Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ

Vạt dưới cằm được mô tả lần đầu bởi tác giả Martin và cộng sự năm 1993[1]. Vạt có thể lấy ở dạng có

cuống tại vùng hoặc vạt tự do và được cấp máu bởi bó mạch dưới cằm. Thành phần vạt dưới cằm bao gồm da,

mô mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm

dưới nếu cần. Vạt dưới cằm thường được chỉ định cho các khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt như má, môi, hốc

miệng, xoang hàm, khẩu hầu [2][4][6].

Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá kỹ thuật và kết quả sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết

hổng vùng đầu mặt cổ.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 11 trường hợp dùng vạt dưới cằm tái tạo khuyết hổng

vùng đầu mặt cổ được thực hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2017

đến 10/2019.

Kết quả: Qua 11 trường hợp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ bằng vạt dưới cằm, chúng tôi ghi nhận

không có trường hợp nào bị hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ và chức năng nuốt.

Kết luận: Vạt dưới cằm là một vạt đa năng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng

vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với

da mặt và sẹo kín đáo

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ

Sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng vùng đầu cổ
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
147 
SỬ DỤNG VẠT DƯỚI CẰM TRONG TÁI TẠO KHUYẾT HỔNG 
VÙNG ĐẦU CỔ 
ĐOÀN MINH TRÔNG1, ĐẶNG VŨ QUANG2 
TÓM TẮT 
Vạt dưới cằm được mô tả lần đầu bởi tác giả Martin và cộng sự nĕm 1993[1]. Vạt có thể lấy ở dạng có 
cuống tại vùng hoặc vạt tự do và được cấp máu bởi bó mạch dưới cằm. Thành phần vạt dưới cằm bao gồm da, 
mô mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm 
dưới nếu cần. Vạt dưới cằm thường được chỉ định cho các khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt như má, môi, hốc 
miệng, xoang hàm, khẩu hầu[2][4][6]. 
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá kỹ thuật và kết quả sử dụng vạt dưới cằm trong tái tạo khuyết 
hổng vùng đầu mặt cổ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 11 trường hợp dùng vạt dưới cằm tái tạo khuyết hổng 
vùng đầu mặt cổ được thực hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2017 
đến 10/2019. 
Kết quả: Qua 11 trường hợp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ bằng vạt dưới cằm, chúng tôi ghi nhận 
không có trường hợp nào bị hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ và chức nĕng nuốt. 
Kết luận: Vạt dưới cằm là một vạt đa nĕng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng 
vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với 
da mặt và sẹo kín đáo. 
ABSTRACT 
Using submental island flap in reconstruction head and neck defects. Review of 11 cases 
Submental island flap was first time described by Martin et al in 1993. Nourishing by submental vessels, 
submental island flap may be either predicled or free. Submental island flap ingredients include skin, 
subcutaneous tissue, platysma muscle, anterior belly of digastric muscle, a part of mylohoid muscle and a part 
of mandible if needed. Submental island flap has been indicated for 2/3 lower face: Cheeks, lips, oral cavity, 
maxillary sinuses, oropharynx 
Purpose: Initially evaluating techniques and clinical effect of submental island flap in reconstruction head 
and neck defects. 
Patients and Methods: Describe a total of 11 cases of reconstruction head and neck defects by submental 
island flap at Sugery 5 Department - Ho Chi Minh city Oncology Hospital from 10/2017 to 10/2019. 
Results: In 11 cases of recontruction head and neck defects by submental island flap, there was no case 
of partial or total flap necrosis. Most of patients are satisfied with aesthetics and intraoral functions. 
Conclusion: Submental island flap is a versatile flap, which can be applied in many cases to reconstruct 
head and neck defects. This flap has lots of advantages, such as flexible, reliable blood supply, flap skin color 
is nearly identical to facial skin and camouflage scar. 
1
 ThS.BSCKII. Khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 BS. Khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Với các sang thương vùng đầu mặt cổ lan rộng 
sẽ dẫn đến các khuyết hổng lớn sau phẫu thuật, do 
đó đòi hỏi phải tái tạo lại khuyết hổng. Vạt tự do và 
vạt tại vùng là những phương pháp thường dùng để 
tạo hình các khuyết hổng này. Tuy nhiên kỹ thuật 
dùng vạt tự do là một kỹ thuật đòi hỏi nhiều kỹ nĕng 
và trang thiết bị phức tạp. Một trong những lựa chọn 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
148 
có thể thay thế vạt tự do là dùng vạt tại vùng, trong 
đó vạt dưới cằm là một lựa chọn tương đối tốt[3]. 
Do đó chúng tôi thực hiện công trình này nhằm 
đánh giá bước đầu sử dụng vạt dưới cằm cho một 
số khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mô tả loạt ca gồm 11 trường hợp dùng vạt dưới 
cằm tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ được thực 
hiện tại khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu thành 
phố Hồ Chí Minh từ 10/2017 đến 10/2019. 
Vạt dưới cằm 
Vạt dưới cằm được lấy tại vị trí giữa và ngay 
dưới bờ dưới của xương hàm dưới. Kích thước vạt 
phụ thuộc vào khả nĕng may khép da vùng dưới 
cằm, có thể kéo dài giữa hai góc hàm. Kích thước 
vạt có thể lên đến 7 x 18cm[4] gồm: da, mỡ dưới da, 
cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ 
hàm móng và có thể một phần xương hàm dưới nếu 
cần. Toàn bộ vạt có thể chỉ cần cuống mạch dưới 
cằm một bên là đủ bởi vì có sự thông nhau giữa 
mạch máu dưới cằm bên trái và phải[2]. 
Động mạch dưới cằm 
Động mạch dưới cằm chia ra từ động mạch mặt 
tại vị trí cách gốc động mạch mặt khoảng 4.5cm, và 
dưới bờ dưới xương hàm dưới 7mm[4]. Động mạch 
dưới cằm có đường kính 1 - 2mm tại chỗ chia từ 
động mạch mặt[2,4]. Nó đi giữa tuyến dưới hàm và bờ 
dưới xương hàm dưới, hiếm khi nó đi xuyên qua 
tuyến dưới hàm. Sau đó động mạch dưới cằm chạy 
dưới bụng trước cơ nhị thân và trên cơ hàm móng 
(>70%) để đến tam giác dưới cằm[2]. Tại đây nó cho 
các nhánh xuyên đến đám rối dưới da, cơ bám da 
cổ và da. Vị trí của những nhánh xuyên cấp máu cho 
vạt dưới cằm rất biến đổi, đa dạng. Thường có 2 
nhánh xuyên chính ở 2 bên bụng trước cơ nhị 
thân[2]. Những nhánh nhỏ hơn sẽ đi xuyên qua bụng 
trước cơ nhị thân. Động mạch dưới cằm dài khoảng 
6cm, và sự thông nối mạch máu giữa hai bên[2]. 
Động mạch dưới cằm cũng có thông nối với động 
mạch dưới lưỡi dưới cơ hàm móng thông qua một 
nhánh xuyên qua cơ hàm móng[2]. 
Hình 1. Động mạch dưới cằm[5] 
Tĩnh mạch dưới cằm 
Đám rối tĩnh mạch của vạt sẽ đổ về tĩnh mạch 
dưới cằm có đường kính khoảng 2mm. Tĩnh mạch 
dưới cằm đi song song và dưới động mạch dưới 
cằm, trên bề mặt cơ hàm móng rồi đổ về tĩnh mạch 
mặt chung. Tĩnh mạch mặt chung đi cùng động 
mạch mặt, đổ về tĩnh mạch cảnh trong[2][4]. 
Hình 2. Tĩnh mạch dưới cằm[5] 
Sự phân bố thần kinh của vạt 
Cơ bám da cổ được chi phối bởi nhánh cổ của 
thần kinh mặt. Cảm giác vùng dưới cằm được chi 
phối bởi các nhánh thần kinh ngang cổ thuộc đám 
rối cổ[4]. 
Chỉ định 
Khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt: má, môi, hốc 
miệng, xoang hàm, khẩu hầu[2,4,6]. 
Chống chỉ định 
Nhiễm trùng da vùng dưới cằm[2,6]. 
Nạo hạch cổ nhóm IA[2,3,6]. 
Kỹ thuật lấy vạt 
Chuẩn bị tiền phẫu 
Kiểm soát tốt bệnh lý đi kèm: tim mạch, đái tháo 
đường 
Xếp giai đoạn bệnh nếu có. 
Giải thích bệnh nhân về phương pháp phẫu 
thuật và tạo hình. 
Chuẩn bị lúc phẫu thuật 
Sử dụng kháng sinh dự phòng nếu sang 
thương trong hốc miệng. 
Gây mê qua nội khí quản. 
Tiến hành phẫu thuật 
Bước 1: BN nằm ngửa, kê gối dưới vai, cổ 
ngữa tối đa. Dùng tay nhéo vùng da dưới cằm để 
đánh giá tình trạng da, mô dưới da, ước lượng kích 
thước tối đa có thể lấy vạt. Vẽ đường rạch da, bờ 
trên vạt cách bờ dưới xương hàm dưới khoảng 
5mm, chiều dài vạt có thể từ góc hàm này đến góc 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
149 
hàm kia. Dùng đầu dò siêu âm Doppler xác định 
đường đi động mạch mặt: vị trí gần góc hàm, bắt 
ngang bờ dưới xương hàm dưới. 
Hình 3. Dùng tay nhéo vùng da dưới cằm[2] 
Bước 2: Rạch da qua lớp cơ bám da cổ. Bóc 
tách vạt da phần đối diện trong mặt phẳng dưới lớp 
cơ bám da cổ cho đến đường giữa. 
Hình 4. Rạch da qua lớp cơ bám da cổ[2] 
Bước 3: Xác định thần kinh bờ hàm dưới đi 
song song thân xương hàm dưới, giữa lớp cơ bám 
da cổ và động tĩnh mạch mặt. Sau đó, lần lượt nhận 
định động tĩnh mạch mặt bắt chéo phía trong thần 
kinh bờ hàm dưới. 
Bước 4: Lần theo động tĩnh mạch mặt để xác 
định động tĩnh mạch dưới cằm tại chỗ chia. Bóc tách 
dần theo nó, lấy bỏ các hạch nhóm IB và mô mỡ 
trong tam giác dưới hàm nếu có liên quan đến di 
cĕn[2]. Thực hiện cẩn thận để bảo tồn cuống mạch 
và thần kinh bờ hàm dưới. 
Bước 5: Tiếp tục bóc tách dọc theo động tĩnh 
mạch dưới cằm, cắt tuyến dưới hàm và xác định gân 
của bụng trước cơ nhị thân. Cắt gân đó và bụng 
trước cơ nhị thân kèm một phần cơ hàm móng để 
bảo vệ cuống mạch và các nhánh xuyên do cuống 
mạch dưới cằm nằm giữa 2 lớp cơ này[2,4,6]. 
Bước 6: Nếu muốn lấy vạt xương da cơ dưới 
cằm để tái tạo khuyết hổng nhỏ của xương hàm 
dưới, xương hàm trên, hay ổ mắt thì một phần 
xương của bờ dưới xương hàm dưới được lấy với 
độ dày vừa phải, không được tổn thương xương ổ 
rĕng và thần kinh huyệt rĕng dưới, cố gắng bảo tồn 
màng xương nhiều nhất có thể[2,7]. 
Hình 5. Vạt xương da cơ dưới cằm[2] 
Bước 7: Tạo đường hầm đủ rộng để đưa vạt 
đến vị trí khuyết hổng cần tái tạo. Vạt gồm da, mỡ 
dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một 
phần cơ hàm móng và có thể một phần xương hàm 
dưới nếu cần. Đường mổ dưới cằm có thể được đặt 
ống dẫn lưu áp lực âm. Khâu da từng lớp. 
BIẾN CHỨNG 
Theo dõi các biến chứng chảy máu, nhiễm 
trùng, hoại tử vạt, liệt thần kinh bờ hàm dưới[2,4,6]. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Tổng cộng 11 bệnh nhân đều là nam giới, tuổi 
từ 35 đến 69, tuổi trung bình 51,5. Trong đó, có 4 ca 
bệnh lành tính và 7 ca bệnh ác tính (Bảng 1). Hầu 
hết bệnh nhân đều được tái tạo khuyết hổng bằng 
vạt da cơ dưới cằm, chỉ có 1 bệnh nhân bướu 
nguyên bào tạo men xương hàm trên (T) được tái 
tạo bằng vạt da cơ dưới cằm kèm một phần xương 
hàm dưới. Kích thước vạt trung bình 5 x 6.7cm. 
Chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào bị liệt 
thần kinh bờ hàm dưới, chảy máu, nhiễm trùng, hay 
hoại tử vạt. Tất cả bệnh nhân được ngoại trú sau 
7 - 11 ngày. 
Có 4 bệnh nhân phải nạo hạch cổ tận gốc biến 
đổi và được xạ trị sau mổ, không có trường hợp nào 
gây hoại tử vạt. 
Tất cả bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ 
sau 2 tháng điều trị. Những bệnh nhân được tái tạo 
khuyết hổng trong hốc miệng có thể nói nghe 
dễ hiểu sau 7 - 11 ngày và ngoài hốc miệng là sau 
3 - 4 ngày. Bên cạnh đó chức nĕng nhai nuốt của 
bệnh nhân cũng được chúng tôi đánh giá theo 
ba loại: chế độ ĕn lỏng (nước suối, nước trái cây, 
sữa), chế độ ĕn sệt (cháo, ngũ cốc) và chế độ 
ĕn bình thường. Tất cả bệnh nhân có thể nhai nuốt 
bình thường sau 2 tháng (Bảng 2). 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
150 
Bảng 1. Mô tả đặc điểm của từng bệnh nhân 
Bệnh 
nhân 
Giới tính Tuổi Chẩn đoán Giải phẫu bệnh Điều trị Ngày 
mổ 
Kích 
thước vạt 
Biến 
chứng 
1 Nam 35 
Bướu nhú sàn 
miệng Bướu nhú 
Cắt bướu - tạo hình vạt 
dưới cằm 10/2017 3x4cm Không 
2 Nam 69 
Bướu hỗn hợp 
tuyến nước bọt 
phụ khẩu cái 
Bướu hỗn hợp có 
chuyển sản gai 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm 06/2018 4x6cm Không 
3 Nam 41 
Bướu sợi xoang 
hàm (P) lan rộng Bướu sợi niêm 
Cắt bướu - cắt 1 phần 
xương hàm trên (P) - tạo 
hình vạt dưới cằm 
10/2019 4x7cm Không 
4 Nam 64 
Bướu nguyên bào 
tạo men xương 
hàm trên (T) 
Bướu nguyên 
bào tạo men 
Cắt bướu - cắt 1 phần 
xương hàm trên (T) - tạo 
hình vạt dưới cằm kèm 1 
phần xương hàm dưới 
09/2019 5x8cm Không 
5 Nam 49 
Sarcôm phần mềm 
má (P) cT2N0M0 
Sarcôm sợi bì lồi Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm 04/2018 6x8cm Không 
6 Nam 45 
Ung thư da má (P) 
cT2N0M0 
Carcinôm tế bào 
đáy 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm 10/2018 6x7cm Không 
7 Nam 35 
Ung thư da má (P) 
cT2N0M0 
Carcinôm tế bào 
đáy 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm 05/2019 6x8cm Không 
8 Nam 56 
Ung thư da rãnh 
mũi má (P) tái phát 
Carcinôm tế bào 
đáy, di cĕn hạch 
cổ (P) nhóm IB 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm - nạo hạch cổ (P) 04/2019 7x8cm Không 
9 Nam 52 
Ung thư niêm mạc 
má (T) cT2N0N0 
Carcinôm tế bào 
gai, grad 1, 
hạch viêm 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm - nạo hạch cổ (T) 01/2019 6x7cm Không 
10 Nam 59 
Ung thư niêm mạc 
má (P) cT2N0M0 
Carcinôm tế bào 
gai, grad 3, di 
cĕn hạch cổ (P) 
nhóm IB 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm - nạo hạch cổ (P) 09/2019 4x6cm Không 
11 Nam 61 
Ung thư khẩu cái 
mềm (P) cT2N0M0 
Carcinôm tế bào 
gai, grad 2, di 
cĕn hạch cổ (P) 
nhóm II 
Cắt rộng - tạo hình vạt dưới 
cằm - nạo hạch cổ (P) - 
khai khí đạo 
08/2019 4x5cm Không 
Bảng 2. Vị trí tái tạo khuyết hổng và chức nĕng nói, nuốt 
Bệnh 
nhân 
Giới 
tính 
Tuổi Vị trí tái tạo Nói dễ hiểu 
(ngày) 
Chức nĕng nuốt 
1 tuần 1 tháng 2 tháng 
1 Nam 35 Sàn miệng 7 Lỏng Sệt Bình thường 
2 Nam 69 Khẩu cái cứng 8 Lỏng Sệt Bình thường 
3 Nam 41 Xoang hàm 9 Lỏng Sệt Bình thường 
4 Nam 64 Xương hàm trên 10 Lỏng Sệt Bình thường 
5 Nam 49 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 
6 Nam 45 Da má 3 Bình thường Bình thường Bình thường 
7 Nam 35 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 
8 Nam 56 Da má 4 Bình thường Bình thường Bình thường 
9 Nam 52 Niêm mạc má 8 Sệt Bình thường Bình thường 
10 Nam 59 Niêm mạc má 7 Sệt Bình thường Bình thường 
11 Nam 61 Khẩu cái mềm 11 Lỏng Sệt Bình thường 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
151 
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn 
lựa phương pháp tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt 
cổ, bao gồm: kích thước khuyết hổng, sự thuận lợi 
trong việc di chuyển vạt tới khuyết hổng, độ tin cậy 
của vạt và tổng trạng của bệnh nhân. Trong những 
thập niên gần đây, phương pháp tạo hình được đa 
số các tác giả ủng hộ trong việc tái tạo lại khuyết 
hổng lớn sau phẫu thuật ung thư vùng đầu cổ là sử 
dụng vạt tự do. Đây là vạt có độ tin cậy cao và rất 
linh động. Tuy nhiên, kỹ thuật vi phẫu đòi hỏi thời 
gian cuộc phẫu thuật kéo dài, trang thiết bị phức tạp 
và việc chọn lựa bệnh nhân cũng khắt khe[3]. 
Vạt dưới cằm là vạt có cuống tại vùng với ưu 
điểm linh hoạt, thời gian lấy vạt ngắn, thuận lợi cho 
các khuyết hổng 2/3 dưới vùng đầu cổ, nguồn cung 
cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần giống với 
da mặt và sẹo khó thấy. 
Như đa số các tác giả khuyến cáo, không nên 
sử dụng vạt này trên những bệnh nhân có chỉ định 
nạo hạch cổ nhóm IA[2,3,6] vì lý do an toàn về mặt ung 
thư học. 
Theo Fu-Chan Wei và cộng sự, trong một số 
trường hợp đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi, vị trí cho 
vạt có thể đóng bằng ghép da để tránh lực cĕng và 
hạn chế mở rộng cổ[4]. Ngoài ra, để đảm bảo tưới 
máu tối ưu, bờ dưới của vạt không nên mở rộng 
dưới mức sụn giáp[4]. Trong 11 bệnh nhân của 
chúng tôi, không có trường hợp nào phải ghép da 
vùng dưới cằm và bờ dưới của vạt không vượt dưới 
mức sụn giáp. 
Theo Johan Fagan và cộng sự, sự thông nối 
động mạch dưới cằm hai bên là 90% các trường 
hợp[2]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tất 
cả 11 bệnh nhân đều có sự thông nối động mạch 
dưới cằm hai bên (100%). 
KẾT LUẬN 
Vạt dưới cằm là một vạt đa nĕng, có thể ứng 
dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo khuyết hổng 
vùng đầu mặt cổ. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn 
cung cấp máu đáng tin cậy, màu da của vạt gần 
giống với da mặt và sẹo kín đáo. Vạt dưới cằm nên 
là một lựa chọn không thể thiếu của mỗi bác sĩ phẫu 
thuật tái tạo khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. 
MỘT SỐ HÍNH ẢNH BỆNH NHÂN TRƯỚC VÀ SAU 
TÁI TẠO VẠT DƯỚI CẰM 
Hình 6. Ung thư niêm mạc má (P) cT2N0M0 
Hình 7. Ung thư da rãnh mũi má (P) tái phát 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Martin D, Pascal JF, Baudet Jet al. The 
submental island flap: A new donor site. 
Anatomy and clinical applications as a free or 
pedicled flap.Plastic and Reconstructive Surgery. 
1993; 92: 867 - 73. 
2. Johan Fagan, Tareck Ayad, Mohammad Alfalasi. 
Submental artery island flap for head & neck 
reconstruction. Open access atlas of 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
152 
otolaryngology, head & neck operative surgery. 
2017; 1 - 17. 
3. Colletti G, Tewfik K, Bardazzi A, et al. Regional 
flaps in head and neck reconstruction: a 
reappraisal. J Oral Maxillofac Surg. 2015; 73(3): 
571e1 - 571.e10. 
4. Fu-Chan Wei, Samir Mardini. Local Flaps in the 
Head and Neck: Forehead, FAMM, Submental, 
Nasolabial and Cervicofacial Flaps. Flaps and 
Reconstructive Surgery-Elsevier. 2016; 31: 
375 - 379. 
5. A. Syed Khaja Hussain, S.M.Sharma. Evaluation 
of submental island flap for reconstruction of 
intraoral defects. 2006;1 – 64. 
6. Allen Cheng, DDS, MD, Tuan Bui, MD, DMD. 
Submental Island Flap. Oral Maxillofacial Surg 
Clin N Am. 2014;1 – 9. 
7. Jose A. Garcia-de Marcos, MD, PhD, Susana 
Arroyo-Rodriguez, MD, DDS and Juan Rey-Biel, 
MD. Submental Osteocutaneous Perforator Flap 
for Maxillary and Mandibular Reconstruction 
Following Tumor Resection. American 
Association of Oral and Maxillofacial Surgeons. J 
Oral Maxillofac Surg 74:860.e1 - 860.e9, 2016. 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_vat_duoi_cam_trong_tai_tao_khuyet_hong_vung_dau_co.pdf