Sự hài lòng của phụ huynh với dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2019

Ở Việt Nam, tỷ lệ rối loạn phổ tự kỷ trong cộng đồng là 1:100 trẻ em sinh ra. Nghiên cứu về sự hài lòng của

phụ huynh về việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc cho con mắc rối loạn phổ tự kỷ còn hạn chế. Do vậy, chúng

tôi làm nghiên cứu này với mục tiêu mô tả sự hài lòng của phụ huynh về sử dụng dịch vụ chăm sóc dành cho

trẻ rối loạn phổ tự kỷ và một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu cắt ngang phỏng vấn 130 phụ huynh trên các

cơ sở chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ và nghiên cứu định tính phỏng vấn sâu trên 16 phụ huynh. Mức

độ quan tâm đến uy tín của cơ sở cung cấp dịch vụ là cao nhất (4,35 ± 0,82). 70% phụ huynh hài lòng về sử

dụng dịch vụ chăm sóc. Có bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc: trẻ đã từng sử

dụng dịch vụ chăm sóc trước đây, số lượng dịch vụ phù hợp với trẻ, khả năng tiếp cận dịch vụ và giá cả dịch

vụ. Sự hài lòng về dịch vụ chăm sóc của phụ huynh là 70%. Nghiên cứu định tính cho thấy, phụ huynh hài

lòng hơn về dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ khi thái độ giao tiếp và ứng xử của nhân viên y tế tốt hơn.

pdf 8 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Sự hài lòng của phụ huynh với dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự hài lòng của phụ huynh với dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2019

Sự hài lòng của phụ huynh với dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
101TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoàng Mai Anh,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 14/12/2019
Ngày được chấp nhận: 04/05/2020
SỰ HÀI LÒNG CỦA PHỤ HUYNH VỚI DỊCH VỤ CHĂM SÓC TRẺ 
RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ TẠI HÀ NỘI, 2019
Nguyễn Hoàng Mai Anh , Nguyễn Ngọc Khánh, Đàm Thảo Vân, 
Nguyễn Hà Lâm, Phạm Hải Thanh, Nguyễn Hữu Thắng
Trường Đại học Y Hà Nội 
Ở Việt Nam, tỷ lệ rối loạn phổ tự kỷ trong cộng đồng là 1:100 trẻ em sinh ra. Nghiên cứu về sự hài lòng của 
phụ huynh về việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc cho con mắc rối loạn phổ tự kỷ còn hạn chế. Do vậy, chúng 
tôi làm nghiên cứu này với mục tiêu mô tả sự hài lòng của phụ huynh về sử dụng dịch vụ chăm sóc dành cho 
trẻ rối loạn phổ tự kỷ và một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu cắt ngang phỏng vấn 130 phụ huynh trên các 
cơ sở chăm sóc cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ và nghiên cứu định tính phỏng vấn sâu trên 16 phụ huynh. Mức 
độ quan tâm đến uy tín của cơ sở cung cấp dịch vụ là cao nhất (4,35 ± 0,82). 70% phụ huynh hài lòng về sử 
dụng dịch vụ chăm sóc. Có bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc: trẻ đã từng sử 
dụng dịch vụ chăm sóc trước đây, số lượng dịch vụ phù hợp với trẻ, khả năng tiếp cận dịch vụ và giá cả dịch 
vụ. Sự hài lòng về dịch vụ chăm sóc của phụ huynh là 70%. Nghiên cứu định tính cho thấy, phụ huynh hài 
lòng hơn về dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ khi thái độ giao tiếp và ứng xử của nhân viên y tế tốt hơn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) là một 
rối loạn phát triển ảnh hưởng đến giao tiếp và 
hành vi. Mặc dù bệnh tự kỷ được chẩn đoán 
là có thể mắc ở mọi lứa tuổi, điều này được 
cho là “rối loạn phát triển” vì những triệu chứng 
thường xuất hiện ở hai năm đầu đời. ASD xảy 
ra ở tất cả các nhóm sắc tộc, chủng tộc và mọi 
nền kinh tế. ASD có thể là một chứng rối loạn 
suốt đời, tuy nhiên các phương pháp điều trị và 
dịch vụ có thể cải thiện các triệu chứng và khả 
năng hoạt động.1 Tổ chức y tế thế giới (WHO) 
năm 2017 ước tính rằng trẻ em trên toàn thế 
giới có 1:160 trẻ mắc ASD.2 Ở Trung Quốc, 
năm 2018, nghiên cứu của Fei Wang chỉ ra 
rằng ở tỷ lệ bị rối loạn phổ tự kỷ ở nhóm tuổi 
dưới 4 tuổi là khoảng 1:20.3 Ở Việt Nam, theo 
số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương Binh 
và Xã hội, năm 2018, tỷ lệ trẻ rối loạn phổ tự kỷ 
trong cộng đồng là 1:100 trẻ em sinh ra.4 
Việc chăm sóc cho trẻ nhỏ và thanh thiếu 
niên với các nhu cầu chăm sóc sức khỏe phức 
tạp, và cần thiết. Đặc biệt, với những trẻ rối 
loạn phổ tự kỷ thì dịch vụ chăm sóc là rất quan 
trọng. Có nghiên cứu ra rằng cung cấp các dịch 
vụ chăm sóc dành cho trẻ có phổ tự kỷ làm ảnh 
hưởng tích cực đến sự phát triển, hành vi và 
hạnh phúc của trẻ trong tương lai và giúp trẻ tái 
hòa nhập cộng đồng tốt hơn . Do đó sự hài lòng 
của phụ huynh về dịch vụ chăm sóc là quan 
trọng và không thể thiếu đối với chất lượng 
chăm sóc.4 Một nghiên cứu tại Anh, đã chỉ ra 
rằng 35% phụ huynh có sự hài lòng trong việc 
sử dụng dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ rối loạn 
phổ tự kỷ. Trong đó, sự hài lòng trong việc sử 
dụng dịch vụ chăm sóc của phụ huynh bị ảnh 
hưởng bởi một số yếu tố về tiêu chí lựa chọn 
dịch vụ và đặc điểm nhân khẩu học của người 
chăm sóc và của trẻ.5
Ở Việt Nam, nghiên cứu về sự hài lòng của 
Từ khóa: Trẻ rối loạn phổ tự kỷ, sự hài lòng, dịch vụ chăm sóc, Việt Nam.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
102 TCNCYH 126 (2) - 2020
phụ huynh về việc sử dụng các dịch vụ chăm 
sóc cho con mắc rối loạn phổ tự kỷ còn hạn chế 
mà hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc sàng lọc ban 
đầu cho trẻ. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Sự hài lòng của phụ huynh về nhân viên y 
tế dành cho trẻ phổ tự kỷ tại Hà Nội năm 2019 
với hai mục tiêu:
1. Mô tả sự hài lòng của phụ huynh về 
dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ phổ tự kỷ tại Hà 
Nội năm 2019.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến sự 
hài lòng của phụ huynh về dịch vụ chăm sóc 
dành cho trẻ phổ tự kỷ tại Hà Nội năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Phụ huynh có con được chuẩn đoán mắc 
hội chứng rối loạn phổ tự kỷ. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Cha mẹ hoặc người 
thân trong gia đình, chịu trách nhiệm chính 
trong chăm sóc trẻ có địa chỉ thường trú tại Hà 
Nội; Đồng ý tham gia nghiên cứu. Trong nghiên 
cứu định tính, cha mẹ có con rối loạn phổ tự kỷ 
đều đã sử dụng dịch vụ ở ca cơ sở y tế công 
và cơ sở y tế tư về dịch vụ chăm sóc dành cho 
trẻ ASD.
Tiêu chuẩn loại trừ: Người không chịu trách 
nhiệm chăm sóc chính, không phải người thân 
trong gia đình của trẻ.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang kết hợp nghiên cứu 
định lượng và nghiên cứu định tính.
Địa điểm nghiên cứu:
Đối với nghiên cứu định lượng: Thu thập 
số liệu tại bệnh viện Châm cứu Trung Ương, 
bệnh viện phục hồi chức năng Hà Nội và các 
trung tâm dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ, bệnh 
viện Phục hồi chức năng. Đối với nghiên cứu 
định tính: chúng tôi thực hiện nghiên cứu trên 
bệnh viện Châm cứu Trung Ương và một số 
phụ huynh ở các trung tâm dành cho trẻ có phổ 
tự kỷ tại Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu:
Từ ngày 24/04/2019 đến ngày 14/05/2019.
Cỡ mẫu đối với nghiên cứu định lượng
Cỡ mẫu nghiên toàn bộ các cơ sở chăm sóc 
trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, tổng số 130 
phụ huynh được phòng vấn. Chi tiết trong bảng 1
Bảng 1 Số lượng phỏng vấn phụ huynh có trẻ rối loạn phổ tự kỷ (n = 130)
STT Cơ sở chăm sóc trẻ ASD Số lượng phụ huynh
1 Trường mầm non Cầu Vồng Xanh 5/5
2 Trung Tâm Giáo Dục Chuyên Biệt Trí Đức 17/17
3 Trung tâm Tuệ Quang 20/20
4 Trung tâm Hòa nhập Long Biên 10/22
5 Trường Chuyên Biệt Ánh Sao Mai 21/40
6 Khoa Tự kỷ - Bệnh viện Châm cứu Trung ương 35/70
7 Khoa Nhi - Bệnh viện Phục Hồi Chức Năng Hà Hội 22/22
Tổng (%) 130/196 (66,37%)
Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính
16 phụ huynh chăm sóc trẻ ASD.
Phương pháp chọn mẫu
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
103TCNCYH 126 (2) - 2020
Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được 
tiến hành cho nghiên cứu định lượng. Phương 
pháp chọn mẫu chủ đích và thu thập đến khi 
bão hòa thông tin được tiến hành cho nghiên 
cứu định tính.
Công cụ thu thập số liệu
Nghiên cứu định lượng: Phát vấn cho phụ 
huynh tự điền và phỏng vấn qua điện thoại: áp 
dụng cho các đối tượng từ chối phỏng vấn trực 
tiếp hoặc đối tượng khó gặp trực tiếp. Sự hài 
lòng của phụ huynh khi sử dụng các dịch vụ hỗ 
trợ cho trẻ bị hội chứng rối loạn phổ tự kỷ. Phần 
này tham khảo trong bộ câu hỏi của nghiên cứu 
“Nhận thức của cha mẹ về các dịch vụ cung cấp 
cho trẻ em mắc tự kỷ ở Jordan” năm 2012 của 
AL Jabery6. Các biến số về bốn phần chính: 
thông tin chung của phụ huynh, thông tin chung 
của trẻ; các biến số về tiêu chí sử dụng dịch vụ 
chăm sóc, các biến số về đặc điểm hài lòng của 
sử dụng dịch vụ chăm sóc
Nghiên cứu định tính: Phỏng vấn sâu dựa 
bộ câu hỏi bán cấu trúc.
3. Phân tích số liệu
Phần định lượng: Thống kê mô tả, lập bảng 
tần số mô tả tần số, giá trị trung bình, trung vị và 
tỷ lệ. Hồi quy logistis được sử dung để xác định 
các yếu tố ảnh hưởng. Kết quả ý nghĩa thống 
kê với p-value < 0,05. Phần định tính: gỡ băng, 
sắp xếp mã hóa số liệu, tóm tắt thông tin.
4. Đạo đức nghiên cứu 
Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được 
giải thích rõ ràng mục đích, nội dung và bộ câu 
hỏi nghiên cứu, tự nguyện tham gia. 
III. KẾT QUẢ 
1. Thông tin chung của phụ huynh và trẻ rối 
loạn phổ tự kỷ
Độ tuổi trung bình của phụ huynh là 39,4 
± 11,1 tuổi. Trong đó, nữ giới chiếm phần lớn 
với 75,4%. Nơi thường trú chủ yếu là khu vực 
ngoại thành Hà Nội, đa số có trình độ học vấn 
trên cấp 3. Nhóm phụ huynh là công nhân/
viên chức chiếm tỷ lệ cao nhất (26,2%). Về thu 
nhập, nhóm có thu nhập hộ gia đình dưới 15 
triệu VNĐ chiếm số đông (68,5%). Hầu hết các 
phụ huynh đều đã kết hôn (97,7%). Quan hệ 
với trẻ chủ yếu là mẹ (65,4%).
Thông tin chung về trẻ, độ tuổi trung bình 
của đối tượng trẻ mắc ASD trong nghiên cứu là 
8,2 ± 5,7. Trong đó có 95 trẻ nam (73,1%) và 35 
trẻ nữ (26,9%). Đa số các trẻ được phụ huynh 
phát hiện thấy dấu hiệu bất thường ở tháng thứ 
22 và chủ yếu trẻ được đưa đi khám lần đầu 
sau 1 tháng kể từ khi phát hiện. Từ lúc được 
chẩn đoán mắc ASD, hầu hết các trẻ được đưa 
đi điều trị ngay. Khi đánh giá mức độ của trẻ khi 
mới phát hiện ra bất thường, tình trạng dưới 
mức trung bình có 99 trẻ (76,2%).
2. Mô tả sự hài lòng sự hài lòng của phụ 
huynh về dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ 
rối loạn phổ tự kỷ
Tiêu chí tìm kiếm dịch vụ chăm sóc dành 
cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ của phụ huynh
Bảng 2. Điểm trung bình tiêu chí tìm kiếm dịch vụ chăm sóc dành cho 
trẻ phổ tự kỷ của phụ huynh (n = 130)
Tiêu chí tìm kiếm (thang điểm 5) TB ± ĐLC
Khoảng cách từ nhà đến nơi cung cấp dịch vụ 3,59 ± 1,08
Thời gian di chuyển 3,53 ± 1,04
Giá cả dịch vụ hợp lý 3,83 ± 1,03
Loại hình dịch vụ cơ sở đa dạng 3,82 ± 1,08
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
104 TCNCYH 126 (2) - 2020
Tiêu chí tìm kiếm (thang điểm 5) TB ± ĐLC
Thái độ, kiến thức, thực hành của nhân viên 4,3 ± 0,85
Uy tín của cơ sở cung cấp dịch vụ 4,35 ± 0,82
Điều kiện cơ sở vật chất 4,18 ± 0,84
Về tiêu chí tìm kiếm, tính trên thang điểm 5, mức độ quan tâm đến uy tín của cơ sở cung cấp 
dịch vụ là cao nhất (4,35 ± 0,82), tiếp đến là thái độ, kiến thức, thực hành của nhân viên (4,3 ± 0,85), 
điều kiện cơ sở vật chất (4,18 ± 0,84), giá cả dịch vụ hợp lý (3,83 ± 1,03), sự đa dạng của dịch vụ 
(3,822 ± 1,08), khoảng cách từ nhà đến nơi cung cấp dịch vụ (3,59 ± 1,08) và thời gian di chuyển 
(3,53 ± 1,04). 
Sự hài lòng của phụ huynh về dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ phổ tự kỷ
Biểu đồ 1. Tỷ lệ sự hài lòng của phụ huynh về dịch vụ chăm sóc
 dành cho trẻ phổ tự kỷ (n = 130)
70% phụ huynh hài lòng với dịch vụ, 30% phụ huynh không hài lòng về dịch vụ chăm sóc.
3. Yếu tố ảnh hưởng sự hài lòng chung của về dịch vụ chăm sóc dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan sự hài lòng chung về dịch vụ chăm sóc
 dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ (n = 130)
Yếu tố ảnh hưởng
Dịch vụ chung OR
(95% CI)
p-value
Hài lòng Không hài lòng
Anh chị biết đến 
dịch vụ này từ đâu
Nguồn offline 34 20 1,51
0,04
Nguồn online 54 21 1
Đã từng tìm đến 
sử dụng dịch vụ 
khác trước khi sử 
dụng dịch vụ này
Có 49 31 2,47
0,01
Không 39 10 1
70%
30%
Hài lòng
Không hài lòng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
105TCNCYH 126 (2) - 2020
Yếu tố ảnh hưởng
Dịch vụ chung OR
(95% CI)
p-value
Hài lòng Không hài lòng
Trẻ là con thứ mấy 
trong gia đình
Con thứ 42 28 2,36
0,02
Con đầu lòng 46 13 1
Loại hình dịch vụ 
đa dạng
Không 44 27 1,93
0,04
Có 44 14 1
Thái độ, hiểu biết, 
kiến thức của NV
Không 22 18 2,35
0,03
Có 66 23 1
Các yếu tố nguồn biết dịch vụ từ offline, đã 
từng tìm đến sử dụng dịch vụ khác trước khi 
sử dụng dịch vụ này, trẻ là con thứ trong gia 
đình, loại hình dịch vụ có đa dạng, thái độ và 
hiểu biết kiến thức của nhân viên. Cụ thể là 
làm tăng sự hài lòng sử dụng dịch vụ lần lượt 
gấp 1,51; 2,47; 2,36; 1,93; 2,35 lần lượt so với 
nhóm không hài lòng với việc sử dụng dịch vụ 
và các yếu tố này đều có (p < 0,05) có ý nghĩa 
thống kê. 
4. Nghiên cứu định tính
Đa số là phụ huynh hài lòng đối với thái 
độthì phụ huynh đa số phụ huynh hài lòng với 
thái độ của nhân viên ở cơ sở tư nhân; về sự hỗ 
trợ, các cơ sở tư nhân thường xuyên có sự liên 
hệ với phía gia đình và hỗ trợ kịp thời gia đình; 
về sự hữu ích, đa số là phụ huynh thấy được 
kết quả tốt từ việc sử dụng dịch vụ ở cơ sở tư 
nhân, còn ở bệnh viện X thì đa số là không thấy 
được kết quả điều trị; về sự sẵn có với dịch vụ 
chăm sóc tại các cơ sở chăm sóc và một số 
bệnh viện có khoa dành cho trẻ rối loạn phổ tự 
kỷ, một số nơi chưa có dịch vụ cụ thể dành cho 
trẻ rối loạn phổ tự kỷ và không nhận được sự 
liên hệ từ phía nhân viên với gia đình 
“Lúc đầu khi con bị bệnh đến bệnh viện Y 
khám thì một số bác sĩ còn tỏ thái độ không hài 
lòng và trách móc là không cho con đi khám 
sớm, bác sĩ có chuyên môn nhưng mà khám 
không kỹ và qua loa, cho thuốc về điều trị thì 
không thấy bệnh đỡ hơn, bác sĩ cũng không liên 
lạc lại, không có sự đồng cảm từ phía bác sĩ.” 
– (Mẹ của trẻ B, 32 tuổi)
"Bác sĩ ở đây người ta rất là tốt, người ta 
khuyên mình nên dùng cái gì, hơn nữa là cái lộ 
trình rất là tốt Từ nhân viên đến điều dưỡng 
ở đây người ta thái độ tốt lắm... Người ta thái 
độ nhẹ nhàng... Nếu mà nói hài lòng thì bác 
hài lòng nhất về bác sĩ...điều dưỡng...tốt lắm.” 
- (Mẹ của trẻ A)
 “Cháu tôi khám xong về nhà, bệnh viện chả 
liên lạc gì” - (Bà của trẻ C, 55 tuổi)
IV. BÀN LUẬN
Về nguồn tham khảo dịch vụ, nhóm phụ 
huynh sử dụng nguồn offline có khả năng hài 
lòng về sử dụng dịch vụ cao gấp 1,51 lần so 
với nhóm sử dụng nguồn online (p < 0,05), đặc 
biệt là kỹ năng tham vấn cho gia đình trẻ tự kỉ 
là hoạt động hết sức quan trọng và rất cần thiết 
trong quá trình trợ giúp cho gia đình trẻ tự kỉ 
của nhân viên công tác xã hội. Để thực hiện 
hiệu quả hoạt động này đòi hỏi người nhân viên 
công tác xã hội phải sử dụng thành thạo các 
kĩ năng tham vấn và có kiến thức hiểu biết rõ 
vấn đề của trẻ, từ đó, đưa ra những lời khuyên 
đúng đắn giúp cải thiện tình trạng của trẻ.7 
Trong nghiên cứu định tính của chúng tôi, một 
số người chăm sóc trẻ là ông/bà của trẻ hoặc 
đôi lúc là người giúp việc, có lẽ là do phụ huynh 
bị áp lực công việc và gánh nặng tâm lý về việc 
con bị bệnh nên họ không có đủ thời gian để 
quan tâm dành thời gian cùng trẻ điều trị. 
Đối với nhóm phụ huynh đã từng sử dụng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
106 TCNCYH 126 (2) - 2020
dịch vụ khác có khả năng hài lòng về dịch vụ 
cao gấp 2,47 lần so với nhóm chưa sử dụng 
dịch vụ nào trước đây (p < 0,05). Yếu tố trẻ là 
con thứ trong gia đình cũng làm tăng khả năng 
hài lòng về sử dụng dịch vụ chăm sóc của phụ 
huynh cao gấp 2,36 lần (p < 0,05), một nghiên 
cứu năm 2012, cũng chỉ ra là yếu tố con thứ 
ở trong gia đình thì có khả năng mắc cao hơn 
1,72 lần so với con đầu tiên8. Về cơ sở dịch vụ 
chăm sóc cho trẻ mà phụ huynh đã và đang sử 
dụng, kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra 
là nhóm có sự hài lòng cao về cơ sở dịch vụ 
chăm sóc cho trẻ mà phụ huynh có sự hài lòng 
về sử dụng dịch vụ chăm sóc. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi giống với nghiên cứu về sử 
dụng dịch vụ chăm sóc tại Mỹ, Trung Quốc.9 
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu định tính của 
chúng tôi cũng chỉ ra rằng với trung tâm hiện tại 
phụ huynh sử dụng về dịch vụ thì cảm thấy rất 
hài lòng và nhiều trẻ thì có hiệu quả tốt lên sau 
một thời gian thực hiện các biện pháp trị liệu 
tại trung tâm hoặc một số bệnh viện. Bên cạnh 
đó, một số phụ huynh cũng phàn nàn và không 
hài lòng về dịch vụ y tế ở bệnh viện đã từng sử 
dụng trước đó, mặc dù ban đầu khi đi khám ban 
đầu thì đa số các phụ huynh đều cho đi khám 
tại một số bệnh viện nhưng để điều trị lâu dài thì 
ít phụ huynh điều trị lâu dài. 
Loại hình dịch vụ đa dạng và kiến thức, thái 
độ, hiểu biết của nhân viên có khả năng hài 
lòng trong sử dụng vụ chăm sóc cao gấp 1,93 
và 2,35 lần so với nhóm còn lại. Nghiên cứu 
của chúng tôi giống với kết quả ở Mỹ và Anh 
cũng chỉ ra tiêu chí về nhân viên là quan trọng 
khi phụ huynh lựa chọn tìm kiếm dịch vụ.10,11 So 
sánh với kết quả nghiên cứu định tính trên 16 
phụ huynh thì đa số phụ huynh cũng quan tâm 
đến tiêu chí uy tín của cơ sở cung cấp dịch vụ, 
đa số ban đầu phụ huynh tìm đến sàng lọc tại 
bệnh viện chuyên khoa nhi. Sau đó, phụ huynh 
sử dụng dịch vụ và hài lòng liên quan lớn đến 
tiêu chí nhân viên, đặc biệt là kiến thức và kỹ 
năng chăm sóc. Về số lượng dịch vụ phù hợp 
có ảnh hưởng đến sự hài lòng chung trong sử 
dụng dịch vụ chăm sóc. Điều này cho thấy số 
lượng dịch vụ mà trẻ nhận được có mối tương 
quan với sự hài lòng về dịch vụ chăm sóc dành 
cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ và mối tương quan 
này có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu 
về số lượng dịch vụ phù hợp dành cho trẻ rối 
loạn phổ tự kỷ ở Trung Quốc cũng chỉ ra rằng 
số lượng dịch vụ còn hạn chế và chưa được đa 
dạng bằng một số nước ở Châu Âu, điều này 
có thể cho thấy ở Việt Nam và Trung Quốc thì 
số lượng dịch vụ phù hợp mà trẻ nhận được 
thì đều chưa đa dạng, đặc biệt là dịch vụ y tế 
tại Việt Nam. Kết quả ở Mỹ cũng chỉ ra rằng 
với các cơ sở chăm sóc ban đầu thì việc số 
lượng dịch vụ phù hợp cho trẻ là thiếu và bác sĩ 
cũng chưa chú ý theo dõi cũng như tương tác 
với phụ huynh, việc này khiến phụ huynh thấy 
không hài lòng với dịch vụ chăm sóc.12 Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự 
và điều này có thể giải thích có thể do thiếu 
nhân lực và số lượng bệnh nhân quá tải đặc 
biệt là một số bênh viện tuyến trung ương, việc 
này khiến cho hiệu quả theo dõi ngoại trú về 
điều trị ngoại trú của trẻ có chứng rối loạn phổ 
tự kỷ cũng bị ảnh hưởng. Qua kết quả nghiên 
cứu định tính của chúng tôi trên 16 phụ huynh 
thì cũng chỉ ra rằng về dịch vụ chăm sóc, phụ 
huynh nhận được có dịch vụ về thuốc điều trị và 
dịch vụ phục hồi chức năng, với dịch vụ thuốc 
thì đa số là phụ huynh không hài lòng vì thấy 
không hiệu quả với trẻ và đa số là phụ huynh 
chọn dịch vụ phục hồi chức năng, còn về dịch 
vụ giáo dục thì họ khá là hài lòng. Việc sàng lọc 
và chữa trị sớm là một yếu tố quan trọng trong 
việc chữa khỏi chứng bệnh tự kỷ cho trẻ, giúp 
trẻ có thể hòa đồng với xã hội và phát triển.
IV. KẾT LUẬN
Sự hài lòng về dịch vụ chăm sóc của phụ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
107TCNCYH 126 (2) - 2020
huynh là khá cao, chiếm 70%. Các yếu tố 
nguồn biết dịch vụ từ offline, đã từng tìm đến 
sử dụng dịch vụ khác trước khi sử dụng dịch vụ 
này, trẻ là con thứ trong gia đình, loại hình dịch 
vụ có đa dạng, thái độ và hiểu biết kiến thức 
của nhân viên. Nghiên cứu định tính cho thấy, 
phụ huynh hài lòng hơn về dịch vụ chăm sóc trẻ 
rối loạn phổ tự kỷ khi thái độ giao tiếp và ứng xử 
của nhân viên y tế tốt hơn. 
Lời cảm ơn
Để hoàn thành báo cáo thực địa này trước 
hết chúng em xin gửi đến các thầy, cô bộ môn 
Tổ chức Quản Lý Y tế và bộ môn Thống kê y 
học - Trường Đại học Y Hà Nội lời cảm ơn chân 
thành. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm 
ơn Giám đốc và Lãnh đạo các khoa phòng của 
các cơ sở y tế dành cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ đã 
tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành nghiên 
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NIMH » Autism Spectrum Disorder.
2. WHO. Autism spectrum disorders. 
World Health Organization. 2017.
3. Wang F, Lu L, Wang S-B, et al. The 
prevalence of autism spectrum disorders in 
China: a comprehensive meta-analysis. Int J 
Biol Sci. 2018;14(7):717-725.
4. Mayston R, Habtamu K, Medhin G, 
et al. Developing a measure of mental health 
service satisfaction for use in low income 
countries: a mixed methods study. BMC Health 
Serv Res. 2017;17(1):183.
5. Bromley J, Hare DJ, Davison K, 
Emerson E. Mothers supporting children with 
autistic spectrum disorders: Social support, 
mental health status and satisfaction with 
services. Autism. 2004;8(4):409-423.
6. AL Jabery MA, Arabiat DH, AL Khamra 
HA, Betawi IA, Abdel Jabbar SK. Parental 
Perceptions of Services Provided for Children 
with Autism in Jordan. Journal of Child and 
Family Studies. 2014;23(3):475-486.
7. Moh TA, Magiati I. Factors associated 
with parental stress and satisfaction during the 
process of diagnosis of children with Autism 
Spectrum Disorders. Research in Autism 
Spectrum Disorders. 2012;6(1):293-303.
8. Freedman BH, Kalb LG, Zablotsky B, 
Stuart EA. Relationship Status Among Parents 
of Children with Autism Spectrum Disorders: A 
Population-Based Study. J Autism Dev Disord. 
2012;42(4):539-548.
9. Kogan MD, Strickland BB, Blumberg 
SJ, Singh GK, Perrin JM, Dyck PC van. A 
National Profile of the Health Care Experiences 
and Family Impact of Autism Spectrum Disorder 
Among Children in the United States, 2005–
2006. Pediatrics. 2008;122(6):e1149-e1158.
10. Whitaker P. Provision for youngsters 
with autistic spectrum disorders in mainstream 
schools: what parents say - and what parents 
want. British Journal of Special Education. 
2007;34(3):170-178.
11. Pickard KE, Ingersoll BR. Quality 
versus quantity: The role of socioeconomic 
status on parent-reported service knowledge, 
service use, unmet service needs, and barriers 
to service use. Autism. 2016;20(1):106-115.
12. Liptak GS, Orlando M, Yingling JT, et al. 
Satisfaction With Primary Health Care Received 
by Families of Children With Developmental 
Disabilities. Journal of Pediatric Health Care. 
2006;20(4):245-252.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
108 TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
SATISFACTION AND FACTORS RELATED TO PARENTAL 
SATISFACTION WITH HEALTHCARE SERVICE IN HANOI, 2019
The proportion of children diagnosed with autism spectrum disorder in Vietnam is 1: 100. 
Research on parental satisfaction with care services for children with autism spectrum disorders 
is limited. Therefore, we conducted this study to describe the percentage of parents' satisfaction 
with care for children with autism spectrum disorder and related factors. The cross-sectional study 
was conducted on 130 parents; the qualitative in-depth interviews was performed on 16 parents. 
The highest percentage of parent interest was the reputation in the service provider (4.35 ± 0.82). 
70% of parents was satisfied with care services. There were four main factors that affect the use 
of care: a child has prior used of services care, the number of services that were appropriate for 
the child, the access to services and the cost of services. The satisfaction of parents in using 
care services was 70%. Qualitative research showed that parents were more satisfied with the 
autism spectrum disorder when knowledge, attitudes, practice of health workers are exceptional.
Keywords: Children with autism spectrum disorder, satisfaction, care, Vietnam.

File đính kèm:

  • pdfsu_hai_long_cua_phu_huynh_voi_dich_vu_cham_soc_tre_roi_loan.pdf