Sử dụng thuốc trong thai kỳ: thúc đẩy an toàn và giảm thiểu nguy cơ
Tóm tắt: Việc tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân trong thai kỳ còn gặp nhiều khó khăn
do thiếu dữ liệu đáng tin cậy để làm căn cứ đưa ra quyết định cũng như những hạn chế trong
việc ghi nhãn về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ. Việc sử dụng thuốc trong thai kỳ xảy ra
khá phổ biến và ngày càng tăng khi độ tuổi phụ nữ mang thai có xu hướng tăng dần. Dược sĩ
cần thận trọng đánh giá những nguy cơ tiềm tàng trong việc sử dụng thuốc so với nguy cơ
nếu bệnh lý không được điều trị trong thời kỳ mang thai. Khi tư vấn cho bệnh nhân, dược sĩ
nên cung cấp thông tin liên quan đến lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc, từ đó người
mẹ có quyền đưa ra quyết định tốt nhất cho mình và thai nhi của mình.
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng thuốc trong thai kỳ: thúc đẩy an toàn và giảm thiểu nguy cơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng thuốc trong thai kỳ: thúc đẩy an toàn và giảm thiểu nguy cơ
Môc lôc Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy ThS. Đặng Bích Việt DS. Lương Anh Tùng Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - Trường Đại học Dược Hà Nội. Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 Sö DôNG THUèC TRONG THAI Kú: THóC §ÈY AN TOµN Vµ GI¶M THIÓU NGUY C¬ 1 NHIÔM TOAN LACTIC LI£N QUAN §ÕN LINEZOLID 8 TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC (tõ th¸ng 11/2017 ®Õn th¸ng 7/2018) 10 §IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 14 Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến Trung tâm DI & ADR Quốc gia No.3 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 Sö DôNG THUèC TRONG THAI Kú: THóC §ÈY AN TOµN Vµ GI¶M THIÓU NGUY C¬ Nguồn: Medication Use During Pregnancy: Optimizing Safety and Minimizing Risk. US Pharmacist, tháng 9/2017 Người dịch: Đỗ Thị Anh Đào, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lương Anh Tùng Tóm tắt: Việc tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân trong thai kỳ còn gặp nhiều khó khăn do thiếu dữ liệu đáng tin cậy để làm căn cứ đưa ra quyết định cũng như những hạn chế trong việc ghi nhãn về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ. Việc sử dụng thuốc trong thai kỳ xảy ra khá phổ biến và ngày càng tăng khi độ tuổi phụ nữ mang thai có xu hướng tăng dần. Dược sĩ cần thận trọng đánh giá những nguy cơ tiềm tàng trong việc sử dụng thuốc so với nguy cơ nếu bệnh lý không được điều trị trong thời kỳ mang thai. Khi tư vấn cho bệnh nhân, dược sĩ nên cung cấp thông tin liên quan đến lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc, từ đó người mẹ có quyền đưa ra quyết định tốt nhất cho mình và thai nhi của mình. Theo một khảo sát từ năm 2006 đến 2008, trên 90% phụ nữ đã dùng ít nhất một loại thuốc kê đơn hoặc thuốc không kê đơn (OTC) trong thời kỳ mang thai. 70% người được khảo sát sử dụng ít nhất một thuốc kê đơn trong thời kỳ này. Từ năm 1976 đến năm 2008, số lượng phụ nữ sử dụng thuốc kê đơn trong thai kỳ đã tăng trên 2 lần. Nếu chỉ tính trong 3 tháng đầu thai kỳ, số lượng này tăng nhiều hơn 3 lần. Điều đó cho thấy việc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai diễn ra phổ biến và có xu hướng tăng dần theo thời gian. Hơn nữa, tỷ lệ phụ nữ mang thai phơi nhiễm với thuốc có thể gây dị tật thai là 6%; trong đó, 3% trẻ sinh ra có dị tật bẩm sinh về thể chất hoặc tâm thần. Tháng 12/2014, Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) đã ban hành quy định ghi nhãn thuốc dành cho phụ nữ có thai và cho con bú (PLLR) để giải quyết những hạn chế trong ghi nhãn thuốc kê đơn. Trước khi ban hành PLLR, thuốc được chia làm các loại A, B, C, D và X; với A được coi là an toàn và X là có khả năng gây dị tật thai. Cách phân loại này được cán bộ y tế tin tưởng, nhưng thường bị hiểu sai và lạm dụng do không thể hiện chính xác sự khác biệt về mức độ nguy cơ và không cung cấp thông tin có ý nghĩa lâm sàng. Kết quả từ một đánh giá cho thấy chỉ có 4 trong 172 thuốc (2,3%) được FDA Hoa Kỳ phê duyệt từ năm 2000 đến 2010 có đầy đủ dữ liệu để xác định nguy cơ gây quái thai trong khi hơn 70% thuốc (126/172 thuốc) không có dữ liệu trên người để xác định nguy cơ này. Quy định cuối cùng được đưa ra có hiệu lực từ ngày 30/6/2015 đã yêu cầu gỡ bỏ các thông tin về phân loại mức độ an toàn trong thai kỳ trên nhãn thuốc. Quy định này không áp dụng với thuốc không kê đơn. PLLR cũng tích hợp thêm những thay đổi trong ghi nhãn nhằm đưa ra khuôn mẫu thống nhất để cung cấp các thông tin về nguy cơ và lợi ích của việc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai và cho con bú, cũng như việc sử dụng thuốc ở phụ nữ và nam giới trong độ tuổi sinh sản. SỬ DỤNG THUỐC TRONG THAI KỲ: TÌM KIẾM THÔNG TIN Ở ĐÂU? Hiểu biết của dược sĩ về lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc trong thai kỳ và cách sử dụng các nguồn thông tin thuốc để tư vấn cho phụ nữ mang thai đóng vai trò rất quan trọng. Mặc dù chỉ có khoảng 30 loại thuốc được xác định có khả năng gây dị tật thai, nhưng từ sau thảm họa thalidomid, cán bộ y tế có xu hướng coi tất cả các thuốc đều có nguy cơ gây quái thai. Bệnh nhân mang thai thường từ chối sử dụng thuốc, ngay cả khi điều này có thể dẫn đến các biến chứng nặng, thậm chí đe dọa tính mạng. Dược sĩ cần tư vấn cho bệnh nhân bằng các thông tin dựa trên bằng chứng và biết cách tìm kiếm thông tin phù hợp phục vụ cho việc này. Bảng 1 liệt kê một số nguồn thông tin thuốc dựa trên bằng chứng có thể được sử dụng để phục vụ việc tư vấn cho bệnh nhân. Trung tâm DI & ADR Quốc gia 2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2018 THAY ĐỔI DƯỢC ĐỘNG HỌC VÀ DƯỢC LỰC HỌC CỦA THUỐC TRONG THAI KỲ Tính an toàn của việc sử dụng thuốc thường được tập trung chú ý trong 3 tháng đầu thai kỳ do thuốc thường có tác dụng theo nguyên lý “tất cả hoặc không” (thai chết lưu) trong 8 tuần đầu và hầu hết các dị tật bẩm sinh xảy ra sớm trong giai đoạn phát triển. Sự thay đổi chức năng sinh lý của các hệ cơ quan trong cơ thể người mẹ bắt đầu diễn ra trong 3 tháng đầu thai kỳ và đạt đỉnh trong 3 tháng giữa thai kỳ. Những thay đổi chức năng tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận và gan trong thời kỳ mang thai có thể dẫn đến thay đổi dược động học và chuyển hóa của thuốc. Ngoài ra, những thay đổi trên hệ thống protein vận chuyển và enzym cũng làm biến đổi thêm sự chuyển hóa thuốc trong thời kỳ mang thai. Một tổng quan hệ thống gần đây phát hiện có khoảng cách lớn từ kiến thức về sự thay đổi dược động học trong thai kỳ đến việc hiểu được ảnh hưởng lâm sàng của những thay đổi này ở người mẹ và con. Nguy cơ gây quái thai của thuốc nên được cân nhắc theo độ tuổi thai nhi. Nguy cơ tác động trên thai nhi của thuốc đạt mức cao nhất ở giai đoạn phát triển tương ứng của thai (ví dụ nên tránh sử dụng thuốc tác động lên sự phát triển của sụn trong giai đoạn khung xương đang phát triển). Hấp thu: Tăng pH dạ dày trong thời kỳ mang thai có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc có bản chất acid yếu và base yếu. Ngoài ra, buồn nôn, nôn và chậm tháo rỗng dạ dày cũng có thể làm thay đổi sự hấp thu của thuốc. Phân bố: Do tăng lượng mỡ trong cơ thể người mẹ khi mang thai, thể tích phân bố các thuốc thân lipid có thể tăng lên. Thể tích phân bố của các thuốc liên kết nhiều với pro- tein huyết tương tăng lên do nồng độ albu- min giảm. Nồng độ thuốc không liên kết vẫn tương đối ổn định do các thuốc này nhanh chóng được đào thải qua gan và thận. Các thuốc thân lipid sẽ giảm tốc độ thải trừ do có thể tích phân bố lớn hơn. Chuyển hóa: Thay đổi enzym CYP450 ảnh hưởng đến chuyển hóa thuốc trong thời kỳ mang thai. Nồng độ các enzym CYP3A4 và CYP2D6 đều tăng, trong khi nồng độ CYP1A2 giảm. Các nghiên cứu cũng đã ghi nhận sự thay đổi của các enzym uridine 5'-diphosphat g l u c u r o n o s y l t r a n s f e r a s e v à N-acetyltransferase. Ngoài ra, tăng nồng độ estrogen và progesteron cũng làm thay đổi hoạt tính của các enzym gan, có thể làm tăng thải trừ một số thuốc nhưng lại gây tích lũy một số thuốc khác. Bảng 1: Một số nguồn thông tin về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ Nguồn thông tin Đặc điểm Drugs in Pregnancy and Lactation Có bản in hoặc bản điện tử. Briggs G, Freeman R, Towers C, Forinash A. 11th ed. Philadelphia, PA: Wolters Kluwer; 2017. Lexi-Drugs Cung cấp các thông tin cơ bản và chuyên sâu về việc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai. ReproTox Bao gồm Hệ thống thông tin về các thuốc gây dị tật thai (TERIS) và Danh mục các tác nhân gây dị tật thai của Shepard (Shepard’s Catalog of Teratogenic Agents). Cung cấp hệ thống phân loại nguy cơ của thuốc trong thai kỳ của Úc và Hoa Kỳ. MotherToBaby Được hoạt động bởi Tổ chức các chuyên gia về quái thai học (Organization of Teratology Information Specialists). Đây là nguồn thông tin dành cho cả cán bộ y tế và người bệnh liên quan đến nguy cơ, lợi ích của các thuốc và các loại phơi nhiễm khác. Trang web của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) Treating for Two (Điều trị cho cả hai đối tượng): Tài liệu giáo dục dành cho bệnh nhân liên quan đến việc sử dụng một số loại thuốc thường gặp. No.3 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 Thải trừ: Trong thời kỳ mang thai, thể tích huyết tương, cung lượng tim và mức lọc cầu thận của người mẹ tăng lên, có thể dẫn đến giảm nồng độ của các thuốc thải trừ qua thận. Nhìn chung, sự phơi nhiễm của cơ thể với thuốc trong thời kỳ mang thai giảm đi do tăng thải trừ thuốc ở cả dạng liên kết và không liên kết. Điều này có thể đem lại lợi ích trong việc giảm thiểu các biến cố bất lợi trong thai kỳ. SỬ DỤNG THUỐC: AN TOÀN VÀ GÂY HẠI Các nghiên cứu sử dụng thuốc trong thai kỳ thường đưa ra các kết quả có xu hướng “sai lệch chống lại giả thuyết không”, nghĩa là thuốc thường được cho rằng có nhiều khả năng gây dị tật thai hơn là không có tác dụng bất lợi trên thai nhi. Phụ nữ mang thai cũng thường hay báo cáo các kết quả bất lợi (như dị tật bẩm sinh) hơn là báo cáo trường hợp sinh ra trẻ khỏe mạnh. Y văn cũng cho thấy các nghiên cứu phát hiện thuốc không làm tăng nguy cơ biến cố bất lợi thường ít được công bố hoặc ít được truyền thông chú ý đến hơn. Dược sĩ nên lưu ý đến những hạn chế trên và cân nhắc cung cấp thông tin cho bệnh nhân về những hạn chế này. Các thuốc được trình bày trong bài viết này tập trung vào những bằng chứng mới nhất và các vấn đề phụ nữ có thể gặp trong thời kỳ mang thai mà dược sĩ có thể biết đến ít hơn so với các tình trạng phổ biến khác trong thai kỳ, như buồn nôn. Thuốc kháng sinh Điều trị nhiễm trùng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi, giúp dự phòng lây nhiễm và đảm bảo sức khỏe người mẹ. Các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận mối liên quan giữa dị tật bẩm sinh với việc sử dụng nitrofurantoin và sulfamid ở người mẹ trong thai kỳ. Nghiên cứu Quốc gia về Phòng ngừa Dị tật Bẩm sinh (National Birth Defects Prevention Study) là một nghiên cứu hồi cứu đánh giá việc sử dụng kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng tiết niệu, so sánh giữa nitrofurantoin và sulfonamid với penicilin. Nghiên cứu này đã rà soát việc sử dụng thuốc từ thời điểm 1 tháng trước khi thụ thai đến tháng thứ 3 của thai kỳ. Các nghiên cứu viên đã phát hiện mối liên quan giữa nitrofurantoin và dị tật hở vòm miệng; trimethoprim-sulfamethoxazol và teo thực quản và thoát vị hoành bẩm sinh; cephalosporin và hẹp hậu môn trực tràng. Mặc dù phơi nhiễm với những kháng sinh này có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, nhưng tỷ lệ ghi nhận là hiếm gặp. Vì vậy, cần cân nhắc giữa nguy cơ của việc sử dụng kháng sinh với nguy cơ nếu nhiễm khuẩn tiết niệu không được điều trị. Nhiễm khuẩn tiết niệu không phức tạp có liên quan đến hạn chế tăng trưởng của thai nhi trong tử cung và tăng nguy cơ sinh non. Năm 2011, Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetrics and Gynecology - ACOG) đã đưa ra ý kiến có thể kê đơn các kháng sinh này trong 3 tháng đầu thai kỳ nếu việc này được xác định là cần thiết. Thuốc chống đông Thuyên tắc phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người mẹ mang thai. Trong thai kỳ, nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (venous thromboembolism - VTE) tăng 5 lần. Hướng dẫn điều trị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trong thời kỳ mang thai phần lớn bắt nguồn từ các hướng dẫn điều trị cho bệnh nhân không mang thai. Heparin khối lượng phân tử thấp là thuốc ưu tiên sử dụng để điều trị tình trạng này trong thời kỳ mang thai. Warfarin bị chống chỉ định do thuốc dễ dàng đi qua nhau thai và có liên quan đến tình trạng giảm sản xương mũi và bệnh đầu xương lấm chấm nếu được sử dụng trong 3 tháng đầu thai kỳ. Bên cạnh đó, trên một chuỗi ca đánh giá việc sử dụng wafarin trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ ở bệnh nhân có van tim cơ học đã chỉ ra mối liên quan giữa việc dùng warfarin với di chứng thần kinh (như co giật, chậm phát triển, giảm trương lực cơ). Hội Tim Hoa Kỳ (American Heart Association) và Trường môn Tim Hoa Kỳ (American College of Cardiology) cho phép sử dụng warfarin trong quý II và quý III của thai kỳ trong một số trường hợp nhất định. Thuốc điều trị hen và viêm mũi dị ứng Bệnh hen nặng, không kiểm soát được có liên quan đến tăng nguy cơ tiền sản giật, trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non và thai chết lưu. Mối liên quan nhỏ giữa việc sử dụng thuốc điều trị hen và các dị tật bẩm sinh đã được phát hiện; tuy nhiên, việc ngừng hoặc giảm liều thuốc điều trị hen có thể dẫn đến tác hại đáng kể đối với sức khỏe người mẹ. Các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa việc sử dụng thuốc điều trị hen với dị tật bẩm Trung tâm DI & ADR Quốc gia 4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2018 sinh cũng khuyến cáo thận trọng trong việc diễn giải và áp dụng dữ liệu này vào thực hành lâm sàng do có nhiều yếu tố nhiễu trong nghiên cứu (như việc kiểm soát hen). Do việc kiểm soát hen thường thay đổi trong thai kỳ, cần đánh giá định kỳ hàng tháng các triệu chứng hen và chức năng phổi. Salbutamol là thuốc chủ vận beta 2 tác dụng ngắn (SABA) được ưu tiên lựa chọn với nhiều dữ liệu an toàn trên người nhất. Một nghiên cứu thuần tập gần đây phát hiện mối liên quan giữa việc sử dụng SABA với loạn sản thận, nhưng nguy cơ này nên được đánh giá cẩn thận so với nguy cơ nếu ngừng sử dụng thuốc. Corticosteroid dạng hít (ICS) là thuốc điều trị dài hạn được ưu tiên sử dụng. Nhiều nghiên cứu cho thấy ICS không làm tăng nguy cơ trong giai đoạn chu sinh. Tuy nhiên, một số bằng chứng cho thấy mối quan hệ nhân quả tiềm tàng giữa việc sử dụng ICS liều cao với chứng hẹp hậu môn ở trẻ. Budesonid là ICS được ưu tiên sử dụng trong thai kỳ, với nhiều dữ liệu an toàn nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu không chỉ ra rằng các ICS khác không an toàn hoặc cần tránh sử dụng trong thai kỳ. Nên tránh sử dụng corticosteroid đường toàn thân, do có liên quan đến dị tật hở vòm miệng và tác dụng bất lợi trên thai kỳ như trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non, hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung và tiền sản giật. Cromolyn được coi là an toàn để sử dụng trong thai kỳ nhưng có ít hiệu quả hơn ICS. Ngoài ra, dữ liệu an toàn của các thuốc chủ vận beta 2 tác dụng dài (LABA) còn hạn chế, nhưng các thuốc này được kỳ vọng có tính an toàn tương tự salbutamol. Một nghiên cứu thuần tập đã cho thấy mối quan hệ giữa việc sử dụng ICS/LABA và các dị tật bẩm sinh nặng trên tim. Tất cả các nguy cơ tiềm tàng liên quan đến việc sử dụng các thuốc điều trị hen nên được cân nhắc, đồng thời cần lưu ý đến tác hại của bệnh hen, các yếu tố gây nhiễu tiềm tàng và nguy cơ nếu ngừng sử dụng thuốc điều trị hen. Với viêm mũi dị ứng, ưu tiên sử dụng corticosteroid đường mũi. Loratadin và cetirizin là các thuốc kháng histamin thế hệ 2 được khuyế ... báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 10,5% (bảng 2). Trung tâm DI & ADR Quốc gia 12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2018 * Dân số tính theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2016 Hình 3: 10 tỉnh/thành phố gửi báo cáo ADR nhiều nhất S ố l ư ợ n g b á o c á o A D R /1 t ri ệu d â n T ỷ lệ % Bảng 1: Danh sách 10 cơ sở khám, chữa bệnh gửi báo cáo ADR nhiều nhất STT Đơn vị gửi báo cáo Tỉnh/thành phố Số báo cáo Tỷ lệ % (n=7739) 1 Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội 341 4,4 2 Bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh 239 3,1 3 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế VinMec Times City Hà Nội 225 2,9 4 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP. Hồ Chí Minh 206 2,7 5 Bệnh viện Phổi Trung ương Hà Nội 177 2,3 6 Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng Đà Nẵng 132 1,7 7 Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang An Giang 129 1,7 8 Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí Quảng Ninh 127 1,6 9 Bệnh viện Da Liễu TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh 92 1,2 10 Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ Chí Minh 83 1,1 Hình 4: Nhân viên y tế gửi báo cáo ADR No.3 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 13 Bảng 2: Danh sách 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất STT Hoạt chất Số lượng Tỷ lệ % (n=7699) 1 Cefotaxim 810 10,5 2 Diclofenac 466 6,1 3 Ciprofloxacin 404 5,2 4 Ceftriaxon 397 5,2 5 Ceftazidim 320 4,2 6 Amoxicilin/chất ức chế betalactamase 300 3,9 7 Ethambutol 218 2,8 8 Levofloxacin 212 2,8 9 Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 196 2,5 10 Paracetamol 182 2,4 Báo cáo ADR từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm Trong giai đoạn từ tháng 11/2017 đến tháng 7/2018, 34 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR và 39 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo tổng hợp định kỳ về Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh. Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt Nam đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm ghi nhận là 1207 báo cáo, trong đó có 683 báo cáo nghiêm trọng (chiếm 56,6%). Danh sách các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm có số lượng báo cáo ADR cao nhất được tổng hợp trong bảng 3. Ngoài ra, các chế phẩm đang được lưu hành trên thị trường được báo cáo nhiều nhất bao gồm erlotinib (28,7%), dung dịch thẩm phân màng bụng (21,5%), bevacizumab (5,9%), capecitabin (5,1%) và imatinib (4,0%). Bảng 3: Danh sách 10 đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm gửi báo cáo ADR nhiều nhất STT Đơn vị báo cáo Số báo cáo Tỷ lệ % (n=1207) 1 VPĐD Hoffmann La Roche Ltd 467 38,7 2 VPĐD Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd 272 22,5 3 VPĐD Novartis Pharma Services AG 116 9,6 4 VPĐD GlaxoSmithKline Pte Ltd 45 3,7 5 VPĐD Merck Sharp & Dohme (Asia) Ltd 41 3,4 6 VPĐD Boehringer Ingelheim Int GmbH 38 3,1 7 VPĐD Janssen - Cilag Ltd 38 3,1 8 Công ty Sanofi - Aventis Việt Nam 27 2,2 9 Công ty Fresesius Kabi Việt Nam 19 1,6 10 VPĐD A Menarini Singapore Pte Ltd 19 1,6 Báo cáo SAE từ các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng Từ tháng 11/2017 đến hết tháng 7/2018, Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã nhận được 1321 báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng (SAE) trong 62 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được gửi đến từ 50 tổ chức nhận thử tại Việt Nam. Trung tâm DI & ADR Quốc gia 14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2018 Kết luận Như vậy, số lượng báo cáo ADR trong khoảng thời gian 9 tháng (từ tháng 11/2017 đến tháng 7/2018) vẫn có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2017, tuy nhiên cơ cấu báo cáo ADR vẫn tương tự so với giai đoạn trước đó. Cụ thể, số lượng báo cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương, khu vực và các tuyến bệnh viện; dược sĩ là đối tượng chính tham gia báo cáo ADR. Bên cạnh việc báo cáo ADR của các thuốc được sử dụng nhiều (thuốc kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc giảm đau, chống viêm) và các phản ứng có hại thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng phản vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập trung báo cáo phản ứng có hại của các thuốc mới được sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại mới chưa được ghi nhận và các phản ứng có hại cần xét nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm dò chức năng chuyên biệt. Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR. §IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Mai Hoa, Lương Anh Tùng Nguy cơ nhiễm khuẩn vùng sinh dục hiếm gặp nhưng nghiêm trọng khi sử dụng thuốc ức chế SGLT2 điều trị đái tháo đường: Cảnh báo từ FDA Hoa Kỳ Ngày 29/8/2018, Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) đã đưa ra cảnh báo về một số trường hợp nhiễm khuẩn vùng sinh dục hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, được gọi là viêm mô hoại tử vùng đáy chậu hay hoại thư Fournier (Fournier’s gangrene), đã được báo cáo liên quan đến việc sử dụng thuốc ức chế đồng vận chuyển natri - glucose 2 (SGLT2) để điều trị đái tháo đường typ 2. FDA Hoa Kỳ đang yêu cầu bổ sung cảnh báo về nguy cơ trên vào tờ thông tin kê đơn của tất cả các thuốc ức chế SGLT2 và hướng dẫn sử dụng thuốc dành cho bệnh nhân. Thông tin về tương tác thuốc trong tờ hướng dẫn sử dụng không thống nhất: Thông tin từ WHO Theo Bản tin WHO Pharmaceutical Newletter số 4/2018, trong quá trình rà soát tín hiệu an toàn liên quan đến các tương tác thuốc, 4 tương tác đáng chú ý đã được phát hiện. Trong các tờ thông tin sản phẩm được FDA Hoa Kỳ, MHRA và EMA phê duyệt, thông tin về các tương tác thuốc này không thống nhất với nhau. Tương tác metformin-ciprofloxacin/ levofloxacin và nguy cơ hạ đường huyết Tính đến ngày 10/11/2017, Cơ sở dữ liệu về báo cáo ADR của Tổ chức Y tế Thế giới (Vigibase) đã ghi nhận 32 báo cáo hạ đường huyết liên quan đến việc sử dụng đồng thời metformin và ciprofloxacin hoặc levofloxacin. Các báo cáo này hỗ trợ cho cảnh báo của FDA Hoa Kỳ về nguy cơ tương tác giữa thuốc điều trị đái tháo đường và ciprofloxacin hoặc levofloxacin. Các kháng sinh nhóm quinolon này có thể làm tăng tác dụng của metformin. Cảnh báo về nguy cơ này được ghi trên nhãn thuốc được FDA Hoa Kỳ phê duyệt đối với các kháng sinh này, nhưng không được ghi trên nhãn thuốc metformin. Với tờ thông tin sản phẩm được phê duyệt tại Anh, tương tác này không được đề cập trên nhãn thuốc chứa metformin. Cảnh báo liên quan đến tương tác này chỉ được đề cập trong tờ thông tin sản phẩm của thuốc chứa levofloxacin. Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: - Đánh giá bệnh nhân về khả năng mắc hoại thư Fournier nếu bệnh nhân có các biểu hiện của bệnh. - Nếu nghi ngờ bệnh nhân mắc phản ứng có hại này, cần khởi đầu điều trị ngay bằng kháng sinh phổ rộng và tiến hành phẫu thuật để xử trí nếu cần thiết. Ngừng sử dụng thuốc ức chế SGLT2, theo dõi chặt chẽ nồng độ đường huyết và áp dụng biện pháp điều trị thay thế phù hợp để kiểm soát đường huyết. No.3 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 Tương tác sertralin - quetiapin và hội chứng serotonin Tính đến ngày 10/11/2017, Vigibase đã ghi nhận 29 báo cáo về hội chứng serotonin nghi ngờ do sử dụng đồng thời sertralin - quetiapin và 15 báo cáo về hội chứng ác tính do thuốc an thần. Nguy cơ xuất hiện hội chứng serotonin hoặc hội chứng ác tính do thuốc an thần tăng khi sử dụng đồng thời thuốc chống loạn thần, như quetiapin, cho bệnh nhân đang dùng sertralin, như mô tả trong tờ thông tin sản phẩm của sertralin được phê duyệt tại Anh. Khi sử dụng đơn độc, thuốc chống loạn thần quetiapin cũng được báo cáo có thể gây ra hội chứng ác tính do thuốc an thần. Tuy nhiên, nguy cơ hội chứng serotonin tăng khi dùng đồng thời quetiapin và sertralin không được ghi trên nhãn của các thuốc này. Tương tác tacrolimus - acid mycophenolic và nguy cơ tăng nồng độ thuốc trong máu Tính đến ngày 10/11/2017, Vigibase đã ghi nhận 24 báo cáo nghi ngờ do tacrolimus hoặc acid mycophenolic, hoặc tương tác giữa 2 thuốc này, liên quan đến tăng nồng độ thuốc trong máu. Tờ thông tin sản phẩm của acid mycophenolic tại Anh đề cập đến việc phơi nhiễm với thuốc này tăng khi sử dụng đồng thời với tacrolimus (so với khi dùng đồng thời với ciclosporin). Bác sĩ được khuyến cáo lưu ý đến sự gia tăng nồng độ thuốc này và hiệu chỉnh liều acid mycophenolic phù hợp. Tuy nhiên, tờ thông tin sản phẩm của tacrolimus tại Anh không đề cập đến tương tác này. Ngược lại, FDA Hoa Kỳ cảnh báo tương tác này trong tờ thông tin sản phẩm của tacrolimus nhưng không đề cập tới trong tờ thông tin sản phẩm của acid mycophenolic. Tương tác aspirin - dipyridamol và nguy cơ đi ngoài phân đen Tính đến ngày 10/11/2017, Vigibase đã ghi nhận 30 báo cáo đi ngoài phân đen (malaena) nghi ngờ do aspirin (hoặc dipyridamol hoặc tương tác giữa 2 thuốc. Số lượng báo cáo tăng lên đến 85 báo cáo khi bổ sung thuật ngữ xuất huyết tiêu hóa (gastrointestinal haemorrhage). Nhãn thuốc phối hợp 2 hoạt chất này được FDA Hoa Kỳ phê duyệt có đề cập đến “tăng nguy cơ xuất huyết” khi sử dụng aspirin và dipyridamol giải phóng kéo dài. Ngược lại, tờ thông tin sản phẩm phối hợp tại Anh đưa ra thông tin tỷ lệ mắc biến cố xuất huyết không tăng khi dùng đồng thời 2 thuốc. Tuy nhiên, tờ thông tin sản phẩm tại Anh của aspirin (75 mg) nêu rằng có sự gia tăng nguy cơ xuất huyết tiêu hóa khi dùng đồng thời với thuốc chống kết tập tiểu cầu như dipyridamol. Tương tự, tờ thông tin sản phẩm của aspirin tại Hoa Kỳ cũng đề cập đến sự gia tăng nguy cơ khi sử dụng đồng thời aspirin và thuốc chống đông, nhưng không đề cập cụ thể dipyridamol. Hơn nữa, thông tin trong nhãn thuốc dipyridamol cũng không thống nhất: Tờ thông tin sản phẩm tại Hoa Kỳ không đề cập đến nguy cơ xuất huyết và nhãn thuốc tại Anh cho rằng việc sử dụng đồng thời với aspirin không làm tăng nguy cơ chảy máu. Điểm tin đáng chú ý từ bản tin Adverse Drug Reaction tháng 9/2018 của HSA Các thuốc chứa valproat và nguy cơ gây dị tật bẩm sinh - HSA nhắc lại về nguy cơ gây dị tật bẩm sinh của các thuốc chứa valproat. - Valproat là chất gây quái thai liên quan đến dị tật bẩm sinh và các rối loạn phát triển ở trẻ bị phơi nhiễm với thuốc trong tử cung của người mẹ. - Cán bộ y tế nên tư vấn cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản về sự cần thiết sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả khi sử dụng valproat và trao đổi về cân bằng lợi ích - nguy cơ khi phơi nhiễm với thuốc trong thai kỳ. Amoxicilin, amoxicilin/clavulanat và hội chứng quá mẫn do thuốc - Các trường hợp mắc hội chứng quá mẫn do thuốc (Drug reaction with eosinophilia and systemic symptoms - DRESS) đã được ghi nhận tại Singapore và các nước trên thế giới. - Hội chứng DRESS tuy hiếm gặp nhưng có khả năng gây tử vong. Các dấu hiệu và triệu chứng liên quan bao gồm nổi mẩn, sốt, bệnh hạch bạch huyết, bất thường về huyết học và xét nghiệm chức năng gan. Trung tâm DI & ADR Quốc gia 16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2018 Thuốc cản quang chứa iod và nguy cơ thiểu năng tuyến giáp (đặc biệt ở trẻ sơ sinh) - Các trường hợp thiểu năng tuyến giáp sau khi phơi nhiễm với thuốc cản quang chứa iod đã được ghi nhận tại các nước trên thế giới, đặc biệt trên trẻ sơ sinh đủ tháng và thiếu tháng. - Thiểu năng tuyến giáp ở trẻ sơ sinh có thể ảnh hưởng bất lợi đến sự tăng trưởng và phát triển tâm thần của trẻ. - Cán bộ y tế cần đánh giá và theo dõi chức năng tuyến giáp của trẻ sơ sinh phơi nhiễm với thuốc cản quang chứa iod, và tiếp tục theo dõi mọi bất thường ở chức năng tuyến giáp đến khi hồi phục. Cập nhật thông tin về lưu hành, sử dụng thuốc chứa valsartan tại Việt Nam Ngày 31/8/2018, Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế đã có công văn số 16944/QLD-CL cung cấp thông tin về thuốc chứa valsartan. Theo đó, căn cứ thông báo của Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA), Cơ quan Quản lý Dược phẩm Hoa Kỳ, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Đài Loan và một số cơ quan quản lý dược phẩm khác trên thế giới về việc thu hồi các thuốc chứa valsartan được sản xuất từ nguyên liệu valsartan chứa tạp chất N-nitrosodimethylamin (NDMA) của các nhà sản xuất nguyên liệu Zheijang Huahai Pharmaceutical Co. Ltd; Zhuhai Rundu Pharmaceutical Co. Ltd; Zheijang Tianyu Pharmaceutical Co. Ltd; và Hetero Labs Ltd. Nhằm đảm bảo an toàn cho người sử dụng, đồng thời cung cấp thông tin về thuốc chứa valsartan tiếp tục được sử dụng trong phòng bệnh, chữa bệnh, Cục Quản lý Dược thông báo: - Thu hồi, ngừng sản xuất, ngừng nhập khẩu nguyên liệu và các thuốc có chứa valsartan được sản xuất từ nguyên liệu valsartan do các công ty Zhuhai Rundu Pharmaceutical Co. Ltd; Zheijang Tianyu Pharmaceutical Co.Ltd; Hetero Labs Ltd sản xuất (chi tiết các thuốc bị thu hồi: Xem trong công văn). - Cập nhật danh sách các thuốc valsartan đã được công bố tại công văn số 14487/QLD -CL ngày 26/7/2018: + Danh mục 1: Danh sách các thuốc chứa valsartan bị đình chỉ lưu hành, thu hồi (39 thuốc trong nước và 15 thuốc nước ngoài). + Danh mục 2: Danh sách các thuốc chứa valsartan bị tạm dừng nhập khẩu, lưu hành, sử dụng (13 thuốc). + Danh mục 3: Danh sách các thuốc chứa valsartan tiếp tục được lưu hành, sử dụng trong hoạt động phòng bệnh, chữa bệnh (32 thuốc trong nước và 51 thuốc nước ngoài). Liên quan đến vấn đề này, trước đó Cục Quản lý Dược đã có các công văn số 13125/ QLD-CL ngày 10/7/2018 thông báo thu hồi các thuốc chứa valsartan được sản xuất từ nghiên liệu valsartan do Công ty Zhejiang Huahai Pharmaceutical - Trung Quốc sản xuất; công văn số 13441/QLD-CL ngày 13/7/2018 về việc xử lý thuốc chứa hoạt chất valsartan; và công văn số 14487/QLD-CL ngày 26/7/2018 về việc xử lý thuốc chứa dược chất valsartan. Đình chỉ lưu hành, thu hồi sản phẩm nước muối sinh lý SAT BB, số lô ĐL 109 sản xuất ngày 08/6/2018 của Công ty Cổ phần Quốc tế Đại Lợi do không đạt chất lượng Ngày 07/9/2018, Cục Quản lý Dược đã ban hành công văn số 17253/QLD-MP thông báo đình chỉ lưu hành trên toàn quốc lô sản phẩm nước muối sinh lý SAT BB do không đáp ứng yêu cầu về giới hạn vi sinh vật trong sản phẩm (số lô: ĐL 109; ngày sản xuất: 08/6/2018; hạn dùng: 08/6/2020, số tiếp nhận phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm: 1940/17/CBMP-HN) do Công ty Cổ phần Quốc tế Đại Lợi (địa chỉ: Thôn Lưu Xá, xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội) sản xuất. Cục Quản lý Dược cũng yêu cầu Công ty Cổ phần Quốc tế Đại Lợi gửi thông báo thu hồi tới những nơi phân phối, sử dụng lô sản phẩm nêu trên và tiến hành thu hồi toàn bộ lô sản phẩm không đáp ứng quy định; và yêu cầu Sở y tế TP. Hà Nội kiểm tra Công ty cổ phần quốc tế Đại Lợi trong việc chấp hành pháp luật về sản xuất, kinh doanh mỹ phẩm theo quy định tại Thông tư số 06/2011/TT -BYT ngày 25/01/2011 của Bộ Y tế quy định về quản lý mỹ phẩm và các quy định khác có liên quan và giám sát việc thu hồi lô sản phẩm không đáp ứng quy định. Quý đồng nghiệp có thể tham khảo nội dung các văn bản trên tại trang web
File đính kèm:
- su_dung_thuoc_trong_thai_ky_thuc_day_an_toan_va_giam_thieu_n.pdf