hiểm liên kết đầu tư 
vẫn có mức tăng trưởng khả quan, số hợp 
đồng có hiệu lực đã tăng hơn 5 lần trong 
7 năm, từ mức 415 nghìn hợp đồng năm 
2010 lên mức 2.833 nghìn hợp đồng năm 
2017. Cùng lúc, số tiền bảo hiểm bình 
quân trên mỗi hợp đồng cũng có sự cải 
thiện đáng kể so với giai đoạn trước, phù 
hợp hơn với tình hình thực tế và đáp ứng 
được nhu cầu đảm bảo an toàn của người 
sử dụng.
2. Tầm quan trọng của các công ty bảo 
hiểm với sự ổn định tài chính
Với cơ cấu tài sản có tính thanh khoản 
thấp, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể 
không được coi là một nguồn rủi ro chính 
dẫn tới khủng hoảng, nhưng được coi là 
một nguồn khiến sự mất ổn định tài chính 
trở nên trầm trọng thêm (Vucetich và cộng 
sự, 2014). Các doanh nghiệp bảo hiểm có 
thể có vai trò quan trọng đối với ổn định 
hệ thống tài chính chủ yếu vì 2 nguyên 
nhân sau: (1) do họ là các nhà đầu tư lớn 
trên thị trường, và (2) do sự liên kết ngày 
càng tăng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm 
và ngân hàng thương mại.
2.1. Sự ảnh hưởng từ quy mô đầu tư của 
các doanh nghiệp bảo hiểm
Các doanh nghiệp bảo hiểm là những nhà 
đầu tư lớn trên thị trường tài chính, do họ 
có thể tái đầu tư khoản phí bảo hiểm nhận 
được từ khách hàng. Trong vòng 7 năm, 
tổng mức tái đầu tư vào nền kinh tế của 
các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam 
đã tăng từ mức 80,5 nghìn tỷ đồng năm 
2010 lên mức 247,8 nghìn tỷ đồng năm 
2017 (gấp 3 lần). Để đạt được mức tăng 
trưởng như trên, trung bình một năm, tốc 
độ tăng trưởng tái đầu tư của các doanh 
nghiệp bảo hiểm phải đạt 17,4%/năm, tức 
Hình 8. Quy mô phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP H ... nh phủ ở các 
kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên đến 7 năm, 
15 năm, 20 năm và 30 năm. Điều này cho 
thấy bước đầu cơ cấu nhà đầu tư trên thị 
trường trái phiếu (TTTP) đã có sự thay đổi 
theo hướng ngày càng thu hút sự tham gia 
của các nhà đầu tư dài hạn như các công 
ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và các tổ chức 
có nhu cầu nắm giữ TPCP dài hạn khác. 
Định hướng phát triển thị trường trái phiếu 
kho bạc được Chính phủ đề ra là thực hiện 
đa dạng hóa kỳ hạn phát hành TPCP, trong 
đó chú trọng phát hành TPCP kỳ hạn dài 
để đáp ứng nhu cầu đầu tư TPCP của các 
công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội, các 
quỹ đầu tư. Với định hướng trên, cơ cấu 
nhà đầu tư có sự cải thiện theo hướng tích 
cực, giảm tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng 
thương mại (NHTM), tăng tỷ lệ của các 
nhà đầu tư dài hạn. Tỷ trọng đầu tư của 
các công ty bảo hiểm xã hội, doanh nghiệp 
bảo hiểm, bảo hiểm tiền gửi và quỹ đầu 
tư năm 2017 tăng 3% so với năm 2016 
(năm 2016 là khoảng 44,7 %, năm 2017 
là khoảng 47,6%). Với quy mô ngày càng 
tăng, hành vi đầu tư của các doanh nghiệp 
bảo hiểm có thể ảnh hưởng tới lãi suất 
dài hạn và giá cả trên thị trường thứ cấp. 
Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng 
trở thành nguồn cung cấp tài chính quan 
trọng cho chính phủ và các công ty.
Ngoài việc trực tiếp sử dụng vốn để tái 
đầu tư vào nền kinh tế, các doanh nghiệp 
bảo hiểm còn thực hiện việc đầu tư hộ 
người tham gia bảo hiểm thông qua sản 
phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu 
tư. Theo đó, các chuyên gia đầu tư của 
doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm 
tìm kiếm, lựa chọn các tài sản đầu tư để 
lập nên bản danh mục đầu tư. Hình thức 
bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư đã phát 
triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. 
Năm 2017, số tiền bảo hiểm theo hợp 
đồng của loại hình bảo hiểm liên kết đầu 
tư là 1.183 nghìn tỷ đồng, trong khi số tiền 
phí bảo hiểm đạt khoảng 28,8 nghìn tỷ 
đồng. Dữ liệu trên cho thấy sức ảnh hưởng 
của các doanh nghiệp bảo hiểm khi họ 
thay đổi chiến lược đầu tư. Dù vậy, trong 
nhiều trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm 
thường có chiến lược dài hạn, và do đó 
giúp ổn định giá cả khi thị trường tài chính 
có vấn đề.
2.2. Sự ảnh hưởng từ liên kết giữa các công 
ty bảo hiểm và ngân hàng thương mại
Từ quan điểm ổn định tài chính, sự xuất 
hiện của mối liên kết giữa hệ thống ngân 
hàng và các doanh nghiệp bảo hiểm là rất 
quan trọng, do sự liên kết như vậy có thể 
quyết định đến kênh chuyển tải rủi ro từ 
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Các kênh 
chuyển tải đó có thể không trực tiếp (ví dụ, 
thông qua hoạt động trên thị trường của 
các doanh nghiệp bảo hiểm) hoặc trực tiếp 
(thông qua liên kết về sở hữu và lợi ích 
giữa doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng).
Trong giai đoạn gần đây, xu hướng liên 
kết giữa các ngân hàng và doanh nghiệp 
bảo hiểm ngày càng phát triển. Các ngân 
hàng liên kết với doanh nghiệp bảo hiểm 
theo nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, 
bao gồm: (1) ngân hàng ký thỏa thuận 
phân phối sản phẩm với doanh nghiệp bảo 
hiểm, đóng vai trò là người đại diện bán 
hàng hoặc môi giới bảo hiểm cho doanh 
nghiệp bảo hiểm; (2) ngân hàng và doanh 
nghiệp bảo hiểm nắm giữ cổ phần của 
nhau; (3) liên doanh: ngân hàng và doanh 
nghiệp bảo hiểm cùng thành lập một 
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
115Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
doanh nghiệp bảo hiểm mới để cùng kinh 
doanh; (4) ngân hàng mua toàn bộ hoặc 
một phần doanh nghiệp bảo hiểm hoặc 
ngược lại; và (5) ngân hàng thành lập một 
doanh nghiệp bảo hiểm mới (Huỳnh Thị 
Hương Thảo, 2008).
Tại Việt Nam, việc các ngân hàng thương 
mại lớn tham gia trực tiếp vào thị 
trường bảo hiểm thông qua hình thức 
góp vốn, mua lại cổ phần hoặc liên 
kết thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 
ngày càng phổ biến. Mở đầu bằng việc 
Vietinbank thành lập doanh nghiệp 
bảo hiểm VBI năm 2002, hiện nay, 
theo thống kê của tác giả, đã có 8 ngân 
hàng lớn trực tiếp sở hữu cổ phần tại 
một doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh 
hình thức sở hữu trực tiếp, các ngân 
hàng tại Việt Nam còn ký kết thỏa 
thuận hợp tác, làm đại lý giới thiệu và 
bán sản phẩm bảo hiểm cho các doanh 
nghiệp bảo hiểm. Lợi ích từ sự hợp tác 
này là đa dạng hóa nguồn thu nhập, 
giảm thiểu chi phí, và tận dụng được các 
kênh phân phối sản phẩm đã có. Bên cạnh 
đó, ngân hàng và các doanh nghiệp bảo 
hiểm có thể tận dụng lợi thế từ việc kết hợp 
hai cấu trúc bảng cân đối tài sản khác nhau, 
giữa ngân hàng- đơn vị có thời hạn đáo hạn 
của tài sản dài hơn thời hạn đáo hạn của 
Bảng 1. Danh mục tái đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm 
Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng
Nội dung
2010 2017 Thay 
đổi 
(lần)
Nhân 
thọ
Phi nhân 
thọ
Tổng 
cộng
Nhân 
thọ
Phi nhân 
thọ
Tổng 
cộng
Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng 10,8 13,1 24,0 50,9 26,1 77,0 3,2
Trái phiếu chính phủ, trái phiếu được 
chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính 
quyền địa phương
23,6 0,4 24,0 132,9 1,3 134,2 5,6
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh 0,3 0,7 0,9 3,4 0,5 3,8 4,1
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, trái phiếu 
doanh nghiệp không có bảo lãnh
2,5 2,0 4,5 13,2 2,9 16,1 3,6
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác 0,1 2,5 2,6 0,4 2,7 3,2 1,2
Kinh doanh bất động sản 0,1 0,6 0,8 - 0,6 0,6 0,8
Cho vay 4,4 0,1 4,5 7,0 0,0 7,0 1,6
Uỷ thác đầu tư 15,5 2,1 17,6 0,0 5,1 5,1 0,3
Khác 0,1 1,6 1,7 0,3 0,4 0,8 0,4
Tổng cộng 57,5 23,1 80,5 208,2 39,6 247,8 3,1
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Hình 11. Cơ cấu tái đầu tư của các doanh nghiệp 
bảo hiểm
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính 
tại Việt Nam
116 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020
khoản nợ, và doanh nghiệp bảo hiểm- đơn 
vị có thời hạn đáo hạn của khoản nợ dài 
hơn thời hạn đáo hạn của tài sản.
Sự liên kết mạnh mẽ giữa ngân hàng và 
doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa là doanh 
nghiệp bảo hiểm, hoặc dòng sản phẩm bảo 
hiểm, sẽ trở thành một phần quan trọng của 
hệ thống ngân hàng, và qua đó, ảnh hưởng 
tới ổn định tài chính. Dù mức độ đóng 
góp vào thu nhập của ngân hàng chưa cao, 
nhưng sự tồn tại của liên kết giữa doanh 
nghiệp bảo hiểm và ngân hàng sẽ làm trầm 
trọng thêm sự lan truyền rủi ro, đặc biệt là 
trong giai đoạn mất ổn định tài chính. 
3. Kết luận và hàm ý chính sách
Mặc dù các doanh nghiệp bảo hiểm đóng 
góp vào sự ổn định tài chính thông qua khả 
năng tái phân bổ rủi ro trong nền kinh tế 
và có chiến lược kinh doanh dài hạn, các 
doanh nghiệp này vẫn có tiềm năng gây 
bất ổn định tài chính (IMF, 2016). Cụ thể, 
các doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ ảnh 
hưởng tới các doanh nghiệp và hộ gia đình 
Hình 12. Tỷ trọng nắm giữ trái phiếu chính phủ của các tổ chức kinh tế
Nguồn: Bộ Tài chính, 2019
Hình 13. Sự tham gia hoạt động bảo hiểm của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Nguồn: Tác giả tổng hợp
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
117Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
đã mua sản phẩm bảo hiểm, mà còn ảnh 
hưởng tới toàn bộ thị trường thông qua hoạt 
động đầu tư và sự liên kết ngày càng chặt 
chẽ của họ với hệ thống ngân hàng thương 
mại và các tổ chức tài chính khác. 
Mức độ rủi ro và phơi nhiễm tăng lên 
đòi hỏi việc tăng cường hiệu quả của các 
chính sách về an toàn vĩ mô đối với các 
doanh nghiệp bảo hiểm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nâng cao tính minh bạch thông 
tin. Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng 
khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 
2020 và định hướng đến năm 2025” đề ra 
yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm công 
khai thông tin đầy đủ, toàn diện và tương 
ứng một cách kịp thời. Việc thúc đẩy báo 
cáo và công bố thông tin, đặc biệt là thông 
tin tổng hợp ngành sẽ giúp cho các chính 
sách an toàn vĩ mô không chỉ tiếp cận với 
một doanh nghiệp nói riêng mà tiếp cận 
được với toàn hệ thống. Điều này giúp 
đánh giá mức độ lan truyền rủi ro giữa 
các doanh nghiệp bảo hiểm và giữa doanh 
nghiệp bảo hiểm với các tổ chức tài chính 
khác. Trên khía cạnh ổn định tài chính, 
các thông tin về các sản phẩm đầu tư mới 
hoặc ít có tính thanh khoản và thông tin về 
khoảng cách thời hạn của các sản phẩm sẽ 
giúp cho nhà quản lý nhận định chính xác 
hơn mức độ chấp nhận rủi ro của các công 
ty bảo hiểm.
Thứ hai, chuyển đổi mô hình quản lý nhà 
nước của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm 
sang quản lý, giám sát trên cơ sở rủi ro 
theo quy định của Luật Kinh doanh bảo 
hiểm mới dự kiến trình Quốc hội thông 
qua vào năm 2020. Hiện nay, các doanh 
nghiệp bảo hiểm được giám sát theo 
phương pháp tuân thủ, nghĩa là các doanh 
Bảng 2. Một số thương vụ hợp tác giữa ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm
Năm Thương vụ hợp tác Lợi ích mang lại
2008 HSBC hợp tác Bảo Việt, đến 
năm 2017 chỉ còn hợp tác 
mảng phi nhân thọ
2009 TP Bank kết hợp với AIA Mở rộng các dịch vụ tài chính, cung cấp dịch vụ một 
cửa cho tất cả các nhu cầu tài chính của khách hàng, đa 
dạng nguồn thu với thu nhập tiềm năng từ hoa hồng, mở 
rộng nguồn khách hàng và tăng cơ hội kinh doanh thông 
qua việc hợp tác phân phối các sản phẩm của mình.
2009 Standard Charetered Việt Nam 
ký thỏa thuận hợp tác giới thiệu 
sản phẩm với Prudential
2013 Maritime Bank hợp tác chiến 
lược 10 năm với Prudential
2015 VIB ký kết thỏa thuận đối tác 
chiến lược với Prudential
Số lượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (BHNT) mới năm 
2018 tăng hơn 200% so với năm 2017 và hơn 260% so 
với 2016. 
2015 SCB hợp tác với Manulife Việt 
Nam
 Doanh thu dịch vụ ủy thác và đại lý tăng tới 25 lần đạt 
1.543 tỷ đồng; dịch vụ hoa hồng hợp tác bảo hiểm đạt 
513 tỷ, tăng 52,6% so với năm 2016.
2016 Eximbank hợp tác với Generali 
2017 HSBC hợp tác với AIA 
Sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm và những tác động đến ổn định tài chính 
tại Việt Nam
118 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020
nghiệp phải tuân theo các tiêu chí giám 
sát do cơ quan quản lý đặt ra. Phương 
pháp này cho phép cơ quan quản lý đánh 
giá được các doanh nghiệp bảo hiểm yếu 
kém tiềm năng, từ đó có hình thức quản 
lý, giám sát thích hợp. Tuy nhiên, giám sát 
theo phương pháp tuân thủ có thể dẫn tới 
việc cơ quan quản lý không thể đánh giá 
đầy đủ và có hệ thống về các rủi ro phát 
sinh do sử dụng dữ liệu quá khứ để phân 
tích (chủ yếu là báo cáo tài chính). Điều 
này dẫn tới việc doanh nghiệp bảo hiểm 
có thể có đủ vốn theo quy định, nhưng vẫn 
có rủi ro phá sản. Thay vào đó, việc giám 
sát trên cơ sở rủi ro giúp định lượng hóa 
quy mô rủi ro có khả năng phát sinh trong 
tương lai thông qua việc đánh giá liên tục 
tình hình kinh doanh và năng lực quản lý 
của doanh nghiệp. Kết quả của việc đánh 
giá được sử dụng để xác định các biện 
pháp giám sát và lập kế hoạch kiểm tra 
nhằm nâng cao hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng quy định về vốn và dự 
phòng dựa trên mức độ rủi ro. Quy định 
này đã được giới thiệu tại nhiều quốc gia 
trên thế giới, bắt đầu xuất phát từ Canada 
năm 1992, sau đó tiếp tục tại Mỹ năm 
1994, Nhật Bản năm 1996, Singapore 
năm 2004 và Hàn Quốc năm 2011 (IMF, 
2016). Theo đó, nguồn vốn tối thiểu của 
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được quy định 
dựa trên quy mô hoạt động và mức độ rủi 
ro của từng doanh nghiệp. Việc sử dụng 
các mô hình đo lường rủi ro nội bộ bằng 
phương pháp thống kê sẽ cho phép các 
khoản nợ và mức độ phơi nhiễm rủi ro của 
doanh nghiệp bảo hiểm được đo lường 
Năm Thương vụ hợp tác Lợi ích mang lại
2017 Sacombank hợp tác 20 năm với 
Dai-Ichi Life
Doanh thu phí bảo hiểm và hoa hồng sau cái bắt tay này 
dự kiến mang về 3.000 tỷ đồng cho Sacombank. Năm 
2017, lần đầu tiên SCB có thu từ dịch vụ hoa hồng hợp 
tác bảo hiểm, đạt 74,7 tỷ. 
2017 Techombank hợp tác độc 
quyền 15 năm với Manulife sau 
4 năm hợp tác phi độc quyền
Sự hợp tác này sẽ mang về 10.000 tỷ đồng doanh thu 
trong 5 năm tới cho Techcombank, gấp 20 lần mức của 
năm 2017.
2017 Vietinbank hợp tác độc quyền 
với Aviva
2017 SHB ký gói hợp tác độc quyền 
với Dai-Ichi Life
Năm 2017, lãi 1.446 tỷ đồng từ hoạt động dịch vụ, trong 
đó thu từ dịch vụ đại lý, tư vấn đạt 1.242 tỷ đồng, tăng 
6,5 lần so với năm 2016. 
2017 TPBank hợp tác với Manulife 
Việt Nam
2017 VP Bank hợp tác với AIA Hợp đồng này đã ngay lập tức mang về cho VPBank 900 
tỷ đồng khoản hỗ trợ ban đầu do AIA chi trả. VNDirect 
dự báo với việc phân phối độc quyền bảo hiểm AIA, 
VPBank sẽ thu được thêm gần 1.500 tỷ đồng trong giai 
đoạn 2018- 2020.
2018 Vietcombank tìm kiếm đối tác 
phân phối bảo hiểm. Thời hạn ít 
nhất 10 năm và có giá trị lên tới 
1 tỷ USD.
CTCP Chứng khoán Bản Việt (VCSC) dự báo rằng 
nguồn thu từ phí của Vietcombank trong thời gian tới 
sẽ tăng 32%, chiếm xấp xỉ 1/10 tổng thu nhập hoạt 
động của ngân hàng. Trong đó, nguồn thu từ mảng 
bancassurance được kỳ vọng sẽ đóng vai trò lớn.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
TRƯƠNG HOÀNG DIỆP HƯƠNG - PHẠM MỸ LINH
119Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
đúng với giá trị thị trường hơn. Từ đó giúp 
định hình các sản phẩm tín dụng và vốn do 
doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp và làm 
giảm rủi ro lãi suất của doanh nghiệp bảo 
hiểm do giảm mất cân đối giữa tài sản và 
khoản nợ. 
Thứ tư, hướng tới cơ chế kế toán theo 
giá trị thị trường, thay vì cơ chế kế toán 
theo giá trị số sách như hiện tại. Một số 
quốc gia đã thực hiện việc kế toán theo 
giá trị thị trường có thể kể đến như Liên 
minh Châu Âu, Úc, Bỉ, Canada, Đức, Hàn 
Quốc.. (IMF, 2016). Cơ chế kế toán theo 
thị trường có thể đóng góp vào việc giảm 
thiểu định hướng đầu tư vào các tài sản rủi 
ro của doanh nghiệp bảo hiểm, trong khi 
tăng thời hạn đáo hạn của các tài sản an 
toàn. Cụ thể, theo cơ chế này, giá trị của 
khoảng nợ chỉ phụ thuộc vào lãi suất an 
toàn, trong khi giá trị của các tài sản có rủi 
ro lại phụ thuộc vào chênh lệch tín dụng 
(credit spreads- vấn đè chỉ liên quan tới tài 
sản có thời gian đáo hạn dài). Do đó, các 
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ ít có xu hướng 
đầu tư vào các tài sản có độ rủi ro cao 
nhằm tránh nâng cao mức vốn tối thiểu 
theo yêu cầu. Cùng lúc đó, cơ chế kế toán 
theo giá trị thị trường khuyến khích việc 
đầu tư vào các tài sản dài hạn, rủi ro thấp, 
như nợ Chính phủ và trái phiếu doanh 
nghiệp có xếp hạng tốt ■
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ, 2019, Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng 
đến năm 2025”, Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019.
2. IMF, 2016, Global financial stability report, april 2016: Potent policies for a successful normalization.
3. ECB, 2009, Financial Stability Review.
4. Swiss Re Institute, 2018, Swiss re sigma 5/2018: Global economic and insurance outlook 2020. 
5. Vucetich, A., Perry, R., and Dean, R., 2014, The insurance sector and economic stability, Reserve bank of New 
Zealand Bulletin, 77(3), 1-12. 
6. Huỳnh Thị Hương Thảo, 2008, Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, 
Tạp chí Ngân hàng, 6.
7. Bảo Việt Securities, 2019, Báo cáo ngành Bảo hiểm.
8. Bộ Tài chính, 2019, Báo cáo thị trường bảo hiểm 2010- 2017, NXB Tài chính.

File đính kèm:

  • pdfsu_phat_trien_cua_cac_doanh_nghiep_bao_hiem_va_nhung_tac_don.pdf