Sự gia tăng tỷ lệ xảy thai tự nhiên và tử vong trẻ em ở phụ nữ di cư vào các vùng bị rải chất độc da cam/dioxin

Sau ngày giải phóng miền Nam nhiều người miền Bắc đã di cư vào các tỉnh

Tây Nguyên sinh sống cho tới ngày nay. Một bộ phận những người này đã định cư

tại các vùng bị quân đội Mỹ rải chất độc Da cam/Dioxin trong chiến tranh, gánh chịu

sự phơi nhiễm với dioxin ở các mức độ khác nhau. Các dioxin là tên của một nhóm

các hợp chất tương tự về mặt cấu trúc và hoá học, trong đó 2,3,7,8-tetracloro

dibenzo-p-dioxin (TCDD) là đồng loại có độ độc cao nhất, có khả năng tích lũy lâu

dài trong cơ thể người và động vật, gây ra những tổn thương bệnh lý đa dạng [8].

Dioxin có thể di chuyển qua nhau thai và được bài tiết mạnh qua sữa mẹ [8]. Điều

này làm cho trẻ bú mẹ chịu lượng dioxin xâm nhập hàng ngày/ trọng lượng cơ thể

cao gấp hàng chục lần so với người trưởng thành sống trong cùng điều kiện. Chính

vì vậy ảnh hưởng của chất độc này đối với bào thai và trẻ em được các nhà nghiên

cứu đặc biệt quan tâm. Các rối loạn chủ yếu được nhận thấy là rối loạn kinh nguyệt

ở phụ nữ [5] tăng tỷ lệ bị xảy thai, dị tật bẩm sinh, đẻ non, rối loạn phát triển thể lực

và cơ quan sinh dục, suy giảm miễn dịch [4], thai chết lưu [7]. Tác hại của dioxin

đặc biệt nghiêm trọng đối với các cơ quan đang phát triển

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Sự gia tăng tỷ lệ xảy thai tự nhiên và tử vong trẻ em ở phụ nữ di cư vào các vùng bị rải chất độc da cam/dioxin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự gia tăng tỷ lệ xảy thai tự nhiên và tử vong trẻ em ở phụ nữ di cư vào các vùng bị rải chất độc da cam/dioxin

Sự gia tăng tỷ lệ xảy thai tự nhiên và tử vong trẻ em ở phụ nữ di cư vào các vùng bị rải chất độc da cam/dioxin
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 81
SỰ GIA TĂNG TỶ LỆ XẢY THAI TỰ NHIÊN VÀ TỬ VONG 
TRẺ EM Ở PHỤ NỮ DI CƯ VÀO CÁC VÙNG 
BỊ RẢI CHẤT ĐỘC DA CAM / DIOXIN 
NGÔ THANH NAM (1), LÊ DUY CƯƠNG (1), 
BELOV D. A.(2), UMNOVA N. V.(2), RUMAC V. S.(2) 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sau ngày giải phóng miền Nam nhiều người miền Bắc đã di cư vào các tỉnh 
Tây Nguyên sinh sống cho tới ngày nay. Một bộ phận những người này đã định cư 
tại các vùng bị quân đội Mỹ rải chất độc Da cam/Dioxin trong chiến tranh, gánh chịu 
sự phơi nhiễm với dioxin ở các mức độ khác nhau. Các dioxin là tên của một nhóm 
các hợp chất tương tự về mặt cấu trúc và hoá học, trong đó 2,3,7,8-tetracloro 
dibenzo-p-dioxin (TCDD) là đồng loại có độ độc cao nhất, có khả năng tích lũy lâu 
dài trong cơ thể người và động vật, gây ra những tổn thương bệnh lý đa dạng [8]. 
Dioxin có thể di chuyển qua nhau thai và được bài tiết mạnh qua sữa mẹ [8]. Điều 
này làm cho trẻ bú mẹ chịu lượng dioxin xâm nhập hàng ngày/ trọng lượng cơ thể 
cao gấp hàng chục lần so với người trưởng thành sống trong cùng điều kiện. Chính 
vì vậy ảnh hưởng của chất độc này đối với bào thai và trẻ em được các nhà nghiên 
cứu đặc biệt quan tâm. Các rối loạn chủ yếu được nhận thấy là rối loạn kinh nguyệt 
ở phụ nữ [5] tăng tỷ lệ bị xảy thai, dị tật bẩm sinh, đẻ non, rối loạn phát triển thể lực 
và cơ quan sinh dục, suy giảm miễn dịch [4], thai chết lưu [7]. Tác hại của dioxin 
đặc biệt nghiêm trọng đối với các cơ quan đang phát triển. 
Trong khuôn khổ nghiên cứu tác hại việc phơi nhiễm mạn tính của chất độc Da 
cam/Dioxin đối với con người, chúng tôi đã khảo sát các rối loạn chức năng sinh sản 
ở phụ nữ sống tại các vùng bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh và tình trạng 
sức khỏe của thế hệ F1. Mục tiêu của khảo sát là đánh giá những rối loạn sức khỏe 
có thể xảy ra đối với trẻ em được sinh ra và lớn lên tại các vùng bị rải chất độc hóa 
học trong chiến tranh và đưa ra những định hướng nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Phụ nữ đã sinh con tuổi đời từ 35 - 54. Để phân chia các nhóm phơi nhiễm với 
chất độc Da cam/Dioxin chúng tôi căn cứ vào tuổi đời và thời điểm di cư. Đối với 
tuổi đời chúng tôi lấy tuổi 21, khi cơ thể người phụ nữ đã phát triển đầy đủ. Về thời 
điểm di cư chúng chọn năm 1990 chủ yếu để đảm bảo không có sự đan xen giữa các 
nhóm phơi nhiễm cao và thấp, cụ thể như sau: 
- Nhóm nguy cơ phơi nhiễm cao với chất độc Da cam/Dioxin (n = 353): 
Những người sinh ra ở miền Bắc, khi ≤ tuổi 21 vào các vùng bị rải chất độc, thời 
điểm di cư trước năm 1990. 
- Nhóm nguy cơ phơi nhiễm thấp với chất độc Da cam/Dioxin (n = 477): Phụ 
nữ sinh ra ở miền Bắc, khi trên 21 tuổi di cư vào các vùng bị rải chất độc, thời điểm 
di cư từ 1990 - 2005. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 82
- Nhóm đối chứng (n = 1116): Phụ nữ có tuổi đời tương đồng sinh sống tại quê 
hương những người di cư. 
Địa điểm: Vùng bị rải chất độc Da cam/Dioxin bao gồm các huyện Đắk Mil 
(Đắk Nông), Sa Thầy và Ngọc Hồi (Kon Tum). Vùng đối chứng là huyện Tiền Hải 
(Thái Bình) và Nghi Lộc (Nghệ An). 
Thời gian tiến hành khảo sát nghiên cứu từ 2007 - 2010. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Điều tra tiền sử sức khỏe sinh sản phụ nữ và tiền sử sức khỏe con của họ qua 
phỏng vấn trực tiếp. Các mốc thời gian di cư, thời gian kết hôn, thai sản được ghi 
chép chi tiết. Kết hợp với phỏng vấn độc lập người chồng, trên các mẫu phiếu riêng. 
Các thông tin không trùng khớp được tái kiểm tra và xác nhận. 
Các chỉ số nghiên cứu bao gồm: 
- Xảy thai tự nhiên: Khi bào thai chết trước 20 tuần tuổi (18 tuần sau thụ tinh); 
- Chết khi sinh: Hiện tượng chết trước khi sinh của thai nhi sau 20 tuần tuổi. 
- Tử vong dưới 1 tuổi: Là hiện tượng tử vong từ khi sinh đến dưới 1 năm tuổi. 
Các chỉ số nghiên cứu được tính cho tới thời điểm khảo sát. 
- Tử vong của thế hệ F1 đến thời điểm nghiên cứu. 
Đánh giá sơ bộ mức độ phơi nhiễm với dioxin vào thời điểm nghiên cứu bằng 
cách định lượng nồng độ dioxin trong các mẫu đất và thực phẩm thu thập tại vùng 
nghiên cứu theo phương pháp phân tích sắc kí khí / sắc kí lỏng cao áp phân giải cao 
tại Phòng Phân tích độc học sinh thái, Viện Các vấn đề sinh thái và tiến hóa, Viện 
Hàn lâm khoa học Nga. 
 2.3. Phương pháp thống kê 
Các dữ liệu thu được nhập vào chương trình Microsoft Access. Tính toán và so 
sánh bằng khoảng tin cậy của các tỷ lệ. Khảo sát nguy cơ sống sót trẻ em bằng 
phương pháp Kaplan-Meier. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Bảng1. Phân bố tuổi của phụ nữ tham gia nghiên cứu 
Nhóm nguy cơ 
phơi nhiễm 
Nhóm tuổi 
35 - 39 40 - 44 45 - 49 50 - 54 Tổng số 
Cao: n, (%) 150 (42,5) 125 (35,4) 62 (17,6) 16 (4,5) 353 
Thấp: n, (%) 140 (29,4) 124 (26,0) 123 (25,8) 90 (18,9) 477 
Không: n, (%) 312 (28,0) 248 (22,2) 278 (24,9) 278 (24,9) 1116 
Kết quả trên bảng 1 cho thấy có tỷ lệ khác nhau theo lứa tuổi của phụ nữ tham 
gia nghiên cứu. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 83
Bảng 2. Tỷ lệ số lần xảy thai tự nhiên và các ca tử vong trước sinh (‰) 
Nhóm 
tuổi 
Nhóm nguy cơ phơi nhiễm 
Cao Thấp Đối chứng 
n Tỷ lệ (CI95%) n Tỷ lệ (CI95%) n Tỷ lệ (CI95%) 
35 - 39 552 112 (87 - 141)* 514 128 (100 - 160)* 833 73 (56 - 93) 
40 - 44 512 80 (57 - 106) 505 107 (81 - 136) 773 80 (62 - 101) 
45 - 49 276 76 (46 - 112) 597 116 (90 - 143)* 1025 76 (60 - 94) 
50 - 54 83 120 (55 - 206) 403 122 (90 - 157)* 1120 71 (57 - 88) 
Tổng số 1423 96 (81 - 112)* 2019 118 (104 - 132)* 3751 75 (67 - 84) 
Ghi chú: Khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng. Các tỷ lệ được 
tính trên 1000 số ca sống. 
Kết quả trong bảng 2 cho thấy tỷ lệ xảy thai tự nhiên và tử vong trước sinh ở 
các nhóm nguy cơ phơi nhiễm thấp cao hơn nhóm đối chứng. Sự gia tăng có xu 
hướng cao hơn ở nhóm nguy cơ phơi nhiễm thấp. 
Bảng 3. Tỷ lệ số ca tử vong dưới một tuổi (‰) 
Nhóm 
tuổi 
Nhóm nguy cơ phơi nhiễm 
Cao Thấp Đối chứng 
n Tỷ lệ (CI95%) n Tỷ lệ (CI95%) n Tỷ lệ (CI95%) 
35 - 39 475 4 (1 - 10) 407 25 (10 - 40)* 698 7 (2 - 13) 
40 - 44 460 30 (15 - 46)* 425 26 (11 - 41)* 658 9 (2 - 16) 
45 - 49 248 20 (3 - 38) 497 32 (17 - 48)* 841 14 (6 - 22) 
50 - 54 65 46 (1 - 97) 341 32 (14 - 51) 935 16 (8 - 24) 
Tổng số 1248 19 (12 - 27) 1670 29 (21 - 37)* 3132 12 (8 - 16) 
Ghi chú: Khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng. Các tỷ lệ được 
tính trên 1000 số ca sống. 
Kết quả trong bảng 3 cho thấy tỷ lệ số ca tử vong sơ sinh ở các nhóm nguy cơ 
phơi nhiễm thấp cao hơn nhóm đối chứng. 
Xác suất tử vong của thế hệ F1 tích lũy dần đến năm 20 tuổi, các nhóm phơi 
nhiễm thấp và cao với chất độc Da cam/Dioxin cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm chứng (hình 1). 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 84
Hình 1. Xác suất tử vong của thế hệ F1 ở các phụ nữ tham gia nghiên cứu 
(Phương pháp Kaplan-Meier, p = 0,002, kiểm định Breslow) 
Địa điểm nghiên cứu được thực hiện ở đây là các huyện Đắk Mil tỉnh Đắk 
Nông, Sa Thầy và Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum. Đây là các địa bàn bị rải chất độc Da 
cam/Dioxin nặng nề trong chiến tranh, theo số liệu của Ban chỉ đạo 33 là 279 944 
galon chất Da cam/Dioxin tại Đắk Nông và 751 878 galon chất Da cam tại tỉnh Kon 
Tum [2]. Tuy nhiên, việc đánh giá mức độ ô nhiễm chất độc Da cam/Dioxin nhiều 
năm sau chiến tranh không được thực hiện do điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học 
còn hạn chế. Từ những năm 2000 trở lại đây, một số kết quả phân tích cho thấy nồng 
độ Dioxin ở Tây Nguyên rất thấp. Kết quả phân tích 14 mẫu đất và 6 mẫu bùn lấy ở 
huyện Sa Thầy vào năm 2003 đã không phát hiện TCDD, tổng độ độc các Dioxin từ 
0,18-0,85 pg/g [2]. 
Chúng tôi đã tiến hành định lượng Dioxin trong các mẫu đất tại địa bàn nghiên 
cứu, các kết quả được trình bày trong bảng 4. 
Bảng 4. Kết quả phân tích nồng độ các Dioxin trong mẫu đất 
Địa phương Số lượng Năm lấy 
TCDD 
Min-Max, pg/g 
WHO-TEQPCDD/PCDF 
Min-Max, pg/g 
Kon Tum N = 6 2011 0,04 - 0,4 0,135 - 0,668 
Thái Bình N = 3 2012 0,43 - 0,48 0,823 - 1,426 
Nghệ An N = 2 2012 0,15 - 0,31 0,331 - 0,825 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 85
 Một số đánh giá nhận thấy rằng nồng độ TCDD trong đất cao hơn 1pg/g cần 
được chú ý về mặt xem xét nguy cơ phơi nhiễm [6]. Các số liệu trong bảng 4 cho 
thấy các mẫu lấy từ vùng nghiên cứu cũng như vùng đối chứng đều dưới mức này. 
Chúng tôi đã tiến hành định lượng nồng độ Dioxin trong các mẫu thực phẩm 
(trứng gia cầm) với các kết quả như trong bảng 5. 
Bảng 5. Kết quả phân tích nồng độ các Dioxin trong mẫu trứng gà, vịt 
Địa phương Số lượng Năm lấy 
TCDD 
Min-Max, pg/g lipid
WHO-TEQPCDD/PCDF 
Min-Max, pg/g lipid 
Đắk Nông N = 3 2009 - 2011 0,07 - 0,14 0,654 - 0,823 
Kon Tum N = 4 2010 - 2011 0,14 - 0,83 0,548 - 0,159 
Thái Bình N = 2 2010 - 2012 0,05 - 0,12 0,31 - 0,743 
Nghệ An N = 3 2010 - 2012 0,09 - 0,33 0,564 - 1,878 
Như vậy vào thời điểm nghiên cứu không phát hiện được sự gia tăng nồng độ 
Dioxin ở các vùng bị rải chất độc Da cam/Dioxin. 
Do đặc điểm địa hình Tây Nguyên không bằng phẳng và thời tiết thường có 
mưa to kéo dài dẫn đến sự rửa trôi rất mạnh lớp đất bề mặt. Các điểm tồn lưu Dioxin 
chiến tranh có thể xuất hiện tại các tầng đất sâu hơn ở đáy các sông, hồ. Kết quả 
nghiên cứu của Lương Văn Thanh và ĐTG (2009) cho thấy các mẫu đất lấy từ lòng 
hồ Trị An từ 0 - 30 cm không phát hiện Dioxin nhưng từ 30 - 50 cm có nồng độ từ 
0,8 - 4,9 ppt, trung bình 2,0 ppt [3]. Để làm sáng tỏ hơn mức độ phơi nhiễm với chất 
độc Da cam/Dioxin của các đối tượng nghiên cứu trên đây chúng tôi đã tiến hành 
thu thập các mẫu sinh học của họ, các bước phân tích đang được triển khai. Với 
những số liệu trên đây chúng tôi thấy rằng cần phải khảo sát thêm mức độ ô nhiễm 
chất độc Da cam/Dioxin tại Tây Nguyên để có cơ sở thực đánh giá sự hiểm nguy của 
tồn dư chất độc này đối với sức khỏe con người, đặc biệt là sức khỏe sinh sản của 
phụ nữ và sự phát triển của trẻ em. 
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê (2009) thì mức chết của trẻ em 
Tây Nguyên là cao nhất Việt Nam (27,3 trẻ em dưới 1 tuổi tử vong trên 1000 trẻ 
sinh sống). Chỉ số này liên quan với mức độ phát triển của vùng, nơi nào phát triển 
hơn sẽ có con số đó thấp hơn. Phụ nữ với trình độ học vấn cao hơn thì con của họ có 
tỷ suất chết trẻ em dưới một tuổi thấp hơn [1]. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 86
4. KẾT LUẬN 
Qua khảo sát các đặc điểm tai biến sinh sản và tử vong thế hệ F1 ở những phụ 
nữ miền Bắc di cư sống tại Đắk Nông và Kon Tum chúng tôi nhận thấy có một số 
đặc điểm như sau: 
- Tỷ lệ số ca xảy thai tự nhiên và tử vong trước sinh, tỷ lệ số ca tử vong của 
thế hệ F1 của phụ nữ miền Bắc di cư tại Đắk Nông và Kon Tum cao hơn so với 
nhóm chứng là những người không di cư sống tại miền Bắc. 
- Kết quả phân tích nồng độ Dioxin trong các mẫu đất, thực phẩm chưa phát 
hiện các mẫu có nồng độ TCDD cao. Điều này chưa cho phép đánh giá mối liên 
quan của các rối loạn bệnh tật với tác động lâu dài của chất độc Da cam/Dioxin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng cụ Thống kê, Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt 
Nam năm 2009: Mức sinh, mức chết, thực trạng, xu hướng và những khác biệt. 
2. Lê Bảo Hưng, Phân tích, đánh giá tồn lưu chất độc hóa học trong môi trường 
đất các tỉnh thuộc khu vực Tây Ngyên, Báo cáo chuyên đề Văn phòng 33. 
3. Lương Văn Thanh, Thái Thành Lượm, Đánh giá ảnh hưởng của chất diệt cỏ 
Dioxin tới môi trường hồ Trị An hiện nay, Nông nghiệp và Phát triển nông 
thôn, số 8, 2009. 
4. Akhmadeyeva E. N., Kulmukhametova N. G. and Mukhamadeyeva M. V., 
Epidemiology of reproductive function of women living in a city with well 
developed chemical industry, Organohalogen compounds, 1996. 30, p.234-236. 
5. Eskenazi B. et al., Seveso women's health study: A study of TCDD and reproductive 
health in a female cohort, Organohalogen Compounds, 2003, 65, p.178-181. 
6. Gough M., Human exposures from Dioxin in soil-a meeting report, J Toxicol 
Environ Health, 1991, 32(2):205-35. 
7. Guo Y. L. and Kao Y. C., Reproductive health in Yucheng women exposed to 
polychlorinated biphenyls/polychlorinated dibenzofurans, Organohalogen 
Compounds, 2003, 65, p.254-257. 
8. Institute of Medicine, Veterans and Agent Orange: update 2012, The 
Academies Press, 2013. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 08, 6 - 2015 87
SUMMARY 
AN INCREASE OF SPONTANEOUS ABORTION AND 
CHILD MORTALITY RATES IN WOMEN IMMIGRATED 
 TO AGENT ORANGE SPRAYED REGIONS 
During the period from 2007 to 2010, the reproductive disorders of women 
migrated from the North to Agent Orange sprayed regions of Tay Nguyen Highland 
and the health status of their F1 generation were investigated. The subjects aged 35-
54 were divided into 2 groups: The high-risk exposure group (n = 353) consisting of 
the women who were younger than 21 years and migrated to the sprayed regions 
before 1990; the low-risk exposure group (n = 477) consisting of the women aged 21 
or older and have migrated since 1990. The controls (n = 1116) were the women 
living in the immigrant’s homelands in the North. The study results showed that: 
Spontaneous abortion/ stillbirth rates and mortalities among F1 generation of the 
exposure groups were higher than that of the controls, but no high Dioxin level was 
found in all environmental and food samples collected from the studied regions. 
Dioxin levels in environment and human tissues are now being monitored in order to 
obtain the actual level of exposure to Agent Orange. 
Từ khóa: Dioxin, di cư, xảy thai, tử vong trẻ em. 
Nhận bài ngày 20 tháng 3 năm 2015 
Hoàn thiện ngày 12 tháng 5 năm 2015 
 (1) Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga 
(2) Viện Các vấn đề sinh thái và tiến hóa, Viện HLKH Nga 

File đính kèm:

  • pdfsu_gia_tang_ty_le_xay_thai_tu_nhien_va_tu_vong_tre_em_o_phu.pdf