Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ
Vạt dưới cằm được mô tả lần đầu bởi tác giả Martin và cộng sự năm 1993[1]. Vạt có thể lấy ở dạng có
cuống tại vùng hoặc vạt tự do và được cấp máu bởi bó mạch dưới cằm. Thành phần vạt dưới cằm bao gồm da,
mô mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm
dưới nếu cần. Vạt dưới cằm thường được chỉ định cho các khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt như má, môi, hốc
miệng, xoang hàm, khẩu hầu [2][4][6].
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá kỹ thuật và kết quả sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết
hổng vùng đầu mặt cổ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 11 trường hợp dùng vạt dưới cằm tái tạo khuyết hổng
vùng đầu mặt cổ được thực hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2017
đến 10/2019.
Kết quả: Qua 11 trường hợp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ bằng vạt dưới cằm, chúng tôi ghi nhận
không có trường hợp nào bị hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ và chức năng nuốt.
Kết luận: Vạt dưới cằm là một vạt đa năng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng
vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với
da mặt và sẹo kín đáo
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 147 SỬ DỤNG VẠT DƯỚI CẰM TRONG TÁI TẠO KHUYẾT HỔNG VÙNG ĐẦU CỔ ĐOÀN MINH TRÔNG1, ĐẶNG VŨ QUANG2 TÓM TẮT Vạt dưới cằm được mô tả lần đầu bởi tác giả Martin và cộng sự nĕm 1993[1]. Vạt có thể lấy ở dạng có cuống tại vùng hoặc vạt tự do và được cấp máu bởi bó mạch dưới cằm. Thành phần vạt dưới cằm bao gồm da, mô mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm dưới nếu cần. Vạt dưới cằm thường được chỉ định cho các khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt như má, môi, hốc miệng, xoang hàm, khẩu hầu[2][4][6]. Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá kỹ thuật và kết quả sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 11 trường hợp dùng vạt dưới cằm tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ được thực hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2017 đến 10/2019. Kết quả: Qua 11 trường hợp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ bằng vạt dưới cằm, chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào bị hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ và chức nĕng nuốt. Kết luận: Vạt dưới cằm là một vạt đa nĕng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với da mặt và sẹo kín đáo. ABSTRACT Using submental island flap in reconstruction head and neck defects. Review of 11 cases Submental island flap was first time described by Martin et al in 1993. Nourishing by submental vessels, submental island flap may be either predicled or free. Submental island flap ingredients include skin, subcutaneous tissue, platysma muscle, anterior belly of digastric muscle, a part of mylohoid muscle and a part of mandible if needed. Submental island flap has been indicated for 2/3 lower face: Cheeks, lips, oral cavity, maxillary sinuses, oropharynx Purpose: Initially evaluating techniques and clinical effect of submental island flap in reconstruction head and neck defects. Patients and Methods: Describe a total of 11 cases of reconstruction head and neck defects by submental island flap at Sugery 5 Department - Ho Chi Minh city Oncology Hospital from 10/2017 to 10/2019. Results: In 11 cases of recontruction head and neck defects by submental island flap, there was no case of partial or total flap necrosis. Most of patients are satisfied with aesthetics and intraoral functions. Conclusion: Submental island flap is a versatile flap, which can be applied in many cases to reconstruct head and neck defects. This flap has lots of advantages, such as flexible, reliable blood supply, flap skin color is nearly identical to facial skin and camouflage scar. 1 ThS.BSCKII. Khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 BS. Khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Với các sang thương vùng đầu mặt cổ lan rộng sẽ dẫn đến các khuyết hổng lớn sau phẫu thuật, do đó đòi hỏi phải tái tạo lại khuyết hổng. Vạt tự do và vạt tại vùng là những phương pháp thường dùng để tạo hình các khuyết hổng này. Tuy nhiên kỹ thuật dùng vạt tự do là một kỹ thuật đòi hỏi nhiều kỹ nĕng và trang thiết bị phức tạp. Một trong những lựa chọn ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 148 có thể thay thế vạt tự do là dùng vạt tại vùng, trong đó vạt dưới cằm là một lựa chọn tương đối tốt[3]. Do đó chúng tôi thực hiện công trình này nhằm đánh giá bước đầu sử dụng vạt dưới cằm cho một số khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mô tả loạt ca gồm 11 trường hợp dùng vạt dưới cằm tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ được thực hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2017 đến 10/2019. Vạt dưới cằm Vạt dưới cằm được lấy tại vị trí giữa và ngay dưới bờ dưới của xương hàm dưới. Kích thước vạt phụ thuộc vào khả nĕng may khép da vùng dưới cằm, có thể kéo dài giữa hai góc hàm. Kích thước vạt có thể lên đến 7 x 18cm[4] gồm: da, mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm dưới nếu cần. Toàn bộ vạt có thể chỉ cần cuống mạch dưới cằm một bên là đủ bởi vì có sự thông nhau giữa mạch máu dưới cằm bên trái và phải[2]. Động mạch dưới cằm Động mạch dưới cằm chia ra từ động mạch mặt tại vị trí cách gốc động mạch mặt khoảng 4.5cm, và dưới bờ dưới xương hàm dưới 7mm[4]. Động mạch dưới cằm có đường kính 1 - 2mm tại chỗ chia từ động mạch mặt[2,4]. Nó đi giữa tuyến dưới hàm và bờ dưới xương hàm dưới, hiếm khi nó đi xuyên qua tuyến dưới hàm. Sau đó động mạch dưới cằm chạy dưới bụng trước cơ nhị thân và trên cơ hàm móng (>70%) để đến tam giác dưới cằm[2]. Tại đây nó cho các nhánh xuyên đến đám rối dưới da, cơ bám da cổ và da. Vị trí của những nhánh xuyên cấp máu cho vạt dưới cằm rất biến đổi, đa dạng. Thường có 2 nhánh xuyên chính ở 2 bên bụng trước cơ nhị thân[2]. Những nhánh nhỏ hơn sẽ đi xuyên qua bụng trước cơ nhị thân. Động mạch dưới cằm dài khoảng 6cm, và sự thông nối mạch máu giữa hai bên[2]. Động mạch dưới cằm cũng có thông nối với động mạch dưới lưỡi dưới cơ hàm móng thông qua một nhánh xuyên qua cơ hàm móng[2]. Hình 1. Động mạch dưới cằm[5] Tĩnh mạch dưới cằm Đám rối tĩnh mạch của vạt sẽ đổ về tĩnh mạch dưới cằm có đường kính khoảng 2mm. Tĩnh mạch dưới cằm đi song song và dưới động mạch dưới cằm, trên bề mặt cơ hàm móng rồi đổ về tĩnh mạch mặt chung. Tĩnh mạch mặt chung đi cùng động mạch mặt, đổ về tĩnh mạch cảnh trong[2][4]. Hình 2. Tĩnh mạch dưới cằm[5] Sự phân bố thần kinh của vạt Cơ bám da cổ được chi phối bởi nhánh cổ của thần kinh mặt. Cảm giác vùng dưới cằm được chi phối bởi các nhánh thần kinh ngang cổ thuộc đám rối cổ[4]. Chỉ định Khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt: má, môi, hốc miệng, xoang hàm, khẩu hầu[2,4,6]. Chống chỉ định Nhiễm trùng da vùng dưới cằm[2,6]. Nạo hạch cổ nhóm IA[2,3,6]. Kỹ thuật lấy vạt Chuẩn bị tiền phẫu Kiểm soát tốt bệnh lý đi kèm: tim mạch, đái tháo đường Xếp giai đoạn bệnh nếu có. Giải thích bệnh nhân về phương pháp phẫu thuật và tạo hình. Chuẩn bị lúc phẫu thuật Sử dụng kháng sinh dự phòng nếu sang thương trong hốc miệng. Gây mê qua nội khí quản. Tiến hành phẫu thuật Bước 1: BN nằm ngửa, kê gối dưới vai, cổ ngữa tối đa. Dùng tay nhéo vùng da dưới cằm để đánh giá tình trạng da, mô dưới da, ước lượng kích thước tối đa có thể lấy vạt. Vẽ đường rạch da, bờ trên vạt cách bờ dưới xương hàm dưới khoảng 5mm, chiều dài vạt có thể từ góc hàm này đến góc ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 149 hàm kia. Dùng đầu dò siêu âm Doppler xác định đường đi động mạch mặt: vị trí gần góc hàm, bắt ngang bờ dưới xương hàm dưới. Hình 3. Dùng tay nhéo vùng da dưới cằm[2] Bước 2: Rạch da qua lớp cơ bám da cổ. Bóc tách vạt da phần đối diện trong mặt phẳng dưới lớp cơ bám da cổ cho đến đường giữa. Hình 4. Rạch da qua lớp cơ bám da cổ[2] Bước 3: Xác định thần kinh bờ hàm dưới đi song song thân xương hàm dưới, giữa lớp cơ bám da cổ và động tĩnh mạch mặt. Sau đó, lần lượt nhận định động tĩnh mạch mặt bắt chéo phía trong thần kinh bờ hàm dưới. Bước 4: Lần theo động tĩnh mạch mặt để xác định động tĩnh mạch dưới cằm tại chỗ chia. Bóc tách dần theo nó, lấy bỏ các hạch nhóm IB và mô mỡ trong tam giác dưới hàm nếu có liên quan đến di cĕn[2]. Thực hiện cẩn thận để bảo tồn cuống mạch và thần kinh bờ hàm dưới. Bước 5: Tiếp tục bóc tách dọc theo động tĩnh mạch dưới cằm, cắt tuyến dưới hàm và xác định gân của bụng trước cơ nhị thân. Cắt gân đó và bụng trước cơ nhị thân kèm một phần cơ hàm móng để bảo vệ cuống mạch và các nhánh xuyên do cuống mạch dưới cằm nằm giữa 2 lớp cơ này[2,4,6]. Bước 6: Nếu muốn lấy vạt xương da cơ dưới cằm để tái tạo khuyết hổng nhỏ của xương hàm dưới, xương hàm trên, hay ổ mắt thì một phần xương của bờ dưới xương hàm dưới được lấy với độ dày vừa phải, không được tổn thương xương ổ rĕng và thần kinh huyệt rĕng dưới, cố gắng bảo tồn màng xương nhiều nhất có thể[2,7]. Hình 5. Vạt xương da cơ dưới cằm[2] Bước 7: Tạo đường hầm đủ rộng để đưa vạt đến vị trí khuyết hổng cần tái tạo. Vạt gồm da, mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm dưới nếu cần. Đường mổ dưới cằm có thể được đặt ống dẫn lưu áp lực âm. Khâu da từng lớp. BIẾN CHỨNG Theo dõi các biến chứng chảy máu, nhiễm trùng, hoại tử vạt, liệt thần kinh bờ hàm dưới[2,4,6]. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Tổng cộng 11 bệnh nhân đều là nam giới, tuổi từ 35 đến 69, tuổi trung bình 51,5. Trong đó, có 4 ca bệnh lành tính và 7 ca bệnh ác tính (Bảng 1). Hầu hết bệnh nhân đều được tái tạo khuyết hổng bằng vạt da cơ dưới cằm, chỉ có 1 bệnh nhân bướu nguyên bào tạo men xương hàm trên (T) được tái tạo bằng vạt da cơ dưới cằm kèm một phần xương hàm dưới. Kích thước vạt trung bình 5 x 6.7cm. Chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào bị liệt thần kinh bờ hàm dưới, chảy máu, nhiễm trùng, hay hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân được ngoại trú sau 7 - 11 ngày. Có 4 bệnh nhân phải nạo hạch cổ tận gốc biến đổi và được xạ trị sau mổ, không có trường hợp nào gây hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ sau 2 tháng điều trị. Những bệnh nhân được tái tạo khuyết hổng trong hốc miệng có thể nói nghe dễ hiểu sau 7 - 11 ngày và ngoài hốc miệng là sau 3 - 4 ngày. Bên cạnh đó chức nĕng nhai nuốt của bệnh nhân cũng được chúng tôi đánh giá theo ba loại: chế độ ĕn lỏng (nước suối, nước trái cây, sữa), chế độ ĕn sệt (cháo, ngũ cốc) và chế độ ĕn bình thường. Tất cả bệnh nhân có thể nhai nuốt bình thường sau 2 tháng (Bảng 2). ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 150 Bảng 1. Mô tả đặc điểm của từng bệnh nhân Bệnh nhân Giới tính Tuổi Chẩn đoán Giải phẫu bệnh Điều trị Ngày mổ Kích thước vạt Biến chứng 1 Nam 35 Bướu nhú sàn miệng Bướu nhú Cắt bướu - tạo hình vạt dưới cằm 10/2017 3x4cm Không 2 Nam 69 Bướu hỗn hợp tuyến nước bọt phụ khẩu cái Bướu hỗn hợp có chuyển sản gai Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm 06/2018 4x6cm Không 3 Nam 41 Bướu sợi xoang hàm (P) lan rộng Bướu sợi niêm Cắt bướu - cắt 1 phần xương hàm trên (P) - tạo hình vạt dưới cằm 10/2019 4x7cm Không 4 Nam 64 Bướu nguyên bào tạo men xương hàm trên (T) Bướu nguyên bào tạo men Cắt bướu - cắt 1 phần xương hàm trên (T) - tạo hình vạt dưới cằm kèm 1 phần xương hàm dưới 09/2019 5x8cm Không 5 Nam 49 Sarcôm phần mềm má (P) cT2N0M0 Sarcôm sợi bì lồi Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm 04/2018 6x8cm Không 6 Nam 45 Ung thư da má (P) cT2N0M0 Carcinôm tế bào đáy Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm 10/2018 6x7cm Không 7 Nam 35 Ung thư da má (P) cT2N0M0 Carcinôm tế bào đáy Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm 05/2019 6x8cm Không 8 Nam 56 Ung thư da rãnh mũi má (P) tái phát Carcinôm tế bào đáy, di cĕn hạch cổ (P) nhóm IB Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm - nạo hạch cổ (P) 04/2019 7x8cm Không 9 Nam 52 Ung thư niêm mạc má (T) cT2N0N0 Carcinôm tế bào gai, grad 1, hạch viêm Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm - nạo hạch cổ (T) 01/2019 6x7cm Không 10 Nam 59 Ung thư niêm mạc má (P) cT2N0M0 Carcinôm tế bào gai, grad 3, di cĕn hạch cổ (P) nhóm IB Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm - nạo hạch cổ (P) 09/2019 4x6cm Không 11 Nam 61 Ung thư khẩu cái mềm (P) cT2N0M0 Carcinôm tế bào gai, grad 2, di cĕn hạch cổ (P) nhóm II Cắt rộng - tạo hình vạt dưới cằm - nạo hạch cổ (P) - khai khí đạo 08/2019 4x5cm Không Bảng 2. Vị trí tái tạo khuyết hổng và chức nĕng nói, nuốt Bệnh nhân Giới tính Tuổi Vị trí tái tạo Nói dễ hiểu (ngày) Chức nĕng nuốt 1 tuần 1 tháng 2 tháng 1 Nam 35 Sàn miệng 7 Lỏng Sệt Bình thường 2 Nam 69 Khẩu cái cứng 8 Lỏng Sệt Bình thường 3 Nam 41 Xoang hàm 9 Lỏng Sệt Bình thường 4 Nam 64 Xương hàm trên 10 Lỏng Sệt Bình thường 5 Nam 49 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 6 Nam 45 Da má 3 Bình thường Bình thường Bình thường 7 Nam 35 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 8 Nam 56 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 9 Nam 52 Niêm mạc má 8 Sệt Bình thường Bình thường 10 Nam 59 Niêm mạc má 7 Sệt Bình thường Bình thường 11 Nam 61 Khẩu cái mềm 11 Lỏng Sệt Bình thường ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 151 Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn lựa phương pháp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ, bao gồm: kích thước khuyết hổng, sự thuận lợi trong việc di chuyển vạt tới khuyết hổng, độ tin cậy của vạt và tổng trạng của bệnh nhân. Trong những thập niên gần đây, phương pháp tạo hình được đa số các tác giả ủng hộ trong việc tái tạo lại khuyết hổng lớn sau phẫu thuật ung thư vùng đầu cổ là sử dụng vạt tự do. Đây là vạt có độ tin cậy cao và rất linh động. Tuy nhiên, kỹ thuật vi phẫu đòi hỏi thời gian cuộc phẫu thuật kéo dài, trang thiết bị phức tạp và việc chọn lựa bệnh nhân cũng khắt khe[3]. Vạt dưới cằm là vạt có cuống tại vùng với ưu điểm linh hoạt, thời gian lấy vạt ngắn, thuận lợi cho các khuyết hổng 2/3 dưới vùng đầu cổ, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với da mặt và sẹo khó thấy. Như đa số các tác giả khuyến cáo, không nên sử dụng vạt này trên những bệnh nhân có chỉ định nạo hạch cổ nhóm IA[2,3,6] vì lý do an toàn về mặt ung thư học. Theo Fu-Chan Wei và cộng sự, trong một số trường hợp đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi, vị trí cho vạt có thể đóng bằng ghép da để tránh lực cĕng và hạn chế mở rộng cổ[4]. Ngoài ra, để đảm bảo tưới máu tối ưu, bờ dưới của vạt không nên mở rộng dưới mức sụn giáp[4]. Trong 11 bệnh nhân của chúng tôi, không có trường hợp nào phải ghép da vùng dưới cằm và bờ dưới của vạt không vượt dưới mức sụn giáp. Theo Johan Fagan và cộng sự, sự thông nối động mạch dưới cằm hai bên là 90% các trường hợp[2]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 11 bệnh nhân đều có sự thông nối động mạch dưới cằm hai bên (100%). KẾT LUẬN Vạt dưới cằm là một vạt đa nĕng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với da mặt và sẹo kín đáo. Vạt dưới cằm nên là một lựa chọn không thể thiếu của mỗi bác sĩ phẫu thuật tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. MỘT SỐ HÍNH ẢNH BỆNH NHÂN TRƯỚC VÀ SAU TÁI TẠO VẠT DƯỚI CẰM Hình 6. Ung thư niêm mạc má (P) cT2N0M0 Hình 7. Ung thư da rãnh mũi má (P) tái phát TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Martin D, Pascal JF, Baudet Jet al. The submental island flap: A new donor site. Anatomy and clinical applications as a free or pedicled flap.Plastic and Reconstructive Surgery. 1993; 92: 867 - 73. 2. Johan Fagan, Tareck Ayad, Mohammad Alfalasi. Submental artery island flap for head & neck reconstruction. Open access atlas of ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 152 otolaryngology, head & neck operative surgery. 2017; 1 - 17. 3. Colletti G, Tewfik K, Bardazzi A, et al. Regional flaps in head and neck reconstruction: a reappraisal. J Oral Maxillofac Surg. 2015; 73(3): 571e1 - 571.e10. 4. Fu-Chan Wei, Samir Mardini. Local Flaps in the Head and Neck: Forehead, FAMM, Submental, Nasolabial and Cervicofacial Flaps. Flaps and Reconstructive Surgery-Elsevier. 2016; 31: 375 - 379. 5. A. Syed Khaja Hussain, S.M.Sharma. Evaluation of submental island flap for reconstruction of intraoral defects. 2006;1 – 64. 6. Allen Cheng, DDS, MD, Tuan Bui, MD, DMD. Submental Island Flap. Oral Maxillofacial Surg Clin N Am. 2014;1 – 9. 7. Jose A. Garcia-de Marcos, MD, PhD, Susana Arroyo-Rodriguez, MD, DDS and Juan Rey-Biel, MD. Submental Osteocutaneous Perforator Flap for Maxillary and Mandibular Reconstruction Following Tumor Resection. American Association of Oral and Maxillofacial Surgeons. J Oral Maxillofac Surg 74:860.e1 - 860.e9, 2016.
File đính kèm:
su_dung_vat_duoi_cam_trong_tai_tao_khuyet_hong_vung_dau_co.pdf

